Robben trong màu áo Bayern Munich năm 2015 | |||
Thông tin cá nhân | |||
---|---|---|---|
Tên đầy đủ | Arjen Robben | ||
Ngày sinh | 23 tháng 1, 1984 (40 tuổi) | ||
Nơi sinh | Bedum, Hà Lan | ||
Chiều cao | 1,80 m | ||
Vị trí | Tiền đạo cánh | ||
Sự nghiệp cầu thủ trẻ | |||
Năm | Đội | ||
1989–1996 | vv Bedum | ||
1996–2000 | Groningen | ||
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp* | |||
Năm | Đội | ST | (BT) |
2000–2002 | Groningen | 50 | (8) |
2002–2004 | PSV | 56 | (17) |
2004–2007 | Chelsea | 67 | (15) |
2007–2009 | Real Madrid | 50 | (11) |
2009–2019 | Bayern Munich | 201 | (99) |
2020–2021 | Groningen | 6 | (0) |
Tổng cộng | 426 | (150) | |
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia | |||
Năm | Đội | ST | (BT) |
1999 | U-15 Hà Lan | 1 | (0) |
1999–2000 | U-16 Hà Lan | 11 | (4) |
2000 | U-17 Hà Lan | 3 | (1) |
2001–2002 | U-19 Hà Lan | 8 | (2) |
2001–2003 | U-21 Hà Lan | 8 | (1) |
2003–2017 | Hà Lan | 96 | (37) |
Thành tích huy chương | |||
*Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ tại giải quốc gia |
Arjen Robben (phát âm tiếng Hà Lan: [ˈɑrjən ˈrɔbə(n)] ( nghe); sinh ngày 23 tháng 1 năm 1984) là cựu cầu thủ bóng đá người Hà Lan thi đấu ở vị trí tiền đạo cánh.
Robben nổi lên từ câu lạc bộ Groningen từ mùa giải 2000-2001 tại giải vô địch Hà Lan. 2 năm sau, anh ký hợp đồng với PSV, CLB mà ở đó anh đã giành được chức vô địch Hà Lan và được trao Giải thưởng Johan Cruyff . Một số câu lạc bộ hàng đầu ở giải Ngoại hạng Anh đã theo đuổi để giành lấy chữ ký của Robben. Tuy nhiên, sau khi kết thúc mùa giải 2004, câu lạc bộ Chelsea mới có được chữ ký chính thức của cầu thủ chạy cánh người Hà Lan.
Sự khởi đầu của Robben tại Chelsea không được thuận lợi khi anh liên tục dính chấn thương, nhưng sau khi trở lại Robben đã góp phần không nhỏ vào chức vô địch giải ngoại hạng của Chelsea. Mùa giải 2004-05, anh cũng nhận được danh hiệu cầu thủ hay nhất tháng 11 năm 2005. 3 mùa giải ở Anh, mặc dù thi đấu khá ấn tượng mỗi lần ra sân nhưng anh liên tục bị hành hạ bởi những chấn thương, biệt danh 'Đôi chân pha lê' cũng đã gắn liền với tên tuổi Robben. Bắt đầu mùa giải 2007-2008, Robben chuyển sang thi đấu cho Real Madrid với hợp đồng trị giá 35 triệu Euro. Trong mùa giải đầu tiên khoác áo Real, Robben đã giành chức vô địch Tây Ban Nha, và cũng là chức vô địch quốc gia thứ 4 anh giành được trong 6 năm thi đấu. Tháng 8 năm 2009, Robben chuyển tới Bayern Munich với giá 25 triệu Euro và ngay trong ngày ra mắt câu lạc bộ mới anh đã ghi 2 bàn thắng đẹp mắt vào lưới Wolfsburg.Trong mùa giải đầu tiên của anh ở CLB, Bayern đã giành được chức vô địch Bundesliga, đây cũng là chức vô địch quốc gia thứ năm của anh trong 8 năm, và lọt vào đến trận chung kết UEFA Champions League 2010. sau mùa giải đầu tiên của mình với CLB vùng Bavarian, Robben còn được trao danh hiệu cầu thủ bóng đá xuất sắc nhất năm tại Đức. Ngày 4 tháng 7 năm 2019, Arjen Robben chính thức giã từ sự nghiệp thi đấu quốc tế sau 20 năm thi đấu chuyên nghiệp. Tuy nhiên năm 2020, anh đã bất ngờ quay trở lại sân cỏ để thi đấu cho Groningen.
Khởi đầu sự nghiệp
Robben sinh ra tại thị trấn Bedum, tỉnh Groningen, Hà Lan, và bắt đầu sự nghiệp bóng đá từ khi còn rất nhỏ. Anh đã thi đấu cho CLB địa phương VV Bedum. Nhờ khả năng điều khiển bóng và kỹ thuật dẫn bóng xuất sắc, Robben đã thu hút sự chú ý của các huấn luyện viên tại Groningen và nhanh chóng kí hợp đồng chuyên nghiệp với CLB.
Sự nghiệp câu lạc bộ
Groningen
Robben gia nhập CLB Groningen trong mùa giải 1999-2000 và ghi được 2 bàn thắng trong giải vô địch quốc gia cùng năm. Huấn luyện viên Jan van Dijk đã đưa Robben vào đội hình chính của Groningen vào tháng 11 năm 2000 trong trận đấu với Twente. Sau đó, Robben nhanh chóng giành được vị trí chính thức trong đội hình. Trong mùa giải 2000-2001, anh đã ghi được 2 bàn thắng trong 19 lần ra sân. Tiếp tục chơi cho Groningen trong mùa 2001-2002, Robben đã tham gia 28 trận và ghi được 6 bàn thắng. Anh chuyển sang PSV với mức phí chuyển nhượng là 3.9 triệu Euro vào đầu mùa giải 2002-2003.
PSV
Mùa đầu tiên ở PSV, Robben thi đấu 33 trận và ghi được 12 bàn. Anh đã cùng Mateja Kezman tạo thành cặp đôi 'Batman và Robben', giúp PSV giành chức vô địch lần thứ 17 và Robben được vinh danh là cầu thủ triển vọng của Hà Lan. Trong trận gặp Manchester United, Alex Ferguson đã chú ý tới tài năng của Robben và Chelsea đã chi đậm 18 triệu Euro để có được sự phục vụ của anh.
Chelsea
Robben không ra sân cho Chelsea cho đến tháng 11 năm 2004 do chấn thương. Anh bị gãy xương bàn chân sau va chạm với Olivier Dacourt trong trận giao hữu trước mùa với Roma.
Sau khi trở lại từ chấn thương, Robben đã chứng tỏ giá trị của mình trong mùa giải 2004-05 của Chelsea. Anh giành danh hiệu cầu thủ hay nhất tháng 11 năm 2004 và kết thúc mùa giải với 7 bàn thắng. Robben cũng được đề cử cho giải thưởng cầu thủ trẻ xuất sắc nhất, mặc dù cuối cùng đã để Wayne Rooney vượt qua.
Real Madrid dưới sự chỉ đạo của huấn luyện viên Bernd Schuster và chủ tịch Ramon Calderon rất quan tâm đến Robben, cầu thủ chạy cánh người Hà Lan.
Robben gia nhập Real Madrid vào tháng 8 năm 2007. Anh đã chia sẻ trên trang web chính thức của Chelsea: 'Việc rời đi đây thật khó khăn với tôi sau 3 năm tuyệt vời, nơi đây tôi có rất nhiều bạn bè. Tôi cảm ơn mọi người vì đã luôn ủng hộ tôi. Trong 3 năm ở đây, tôi đã giành được mọi danh hiệu của bóng đá Anh.'
Real Madrid
Robben đã chuyển đến Madrid với hợp đồng kéo dài 5 năm vào ngày 22 tháng 8 năm 2007 với mức giá 24 triệu bảng Anh (35 triệu Euro). Anh đã có màn ra mắt ấn tượng vào ngày 18 tháng 9 trong trận gặp Werder Bremen tại UEFA Champions League. Với tốc độ và kỹ thuật, Robben nhanh chóng chiếm lĩnh vị trí chính thức trên cánh trái của hàng tiền vệ Real Madrid.
Mặc dù đã chứng tỏ giá trị của mình, nhưng trước mùa giải 2009-10, Robben không thể cạnh tranh với bom tấn Kaká của Real Madrid từ AC Milan. Real đã chấp nhận đề nghị 25 triệu Euro từ Bayern Munich để bán Robben, dù anh không muốn ra đi.
Bayern Munich
Ngày 28 tháng 8 năm 2009, Robben chuyển đến Bayern với giá 25 triệu Euro. Anh khoác áo số 10, chiếc áo của cựu cầu thủ Hà Lan Roy Makaay. Anh có màn ra mắt ấn tượng vào ngày hôm sau khi ghi 2 bàn thắng vào lưới VfL Wolfsburg, giúp Bayern đánh bại nhà vô địch mùa trước.
Ngày 7 tháng 4 năm 2010, Robben ghi bàn từ quả phạt góc của Ribéry vào lưới Manchester United bằng cú sút vô lê đẹp mắt. Kết quả cuối cùng là 3-2 (tổng tỉ số 4-4), Bayern tiến vào bán kết Champions League với luật bàn thắng sân khách.
Ngày 17 tháng 4 năm 2010, Robben lập cú hat-trick đầu tiên của mình trong Bundesliga khi gặp Hannover 96 tại Allianz Arena. Trận đấu kết thúc với tỉ số 7–0 cho Bayern Munich. Vào ngày 8 tháng 5 năm 2010, anh giành chức vô địch Bundesliga đầu tiên với Bayern Munich sau khi ghi 2 bàn trong chiến thắng 3–1 trước Hertha BSC Berlin, đồng thời là vua phá lưới của Bayern.
Một tuần sau đó, Bayern Munich đánh bại Werder Bremen 4–0 trong trận chung kết Cúp bóng đá Đức tại Sân vận động Olympic-Berlin. Robben ghi bàn mở tỉ số từ chấm phạt đền, giúp Bayern có được danh hiệu DFB-Pokal thứ 15 của họ. Ngày 25 tháng 5 năm 2010, Robben nhận giải thưởng Cầu thủ của năm tại Đức với tỷ lệ bầu chọn kỉ lục 72.1%.
Trong mùa giải 2010–11, sau khi các xét nghiệm y tế xác nhận gân kheo của anh không được chữa trị đúng cách, Robben phải nghỉ thi đấu 2 tháng. Chủ tịch Bayern Karl-Heinz Rummenigge tuyên bố rằng 'Tất nhiên, Bayern Munich đang rất tức giận' và 'Thêm một lần nữa CLB chúng tôi phải thanh toán chi phí điều trị cho cầu thủ sau khi gặp chấn thương nghiêm trọng khi thi đấu cho đội tuyển quốc gia vào ngày 15 tháng 1 năm 2011. Robben trở lại sau chấn thương vào sân thay người trong trận hòa 1–1 gặp VfL Wolfsburg.
Robben được đề cử cho giải thưởng 'Tiền vệ xuất sắc nhất UEFA Champions League' nhưng không giành được. Anh cũng được đề cử cho giải Quả bóng vàng châu Âu và giải FIFA Puskás, là giải thưởng dành cho tác giả của bàn thắng đẹp nhất trong năm và được đề cử vào đội hình 'FIFPro World XI 2010' của FIFA nhờ mùa giải thành công với Bayern Munich.
Trong mùa giải 2012-2013, Robben cùng với Bayern München giành cú ăn ba gồm vô địch Bundesliga, Cúp quốc gia Đức và UEFA Champions League. Anh ghi bàn thắng quyết định trong trận chung kết UEFA Champions League giúp Bayern Munich đánh bại Borussia Dortmund 2-1.
Ngày 19/5/2019, sau khi giúp Bayern München đăng quang Bundesliga lần thứ 7 liên tiếp, Robben chính thức nói lời tạm biệt với đội bóng.
Groningen
Ngày 27/6/2020, sau hơn một năm nghỉ thi đấu, Robben đột ngột thông báo sẽ tái xuất trong màu áo Groningen. Anh sẽ bắt đầu trở lại thi đấu từ mùa 2020/2021.
Vào ngày 15 tháng 7 năm 2021, Robben tuyên bố chia tay sự nghiệp bóng đá chuyên nghiệp.
Sự nghiệp quốc tế
Euro 2004
Robben đã thi đấu 42 trận cho đội tuyển quốc gia Hà Lan, ghi được 11 bàn. Trận đầu tiên trong màu áo đội tuyển quốc gia là ở Euro 2004, khi huấn luyện viên Dick Advocaat triệu tập các cầu thủ trẻ như Wesley Sneijder và John Heitinga.
World Cup 2006
Robben tham dự World Cup lần đầu tiên vào năm 2006. Trong 6 trận, anh đã ghi được 2 bàn. Ngay trong trận đấu đầu tiên gặp Serbia và Montenegro, Robben đã ghi bàn ở phút thứ 18, và anh đã được trao giải Cầu thủ xuất sắc nhất trận. Trong trận gặp Bờ Biển Ngà, Robben tiếp tục nhận giải thưởng này lần thứ 2, trở thành một trong 8 cầu thủ tại World Cup giành được giải Cầu thủ xuất sắc nhất trận hơn một lần.
Euro 2008
Tại Euro 2008, HLV Marco van Basten đã chuyển sang đội hình 4-2-3-1 với tiền vệ bao gồm Rafael van der Vaart, Wesley Sneijder và Dirk Kuyt. Trong trận gặp Pháp ở vòng bảng, Hà Lan giành chiến thắng 4-1. Robben được tung vào sân ở hiệp hai, anh cướp bóng từ chân hậu vệ đối phương gần trung tuyến và vượt qua ba hậu vệ trước khi chuyền bóng để Robin van Persie ghi bàn vào lưới của Grégory Coupet.
World Cup 2010
Tại World Cup 2010, Robben đóng vai trò quan trọng trong đội tuyển Hà Lan, anh đã thi đấu xuất sắc và có nhiều đóng góp quan trọng giúp Hà Lan vào trận chung kết sau khi vượt qua Uruguay ở bán kết. Trong trận chung kết, đội tuyển Hà Lan bị đội tuyển Tây Ban Nha đánh bại. Robben cũng nổi tiếng với những tình huống phản ứng quá mức, nhìn anh như một quả bóng trong trận đấu với Brasil.
World Cup 2014
Tại World Cup 2014, Robben là một phần không thể thiếu của Đội tuyển Hà Lan dưới sự chỉ đạo của HLV Louis van Gaal. Anh đã ghi 2 bàn vào lưới Tây Ban Nha, giúp Hà Lan đánh bại đối thủ với tỷ số 5-1.
Vào ngày 16 tháng 11 năm 2014, Robben đã lập cú đúp trong trận Hà Lan thắng Latvia với tỉ số 6–0 trong vòng loại Euro 2016.
Sau khi Đội tuyển Hà Lan bị loại ở vòng loại World Cup 2018, Arjen Robben đã chính thức rời đội quốc gia sau 14 năm, với 96 trận ra sân và 37 bàn thắng.
Thống kê sự nghiệp của Robben.
Bàn thắng quốc tế của Robben.
# | Ngày | Địa điểm | Đối thủ | Bàn thắng | Kết quả | Giải đấu |
---|---|---|---|---|---|---|
1. | 11 tháng 10, 2003 | Sân vận động Philips, Eindhoven, Hà Lan | Moldova | Vòng loại Euro 2004 | ||
2. | 18 tháng 2, 2004 | Amsterdam ArenA, Amsterdam, Hà Lan | Hoa Kỳ | Giao hữu quốc tế | ||
3. | 17 tháng 11, 2004 | Mini Estadi, Barcelona, Tây Ban Nha | Andorra | Vòng loại World Cup 2006 | ||
4. | 4 tháng 6, 2005 | De Kuip, Rotterdam, Hà Lan | România | Vòng loại World Cup 2006 | ||
5. | 17 tháng 8 năm 2005 | De Kuip, Rotterdam, Hà Lan | Đức | Giao hữu quốc tế | ||
6. | 17 tháng 8 năm 2005 | De Kuip, Rotterdam, Hà Lan | Đức | Giao hữu quốc tế | ||
7. | 11 tháng 6, 2006 | Zentralstadion, Leipzig, Đức | Serbia và Montenegro | World Cup 2006
| ||
8. | 16 tháng 8, 2006 | Lansdowne Road, Dublin, Ireland | Cộng hòa Ireland | Giao hữu quốc tế | ||
9. | 1 tháng 6, 2008 | Sân vận động De Kuip, Rotterdam, Hà Lan | Wales | Giao hữu quốc tế | ||
10. | 13 tháng 6, 2008 | Stade de Suisse, Bern, Thụy Sĩ | Pháp | Euro 2008 | ||
11. | 10 tháng 6, 2009 | Sân vận động De Kuip, Rotterdam, Hà Lan | Na Uy | Vòng loại World Cup 2010 | ||
12. | 5 tháng 6, 2010 | Amsterdam ArenA, Amsterdam, Hà Lan | Hungary | Giao hữu quốc tế | ||
13. | 5 tháng 6, 2010 | Amsterdam ArenA, Amsterdam, Hà Lan | Hungary | Giao hữu quốc tế | ||
14. | 28 tháng 6, 2010 | Sân vận động Moses Mabhida, Durban, Nam Phi | Slovakia | World Cup 2010 | ||
15. | 6 tháng 7, 2010 | Sân vận động Cape Town, Cape Town, Nam Phi | Uruguay | World Cup 2010 | ||
16. | 29 tháng 2 năm 2012 | Sân vận động Wembley, Luân Đôn, Anh | Anh | Giao hữu | ||
17. | ||||||
18. | 7 tháng 6, 2013 | Sân vận động Gelora Bung Karno, Jakarta, Indonesia | Indonesia | Giao hữu | ||
19. | 6 tháng 9, 2013 | A. Le Coq Arena, Tallinn, Estonia | Hungary | Vòng loại World Cup 2014 | ||
20. | 11 tháng 10 năm 2013 | Amsterdam ArenA, Amsterdam, Hà Lan | Hungary | Vòng loại World Cup 2014 | ||
21. | 15 tháng 10, 2013 | Sân vận động Şükrü Saracoğlu, Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ | Thổ Nhĩ Kỳ | Vòng loại World Cup 2014 | ||
22. | 16 tháng 11 năm 2013 | Cristal Arena, Genk, Bỉ | Nhật Bản | Giao hữu | ||
23. | 4 tháng 6, 2014 | Amsterdam ArenA, Amsterdam, Hà Lan | Wales | Giao hữu | ||
24. | 13 tháng 6 năm 2014 | Arena Fonte Nova, Salvador, Brasil | Tây Ban Nha | World Cup 2014 | ||
25. | ||||||
26. | 18 tháng 6, 2014 | Sân vận động Beira-Rio, Porto Alegre, Brasil | Úc | World Cup 2014 | ||
27. | 16 tháng 11 năm 2014 | Amsterdam ArenA, Amsterdam, Hà Lan | Latvia | Vòng loại Euro 2016 | ||
28. | ||||||
29. | 13 tháng 11 năm 2015 | Sân vận động Cardiff City, Cardiff, Wales | Wales | Giao hữu | ||
30. | ||||||
31. | 12 tháng 11 năm 2016 | Sân vận động Josy Barthel, Luxembourg City, Luxembourg | Luxembourg | Vòng loại World Cup 2018 | ||
32. | 4 tháng 6 năm 2017 | Sân vận động De Kuip, Rotterdam, Hà Lan | Bờ Biển Ngà | Giao hữu | ||
33. | 9 tháng 6 năm 2017 | Sân vận động De Kuip, Rotterdam, Hà Lan | Luxembourg | Vòng loại World Cup 2018 | ||
34. | 3 tháng 9 năm 2017 | Amsterdam Arena, Amsterdam, Hà Lan | Hà Lan | Vòng loại World Cup 2018 | ||
35. | 7 tháng 10 năm 2017 | Borisov Arena, Barysaw, Belarus | Belarus | Vòng loại World Cup 2018 | ||
36. | 10 tháng 10 năm 2017 | Amsterdam Arena, Amsterdam, Hà Lan | Thụy Điển | Vòng loại World Cup 2018 | ||
37. |
Câu lạc bộ
Câu lạc bộ | Mùa giải | Giải vô địch quốc gia | Cúp | Châu lục | Khác | Tổng cộng | Ref. | ||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Hạng đấu | Số lần ra sân | Số bàn thắng | Số lần ra sân | Số bàn thắng | Số lần ra sân | Số bàn thắng | Số lần ra sân | Số bàn thắng | Số lần ra sân | Số bàn thắng | |||
Groningen | 2000–01 | Eredivisie | 18 | 2 | 0 | 0 | — | 18 | 2 | ||||
2001–02 | 28 | 6 | 6 | 4 | 34 | 10 | |||||||
Tổng cộng | 46 | 8 | 6 | 4 | — | 52 | 12 | — | |||||
PSV | 2002–03 | Eredivisie | 33 | 12 | 3 | 0 | 4 | 1 | 1 | 0 | 41 | 13 | |
2003–04 | 23 | 6 | 2 | 0 | 8 | 2 | 1 | 1 | 34 | 9 | |||
Tổng cộng | 56 | 18 | 5 | 0 | 12 | 3 | 2 | 1 | 75 | 22 | — | ||
Chelsea | 2004–05 | Premier League | 18 | 7 | 2 | 0 | 5 | 1 | 4 | 1 | 29 | 9 | |
2005–06 | 28 | 6 | 4 | 1 | 6 | 0 | 2 | 0 | 40 | 7 | |||
2006–07 | 21 | 2 | 4 | 0 | 7 | 1 | 4 | 0 | 36 | 3 | |||
Tổng cộng | 67 | 15 | 10 | 1 | 18 | 2 | 10 | 1 | 105 | 19 | — | ||
Real Madrid | 2007–08 | La Liga | 21 | 4 | 2 | 1 | 5 | 0 | 0 | 0 | 28 | 5 | |
2008–09 | 29 | 7 | 0 | 0 | 6 | 1 | 2 | 0 | 37 | 8 | |||
Tổng cộng | 50 | 11 | 2 | 1 | 11 | 1 | 2 | 0 | 65 | 13 | — | ||
Bayern München | 2009–10 | Bundesliga | 24 | 16 | 3 | 3 | 10 | 4 | — | 37 | 23 | ||
2010–11 | 14 | 12 | 1 | 1 | 2 | 0 | 0 | 0 | 17 | 13 | |||
2011–12 | 24 | 12 | 3 | 2 | 9 | 5 | — | 36 | 19 | ||||
2012–13 | 16 | 5 | 5 | 4 | 9 | 4 | 1 | 0 | 31 | 13 | |||
2013–14 | 28 | 11 | 5 | 4 | 10 | 4 | 2 | 2 | 45 | 21 | |||
2014–15 | 21 | 17 | 2 | 0 | 7 | 2 | 0 | 0 | 30 | 19 | |||
2015–16 | 15 | 4 | 3 | 0 | 3 | 2 | 1 | 1 | 22 | 7 | |||
2016–17 | 26 | 13 | 3 | 0 | 8 | 3 | 0 | 0 | 37 | 16 | |||
2017–18 | 21 | 5 | 4 | 2 | 9 | 0 | 0 | 0 | 34 | 7 | |||
2018–19 | 12 | 4 | 2 | 0 | 4 | 2 | 1 | 0 | 19 | 6 | |||
Tổng cộng | 201 | 99 | 32 | 16 | 71 | 26 | 5 | 3 | 309 | 144 | — | ||
Groningen | 2020–21 | Eredivisie | 6 | 0 | 0 | 0 | — | 1 | 0 | 7 | 0 | — | |
Tổng cộng sự nghiệp | 426 | 150 | 55 | 22 | 113 | 32 | 20 | 5 | 614 | 209 | — |
Đội tuyển quốc gia
Đội tuyển bóng đá Hà Lan | ||
---|---|---|
Năm | Trận | Bàn |
2003 | 3 | 1 |
2004 | 8 | 2 |
2005 | 6 | 3 |
2006 | 10 | 2 |
2007 | 4 | 0 |
2008 | 6 | 2 |
2009 | 8 | 1 |
2010 | 7 | 4 |
2011 | 1 | 0 |
2012 | 10 | 2 |
2013 | 10 | 5 |
2014 | 13 | 6 |
2015 | 1 | 2 |
2016 | 1 | 1 |
2017 | 7 | 5 |
Tổng cộng | 96 | 37 |
Cuộc sống riêng
Robben đã kết hôn với bạn gái Bernadien Elillert vào ngày 9 tháng 6 năm 2007 tại Gronnigen. Họ đã gặp nhau từ khi còn học trung học. Họ có một con trai, Luka, sinh năm 2008 và một con gái, Lynn, sinh năm 2010. Cha của Robben, Hans, cũng là người đại diện cho anh. Robben thành thạo tiếng Hà Lan, Đức, Anh và Tây Ban Nha.
Robben và các đồng đội
PSV
Eredivisie: 2002–03 Johan Cruyff Shield: 2003
- Danh hiệu
Chelsea
- Premier League: 2004–05, 2005–06
FA Cup: 2006–07
Football League Cup: 2004–05, 2006–07
FA Community Shield: 2005
Real Madrid
- La Liga: 2007–08
Supercopa de España: 2008
Bayern Munich
- Bundesliga: 2009–10, 2012–13, 2013–14, 2014–15, 2015–16, 2016–17, 2017–18, 2018–19
DFB-Pokal: 2009–10, 2012–13, 2013–14, 2015–16, 2018–19
DFL-Supercup: 2012, 2018
UEFA Champions League: 2012–13
UEFA Super Cup: 2013
FIFA Club World Cup: 2013
Hà Lan
- FIFA World Cup Á quân: 2010; Hạng ba: 2014
Cá nhân
- Johan Cruyff Trophy: 2002–03
Vua kiến tạo UEFA European Championship: 2004
Cầu thủ xuất sắc nhất tháng của Premier League: Tháng 11 năm 2004
Đội hình PFA của năm: 2004–05 Premier League
Đội ESM của năm: 2004–05, 2009–10, 2014–15
Giải thưởng Bravo: 2005
Bàn thắng của tháng ở Đức: Tháng 1 năm 2010, Tháng 3 năm 2010, Tháng 4 năm 2010, Tháng 2 năm 2013
Cầu thủ xuất sắc nhất mùa giải VDV Bundesliga: 2009–10
Cầu thủ đá bóng của năm: 2010
Cầu thủ bóng đá của năm ở Đức: 2010
Đội tuyển UEFA của năm: 2011, 2014
Đội hình xuất sắc nhất mùa giải UEFA Champions League: 2013–14
Quả bóng đồng FIFA World Cup: 2014
Đội tuyển toàn sao FIFA World Cup: 2014
FIFA FIFPro World XI: 2014
Vận động viên Hà Lan của năm: 2014