Hoàng thân nhà Nguyễn- Nguyễn Phúc Bửu Thạch (bên trái) mặc áo tấc trong lễ tế Nam Giao | |
Thể loại | Trang phục |
---|---|
Chất liệu | Vải, lụa |
Xuất xứ | Việt Nam |
Áo tấc hay còn được biết đến với các tên gọi như áo ngũ thân tay thụng, áo lễ, áo thụng (ở miền Nam thường gọi là áo rộng), là một trang phục truyền thống của Việt Nam trong thời phong kiến. Áo được mặc cùng với quần dài, che phủ từ cổ đến hoặc vượt qua đầu gối, phù hợp cho nam và nữ với cổ áo đứng và cài khuy bên phải (của người mặc). Phần tà áo được ghép từ năm mảnh vải, tương tự như áo ngũ thân tay chẽn nhưng với tay dài và thụng. Đây là loại trang phục lễ nghi trang trọng trong triều Nguyễn và sau này, có thể xem như là phiên bản cổ của áo Vest hiện đại. Tên gọi 'áo tấc' bắt nguồn từ chiều rộng của viền áo chính xác là một tấc (tương đương 10 cm).
Trước đây, người ta thường kết hợp áo tấc với mũ tú tài hoặc khăn đóng.
Lịch sử
Trước khi áo ngũ thân trở thành phổ biến, trang phục chính của người Việt là áo giao lĩnh và áo viên lĩnh. Áo giao lĩnh có hai cổ áo giao nhau, mặc kèm với yếm, váy, và thắt lưng buông. Áo viên lĩnh tương tự như áo giao lĩnh nhưng có cổ tròn. Người xưa đi bằng chân đất, những người quyền quý thường mang guốc gỗ hoặc dép giày. Ngoài ra, còn có kiểu áo tứ thân gồm bốn vạt: hai vạt trước (phải và trái) và hai vạt sau (phải và trái). Áo ngũ thân được thiết kế bởi chúa Nguyễn Phúc Khoát với cổ áo đứng và cài khuy. Áo che kín thân hình và không để lộ áo lót. Mỗi vạt áo đều có hai thân nối sống, tổng cộng là bốn, tượng trưng cho tứ cha mẫu. Vạt thứ năm nằm dưới vạt trước tượng trưng cho người mặc áo. Vạt con được nối với hai vạt khác qua cổ áo có bâu đệm và được khép kín bằng năm chiếc khuy. Trong ngày thường, người ta thường mặc áo chẽn tay để tiện lợi, nhưng trong các dịp lễ lạt thường người ta sẽ mặc áo tay thụng, hay còn gọi là áo tấc.
Chất liệu
Áo tấc xưa thường được may từ các loại vải như tơ tằm: sa, gấm, đoạn... Trong mùa hè nóng, người ta thường dùng sa/the, còn vào mùa đông thì thường dùng gấm và đoạn.