Maeda Atsuko | |
---|---|
Maeda tại Liên hoan phim quốc tế Tokyo lần thứ 36 vào tháng 10 năm 2023 | |
Sinh | 10 tháng 7, 1991 (33 tuổi) Ichikawa, Chiba, Nhật Bản |
Nghề nghiệp |
|
Phối ngẫu | Katsuji Ryo (cưới 2018–2021) |
Con cái | 1 |
Sự nghiệp âm nhạc | |
Thể loại | J-pop |
Nhạc cụ | Giọng hát |
Năm hoạt động | 2005–nay |
Hãng đĩa | King |
Hợp tác với | AKB48 |
Website | www |
Atsuko Maeda (前田敦子), sinh ngày 10 tháng 7 năm 1991, còn được biết đến với tên gọi Acchan (あっちゃん), là một ca sĩ và diễn viên người Nhật Bản. Cô từng là thành viên của nhóm nhạc nữ AKB48 và là một trong những gương mặt nổi bật nhất của nhóm, được xem như 'át chủ bài' và 'Gương mặt đại diện' của AKB48. Sau khi tốt nghiệp vào ngày 27 tháng 8 năm 2012, Maeda tiếp tục sự nghiệp ca hát và diễn xuất của mình.
Sự nghiệp
AKB48
Maeda sinh ra ở Ichikawa, Chiba. Ở tuổi 14, cô trở thành thành viên Team A - đội hình đầu tiên của AKB48, gồm 24 cô gái ra mắt vào ngày 8 tháng 12 năm 2005.
Năm 2009, Maeda đạt hạng 1 trong cuộc tổng tuyển cử đầu tiên của AKB48, trở thành Center cho single thứ 13 'Iiwake Maybe'. Tại tổng tuyển cử thứ 2, cô đạt hạng 2, nhưng vẫn giữ vị trí quan trọng trong đội hình cho single thứ 17 'Heavy Rotation'. Cuối năm đó, AKB48 tổ chức Janken Taikai (Đại hội Oẳn tù tì) để tìm ra Senbatsu cho single thứ 19 'Chance no Junban', Maeda đạt hạng 15 chung cuộc. Cô cũng giành chiến thắng trong cuộc tổng tuyển cử thứ 3 năm 2011.
Maeda là một trong những thành viên xuất hiện trong hầu hết các single của AKB48 từ khi nhóm được thành lập. Tuy nhiên, sự xuất hiện này bị gián đoạn khi cô thua đội trưởng Team K Akimoto Sayaka tại Đại hội Oẳn tù tì cho Single thứ 24 'Ue Kara Mariko'.
Ngày 25 tháng 3 năm 2012, tại buổi concert của AKB48 tại Saitama Super Arena, Maeda thông báo sẽ tốt nghiệp, gây xôn xao dư luận. Tin đồn (sau đó được xác nhận là sai) về một sinh viên trường Đại học Tokyo tự tử khi nghe tin này đã lan truyền. AKB48 thông báo lễ tốt nghiệp của Maeda sẽ diễn ra ở Tokyo Dome, nơi mà nhóm mơ ước hướng tới. Album '1830m' cũng được ra mắt, con số này tượng trưng cho độ dài của hàng người hâm mộ đến bắt tay cô trong sự kiện cuối cùng. Buổi lễ tốt nghiệp tại nhà hát AKB48 của cô thu hút 229.096 vé và được truyền hình trực tiếp trên Youtube.
Sự nghiệp Solo
Ngày 23 tháng 4 năm 2011, Maeda thông báo ra mắt solo với single đầu tay 'Flower', phát hành ngày 22 tháng 6. Single này ra mắt tại vị trí số 1 trên bảng xếp hạng Oricon với 176.967 bản trong tuần đầu tiên. Single thứ hai 'Kimi wa Boku da' phát hành tháng 6 năm 2012, là đĩa đơn solo cuối cùng của Maeda khi còn là thành viên AKB48, đứng vị trí thứ 2 trên Oricon và số 1 trên Billboard Japan Hot 100.
Ngày 15 tháng 6 năm 2013, tại sự kiện bắt tay của AKB48 ở Makuhari Messe, AKB48 thông báo Maeda sẽ là khách mời đặc biệt trong chuỗi concert mùa hè của nhóm tại Sapporo Dome vào ngày 31 tháng 7. Tại đây, cô ra mắt single thứ ba, 'Time Machine Nante Iranai' (タイムマシンなんていら, Taimu Mashin Nante Iranai), phát hành ngày 18/9, sau đó được chọn làm bài hát chủ đề cho live-action chuyển thể từ Yamada-kun to 7-nin no Majo (Yamada và bảy phù thủy). 'Time Machine Nante Iranai' đứng vị trí số 1 trên bảng xếp hạng Oricon hàng ngày và số 2 trên Oricon Weekly. Trên bảng xếp hạng Billboard Japan Hot 100, single đứng vị trí số 1.
Đĩa đơn thứ tư 'Seventh Code' phát hành ngày 5 tháng 3 năm 2014, được sử dụng làm bài hát chủ đề cho bộ phim 'Seventh Code' mà Maeda đóng vai chính. Single này ra mắt ở vị trí thứ 4 trên bảng xếp hạng Oricon và đạt vị trí thứ 3 trên Billboard Japan Hot 100.
Ngày 12 tháng 12 năm 2015, thông báo rằng album đầu tiên của Maeda sẽ được phát hành vào cuối năm sau. Cuối cùng, album được ấn định phát hành vào ngày 22 tháng 6 năm 2016.
Sự nghiệp diễn xuất
Năm 2007, Maeda tham gia phim Ashita no Watashi no Tsukurikata, đánh dấu lần đầu tiên cô xuất hiện với vai trò diễn viên. Năm 2011, cô đảm nhận vai chính trong phim Moshidora và góp mặt trong Kueki Ressha của đạo diễn Yamashita Nobuhiro vào năm 2012. Năm 2013, cô tiếp tục thể hiện khả năng diễn xuất trong bộ phim kinh dị The Complex của Nakata Hideo và có tin đồn rằng cô sẽ diễn cùng Lương Triều Vỹ trong tác phẩm 1905 của Kurosawa Kiyoshi.
Năm 2013, Maeda thủ vai chính trong chuỗi video 30 giây cho Music On! TV với vai Tamako, một sinh viên tốt nghiệp Đại học Tokyo không tìm được việc làm và sống cùng gia đình, chỉ biết ăn và ngủ qua bốn mùa. Chuỗi video này sau đó được phát triển thành phim truyền hình đặc biệt và cuối cùng là bộ phim chính thức mang tên Tamako in Moratorium, dự kiến ra rạp vào tháng 11.
Maeda đảm nhận vai chính trong bộ phim Seventh Code, nơi cô vào vai một phụ nữ Nhật Bản tại Nga, cố gắng tìm kiếm người đàn ông mà cô đã gặp trước đó. Phim được trình chiếu tại Liên hoan phim Rome vào tháng 11 năm 2013 và có buổi chiếu ngắn vào tháng 1 năm 2014. Cùng tên với phim, cô cũng phát hành một đĩa đơn vào ngày 5 tháng 3.
Tháng 5 năm 2015, Maeda được chọn vào vai nữ chính Yoshizawa Kyoko trong bộ anime và manga Dokonjō Gaeru, chuyển thể từ manga nổi tiếng cùng tên của tác giả Yoshizawa Yasumi, do đài NTV sản xuất.
Năm 2016, Maeda đảm nhận vai chính trong bộ phim truyền hình 'Busujima Yuriko no Sekirara Nikki' phát sóng trên đài TBS, với tập đầu tiên ra mắt vào ngày 20 tháng 4 năm 2016.
Năm 2019, Maeda tham gia bộ phim 'To the Ends of the Earth' (旅の終わり世界の始まり), vào vai Yoko - một người dẫn chương trình truyền hình kiêm ca sĩ đến Uzbekistan cùng một nhóm nhỏ để quay phim tài liệu du lịch. Trong phim, cô hai lần thể hiện ca khúc 'Hymne à l'amour' (bằng tiếng Nhật) của Édith Piaf, đặc biệt trong cảnh đêm chung kết.
Cuộc sống cá nhân
Maeda Atsuko kết hôn với diễn viên Katsuji Ryo vào tháng 7/2018 và chào đón con trai đầu lòng vào ngày 4 tháng 3 năm 2019, trùng với kỷ niệm 10 năm phát hành bài hát '10nen Sakura' mà cô làm center. Tuy nhiên, vào ngày 23/4/2021, Maeda Atsuko chính thức ly hôn sau 3 năm chung sống.
Danh sách đĩa nhạc
Đĩa đơn solo
Ngày phát hành | Tên | Vị trí xếp hạng | Oricon sales | ||||
---|---|---|---|---|---|---|---|
OriconWeekly
Singles Chart |
Billboard Japan Hot 100
|
RIAJ Digital Track Chart | TWNCombo | Tuần đầu tiên | Tổng | ||
22 tháng 6 năm 2011 | "Flower" | 1 | 1 | 5 | — | 176,967 | 213,787 |
20 tháng 6 năm 2012 | "Kimi wa Boku Da" | 2 | 1 | 4 | — | 136,212 | 170,944 |
18 tháng 9 năm 2013 | "Time Machine Nante Iranai" | 2 | 1 | 15 | 60,687 | 79,081 | |
5 tháng 3 năm 2014 | "Seventh Chord" | 4 | 3 | — | 42,784 | 53,286 |
AKB48
Year | # | Tên | Vai trò | Chú thích |
---|---|---|---|---|
2006 | Ind-1 | "Sakura no Hanabiratachi" | A-side | |
Ind-2 | "Skirt, Hirari" | A-side, Center | Một trong 7 thành viên hát ca khúc chủ đề. | |
1 | "Aitakatta" | |||
2007 | 2 | "Seifuku ga Jama o Suru" | ||
3 | "Keibetsu Shiteita Aijō" | |||
4 | "Bingo!" | |||
5 | "Boku no Taiyō" | |||
6 | "Yūhi o Miteiru ka?" | |||
2008 | 7 | "Romance, Irane" | ||
8 | "Sakura no Hanabiratachi 2008" | |||
9 | "Baby! Baby! Baby!" | |||
10 | "Ōgoe Diamond" | A-side. | ||
2009 | 11 | "10nen Sakura" | A-side, Center | Đồng thời hát "Sakurairo no Sora no Shita de", Shared center with Matsui Jurina of SKE48 |
12 | "Namida Surprise!" | |||
13 | "Iiwake Maybe" | Xếp hạng 1 cuộc tổng tuyển cử 2009 | ||
14 | "River" | |||
2010 | 15 | "Sakura no Shiori" | Đồng thời hát "Majisuka Rock 'n' Roll" | |
16 | "Ponytail to Shushu" | Đồng thời hát "Majijo Teppen Blues" | ||
17 | "Heavy Rotation" | A-side | Xếp hạng 2 cuộc tổng tuyển cử 2010, Đồng thời hát "Yasai Sisters" and "Lucky Seven" | |
18 | "Beginner" | A-side, Center, Mint | Đồng thời hát "Kimi ni Tsuite" as subgroup Mint. | |
19 | "Chance no Junban" | A-side | Đứng thứ 15 trong giải đấu oẳn tù tì, Đồng thời hát "Yoyakushita Christmas" and "Kurumi to Dialougue" | |
2011 | 20 | "Sakura no Ki ni Narō" | A-side, Center, Mint | Đồng thời hát "Kiss Made 100 Mile" as Mint. |
– | "Dareka no Tame ni – What can I do for someone?" | – | Single từ thiện | |
21 | "Everyday, Katyusha" | A-side, Center | Đồng thời hát "Korekara Wonderland" and "Yankee Soul" | |
22 | "Flying Get" | Xếp hạng 1 cuộc tổng tuyển cử 2011, Đồng thời hát "Seishun to Kizukanai Mama", "Ice no Kuchizuke", "Yasai Uranai" | ||
23 | "Kaze wa Fuiteiru" | |||
24 | "Ue kara Mariko" | B-side | Did not participate in title song; lineup was determined by rock-paper-scissors tournament; hát "Noël no Yoru" và "Rinjin wa Kizutsukanai" cùng Team A | |
2012 | 25 | "Give Me Five!" | A-side (Baby Blossom), Center, Selection 6 | Played rhythm guitar in Baby Blossom; Đồng thời hát "Sweet & Bitter" as Selection 6 |
26 | "Manatsu no Sounds Good!" | A-side, Center | Không tham gia cuộc Tổng tuyển cử năm 2012. | |
27 | "Gingham Check" | B-side | Không tham gia vào bài hát chủ đề, bài hát "Yume no Kawa" là bài hát tốt nghiệp của cô | |
2016 | 43 | "Kimi wa Melody" | A-side | Là đĩa đơn kỷ niệm 10 năm, tham gia với tư cách thành viên tốt nghiệp. |
DVD
- Mubōbi (2011)
Danh sách các chương trình truyền hình tham gia
Phim
Năm | Tên phim | Vai diễn |
---|---|---|
2008 | Nasu Shōnenki | Megumi Sasahara |
2011 | Drucker in the Dug-Out | Minami Kawashima |
2012 | The Drudgery Train | Yasuko Sakurai |
2013 | 1905 | |
The Complex | Asuka Ninomiya | |
Tamako in Moratorium | Tamako Sakai | |
Pokémon: Eevee and Friends | Narrator | |
Seventh Code | Akiko | |
2014 | Eight Ranger 2 | Saigo Jun |
As the Gods Will | Maneki-neko (voice) | |
2015 | Kabukicho Love Hotel | Saya Iijima |
Initiation Love | Mayuko "Mayu" Naruoka | |
2016 | The Mohican Comes Home | Yuka |
Shin Godzilla | Refugee | |
2017 | Mukoku | Kazuno |
Before We Vanish | Asumi Kase | |
The Last Shot in the Bar | Reiko Suwa | |
2018 | Dynamite Graffiti | Makiko |
Flea-picking Samurai | Ochie | |
Eating Women | Tamiko Shirako | |
2019 | To the Ends of the Earth | Yōko |
Masquerade Hotel | ||
The Master of Funerals | Yukiko Watanabe | |
Almost a Miracle | ||
The Confidence Man JP: The Movie | