Yếm (Chữ Nho: 肚兜/兜子 đỗ đâu/đâu tử, Chữ Nôm: 裺 hoặc 𧞣) là mảnh vải hình vuông che ngực được phụ nữ và trẻ em ở Trung Quốc và Việt Nam sử dụng.
Những nét lịch sử
Ở Việt Nam
Áo yếm có nhiều kiểu dáng như yếm cổ xây với cổ tròn, yếm cổ xe với cổ nhọn hình chữ V, và yếm cổ nhạn với cổ hình chữ V sâu hơn. Nam giới cũng mặc yếm dưới dạng nội y, với các kiểu trung y và hạ y như áo trường vạt hoặc mã khố (馬袴) (quần dài có đáy xẻ trước sau). Khi mặc vạt áo dài che hạ bộ hoặc có giáp thì hạ y sẽ là độc tị côn (犢鼻褌) (quần ngắn xẻ hai bên). Các quân binh, xã viên, và nông dân (đội xuân lôi tiểu lạp), ngư dân (đội ngư lạp), quân luyện tập binh khí, mã vệ quân, nghi trượng quân có thể mặc khố (袴) (dải nhuyễn che hạ bộ như con lươn). Nữ giới mặc yếm làm nội y, trung y với 1 đến 3 sắc áo bù long hoặc áo tràng vạt, và hạ y thường là váy đụp trong. Trẻ nữ bần hàn hoặc thị nữ mặc tiểu y (小衣) (váy ngắn). Nông dân, ngư dân mặc côn (裩) (váy sắn cố định), còn cô đầu, dật sinh, vũ nữ, và kĩ sinh diễn trò Xuân phả thường mặc hoành lặc khố (横勒袴) (dải gấm thêu 7 sắc hoa văn chia nhiều thùy lưu quanh nhuyễn).
Trung Quốc
Theo ghi chép lịch sử, yếm bắt nguồn từ thói quen mặc của Dương quý phi triều Đường, thường được gọi là Đỗ-đâu (肚兜, Wrap for the belly), Đâu-đỗ (兜肚, Belly wrap), hoặc Đâu-đâu (兜兜, Little wrap, Wrappy). Tuy nhiên, các bằng chứng khảo cổ đã chỉ ra rằng loại áo che ngực này đã tồn tại từ thời Tần, được gọi là Tiết-y (褻衣).
Vào thời Minh, các bé gái bắt đầu mặc yếm từ lúc ba tuổi. Xung quanh áo thường buộc những túi nhỏ chứa gừng, xạ hương và các loại thảo mộc khác để điều hòa khí trong cơ thể. Thời kỳ này, yếm thường được nhuộm đỏ với niềm tin xua đuổi tà ma theo tín ngưỡng dân gian Trung Hoa. Tuy nhiên, đến thời Thanh, yếm còn được dùng để ép ngực phẳng, vì thế thường được may bó chặt. Mãi đến năm 1927, luật cấm kiểu may này được ban hành sau nhiều năm tranh cãi, bắt đầu từ Quảng Đông và sau đó lan rộng toàn quốc.
Ngày nay, yếm đã trở thành một xu hướng được ưa chuộng trong ngành thời trang phương Tây, với sự xuất hiện của các thương hiệu danh tiếng như Versace, Versus, Miu Miu. Xu hướng này cũng đã quay trở lại Trung Quốc, nơi nhiều nhà thiết kế thời trang, bao gồm cả nữ diễn viên Chương Tử Di, đã kết hợp yếm với trang phục thể thao. Nhiều người Trung Quốc truyền thống (đôi khi còn nghiêm khắc) đã phản đối mạnh mẽ sự đổi mới này.
Nhật Bản
Tại Nhật Bản, trẻ em thường mặc yếm kiểu đào và đóng khố.
Đặc điểm
Yếm, với vai trò là phụ kiện, có nhiều kiểu dáng khác nhau tùy thuộc vào người dùng và thợ may. Loại đơn giản nhất có dạng hình thang với đáy nhỏ hơn phía trên, có dây để buộc sau cổ hoặc choàng qua. Hai phần vải ở đáy dưới thường dài, vòng qua và thắt nút ở sau eo. Các mẫu yếm phức tạp hơn có thể rộng hơn ở giữa, với dây vòng qua lườn và thắt chặt. Loại yếm này thường che kín từ ngực đến rốn, nhưng để hở nách.
Trẻ sơ sinh thường được mặc yếm đỏ để cầu phúc và xua đuổi tà ma, còn khi trưởng thành, chỉ nữ giới mới tiếp tục sử dụng yếm.
Ngoài màu vàng hoàng gia đặc trưng của hoàng đế, các màu khác có thể thay đổi. Phụ nữ thường chọn các màu như trắng, mỡ gà, điều, bã trầu, hoa cà, nâu, và hiếm hơn là nõn chuối, cánh trả, gốm. Theo thi phẩm Thập giới cô hồn quốc ngữ văn của Lê Thánh Tông, các hoa nương thường thích mặc 'yếm chéo cánh với cạnh thêu', với màu sắc như 'lục cổ vẹt, đỏ tiết dê, xống dang chân thắt đáy'. Đặc biệt, Tiện phục của Mệnh phụ có trâm bướm yếm đào thêu hoa văn, kết hợp ba sắc áo bổ long, vi quần và hai sắc nhuyễn, tạo thành bộ y phục đầy đủ ngũ hành và vẻ đẹp kỳ lạ như hồ điệp tiên nữ, có thể là phiên bản của áo tứ thân thời Nguyễn.
