Thông tin này được chia sẻ tại Hội nghị về tình hình và đề xuất nhiệm vụ, giải pháp tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ sản xuất kinh doanh 6 tháng cuối năm do Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổ chức vào ngày 27/6.
Tại Hội nghị, bà Đỗ Thị Thúy Hương, Phó Chủ tịch Hiệp hội Công nghiệp Hỗ trợ Việt Nam (VASI), Uỷ viên Ban chấp hàng Hiệp hội Doanh nghiệp điện tử Việt Nam (VEIA) cho biết, tác động của đại dịch COVID-19, xung đột giữa Nga - Ukraine và chính sách Zero-Covid của Trung Quốc đã khiến giá nhiên, nguyên liệu tăng phi mã, chuỗi cung ứng sản xuất linh kiện bị gián đoạn, ảnh hưởng nghiêm trọng tới ngành công nghiệp hỗ trợ Việt Nam, nhất là ngành công nghiệp sản xuất linh kiện điện tử.
Do thiếu vật liệu sản xuất, các doanh nghiệp điện tử Việt Nam đã phải giảm sản lượng. Riêng trong tháng 5/2022, sản lượng giảm 20%. Ngoài ra, ngành công nghiệp hỗ trợ và ngành sản xuất linh kiện điện tử cũng đối mặt với tình trạng thiếu lao động, đặc biệt là lao động có tay nghề và trình độ cao.
Tuy nhiên, theo bà Hương, ngành sản xuất linh kiện điện tử Việt Nam vẫn có một số lợi thế nhất định, như được hưởng lợi từ xu hướng dịch chuyển chuỗi cung ứng. Các tập đoàn lớn trên thế giới đang dần dịch chuyển nhà máy và chuỗi sản xuất từ Trung Quốc sang các nước khác.
Trong đó, các nhà sản xuất trong chuỗi cung ứng toàn cầu của các tập đoàn lớn dần tập trung vào Việt Nam: Apple đã chuyển 11 nhà máy của các doanh nghiệp Đài Loan (Trung Quốc) trong chuỗi cung ứng của hãng này sang Việt Nam; nhiều hãng khác như Foxconn, Luxshare, Pegatron, Wistron cũng mở rộng cơ sở sản xuất tại Việt Nam.
Samsung đang xây dựng trung tâm nghiên cứu và phát triển lớn nhất của Tập đoàn tại khu vực Đông Nam Á với giá trị 220 triệu USD tại Hà Nội, và cũng đang có kế hoạch mở rộng nhà máy tại Bắc Ninh, Thái Nguyên. Đầu năm nay, Đồng Nai đã cấp giấy phép đầu tư cho 2 dự án 100 triệu USD của nhà cung cấp linh kiện cho Samsung là công ty Hansol Electronics Việt Nam (Hàn Quốc).
Để hiểu được cơ hội này, Phó Chủ tịch VASI đề xuất Chính phủ áp dụng các chính sách chọn lọc quy mô lớn để thu hút các tập đoàn nước ngoài đến Việt Nam. Tuy nhiên, những chính sách này phải đi kèm với điều kiện sản xuất sạch, bảo vệ môi trường và không gây ô nhiễm. Bà Hương cũng đề xuất một số vấn đề như việc có thêm các chính sách hỗ trợ nâng cao chất lượng lao động; các cơ quan chức năng cần tạo điều kiện thuận lợi hơn cho doanh nghiệp tiếp cận các chính sách hỗ trợ tín dụng của Chính phủ.
Đón đại bàng nhưng phải bảo vệ tài nguyên mềm cho doanh nghiệp trong nước
Trước đó, trong một cuộc trao đổi với báo chí, bà Hương đã cho biết, nguyên nhân chính của việc các chuỗi cung ứng dịch chuyển sang Việt Nam, phần lớn đến từ việc Trung Quốc đã phát triển ngành công nghiệp điện tử và công nghệ thông tin đến mức tương đối cao. Trong chuỗi cung ứng toàn cầu, họ đã phát triển lên mức độ cao hơn, không chỉ dừng lại ở việc lắp ráp đơn giản như trước. Việt Nam có điều kiện tương tự với Trung Quốc trong lĩnh vực sản xuất điện tử, cả về lao động và vị trí địa lý, cơ sở hạ tầng, logistics... và sẽ rất phù hợp để tiếp nhận dòng dịch chuyển vốn, cũng là dòng dịch chuyển về công nghệ.
Phó Chủ tịch VASI cho rằng, liên quan đến việc thu hút các tập đoàn nước ngoài lớn, trong giai đoạn ban đầu, khi doanh nghiệp trong nước vẫn còn yếu, chắc chắn phải thu hút FDI, nhưng phải có sự điều chỉnh. Lúc này cần sự can thiệp của Nhà nước, không chỉ hỗ trợ các doanh nghiệp nước ngoài, mà còn có môi trường ưu đãi hỗ trợ cho doanh nghiệp Việt để họ có đủ năng lực tiếp nhận công nghệ, từng bước sẽ làm chủ công nghệ để có khả năng cạnh tranh, giữ chân được thị trường trong nước. Nếu doanh nghiệp không đủ mạnh, họ sẽ không thể bảo vệ 'nguồn tài nguyên mềm' của mình, đó là thị trường trong nước.
Thứ nhất, mở cửa cho FDI nhưng phải chọn lọc công nghệ nguồn gốc, không cạnh tranh trực tiếp với các công nghệ đã có sẵn của doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp trong nước. FDI vào Việt Nam cần tạo ra hiệu ứng lan tỏa, tạo ra công việc và cơ hội cho doanh nghiệp trong nước tham gia vào chuỗi cung ứng của FDI, đồng thời tạo ra cơ hội tiếp nhận và chuyển giao công nghệ tiên tiến.
Thứ hai, công nghệ mang vào Việt Nam không được là công nghệ tiêu thụ nhiều năng lượng không tái tạo, gây hại cho môi trường. Nếu FDI vào Việt Nam là nhà sản xuất đầu chuỗi, kèm theo một loạt nhà cung ứng nước ngoài để cạnh tranh với doanh nghiệp Việt, tiêu thụ toàn bộ đất đai và các nguồn tài nguyên không tái tạo của mình để hưởng lợi cho chính họ thì Việt Nam sẽ không có lợi ích gì.
Bên cạnh việc ưu đãi, Chính phủ cần đặt điều kiện cho họ. Ví dụ, một nhà sản xuất đầu chuỗi vào Việt Nam cần phải đề ra mục tiêu phát triển bao nhiêu nhà cung ứng là doanh nghiệp Việt trong 5 năm đầu tiên, và sau đó 5 năm tiếp theo. Như vậy, doanh nghiệp Việt mới có cơ hội sử dụng thị trường trong nước của mình và tham gia vào sân chơi toàn cầu, tạo ra việc làm và cơ hội học hỏi, nâng cao kỹ năng cho lao động.
Link bài viếtLink bài viết: https://cafef.vn/apple-da-chuyen-11-nha-may-trong-chuoi-cung-ung-cua-ho-sang-viet-nam-20220629065019239.chn