Những người thuộc tầng lớp thượng lưu thường chọn yếm dệt từ lụa hoặc thổ cẩm, trong khi dân cư thuộc tầng lớp thấp hơn thường dùng vải kém bền như bông hoặc tơ chuối. Mặt yếm có thể được thêu các họa tiết như hoa, bướm, uyên ương, và đôi khi còn có các hình ảnh như con dơi (tượng trưng cho phúc), quả ổi (tượng trưng cho lộc), quả đào (tượng trưng cho thọ), hoặc các biểu tượng đạo đức.
Trong suốt thời kỳ Minh - Thanh, với những tiêu chuẩn đạo đức ngày càng nghiêm ngặt, yếm thường được dùng để ép phẳng ngực phụ nữ; các gia đình quý tộc thường chọn vải dày hoặc các chất liệu như đồng, bạc, vàng, đôi khi còn trang trí thêm cườm hoặc kim tuyến. Đồng thời, phần nách áo cũng được mở rộng để che phủ kỹ càng hơn. Ngày nay, chỉ còn yếm của người An Nam giữ được những nét truyền thống nguyên thủy.
Hiện diện trong nghệ thuật
Vở chèo Tống Trân Cúc Hoa
Trong vở chèo Tống Trân Cúc Hoa do đạo diễn Doãn Hoàng Giang dàn dựng, nhân vật Cúc Hoa đã bán tấm yếm đào của mình để lấy tiền cho Tống Trân thi cử. Cúc Hoa đã nói trong vở chèo:
Khi chàng lên đường ứng thí
Em muốn chàng ra đi với tâm trạng vui vẻ
Nên em đã bán tấm yếm hồng của mình
Với giá rẻ để chàng sớm lên đường.
— Cúc Hoa
Tấm lụa đào của Cúc Hoa, vốn là một món đồ quý giá được làm từ lụa tốt, đã trở thành vật bất ly thân của nàng. Kể từ khi đồng hành cùng Tống Trân và trải qua nhiều khó khăn, chỉ còn lại tấm yếm đào từ thời con gái được nàng gìn giữ. Dù phải bán đi, nhưng đây là biểu hiện của tình yêu và sự hy sinh của nàng dành cho chồng. Theo kịch bản, Cúc Hoa bán được bốn quan tiền, tương đương với một số lượng gạo khá lớn vào thời điểm đó. Mặc dù số tiền này không hề nhỏ, nhưng điều quan trọng là ý nghĩa biểu tượng của tấm yếm trong câu chuyện.
Khi biết chuyện, Tống Trân yêu cầu vợ hoàn trả số tiền: 'Em hãy lấy bốn quan tiền trả lại cho người bán, rồi mặc yếm vào, để anh yên tâm lên đường'.
Thập giới cô hồn quốc ngữ văn
Không quan tâm việc nữ công,
Chỉ lo vẻ đẹp sắc sảo.
Rẽ mi, đánh phấn,
Tự làm đẹp với má hồng.
Răng đen cười lộ, như ngọc hoa,
Trán rộng như vân trận, đẹp như hoa mai.
Nụ vàng cài, quạt ngọc điểm,
Búp dong xanh, yếm chéo cánh, cạnh thêu,
Lục cổ vẹt, đỏ tiết dê, xống thắt đáy.
Tiếng cười lả lơi,
Nết làm quý phái và thanh nhã.
Say sưa, bàn luận chuyện tình,
Đón nhân tình bằng vẻ mỡ,
Đắm say trong trăng gió, mệt mỏi với thế sự.
Tại quán Sở, lầu Tần,
Chấp chới với nàng Diêu và Ngụy.
Quấn quýt, dập dìu tin bướm ong,
Kết bạn, tìm chồng quyền quý, luyến tiếc rằng tôi thương tôi thảm,
Đưa người đi, tiếp khách mới, chào đón anh lối đi lối về.
— Lê Thánh Tông
Ca dao
Chưa có chồng thì nón quai thao còn nguyên
Nhưng khi đã có chồng, nón lại rách quai.
Chưa có chồng, yếm đỏ còn đeo hoa
Khi đã có chồng, hai vú lại bị lộ rõ.
Cô ơi, yếm đỏ tươi tắn,
Sao không nhờ mẹ nhuộm cho đậm hơn?
Ước gì anh được ở gần,
Để anh giúp cô nhuộm thêm đậm sắc.
Chim cốc bay lượn quanh ao,
Rủ rỉ cánh làm tổ cho chị nương.
Yếm đỏ mà nhuộm hoa,
Như cái răng đỗ làm mắm cho anh.
Yếm đỏ vã nước hồ,
Vã đi vã lại, yêu đương với anh.
- Áo ngực
- Váy đụp
- Khố
Trang phục |
---|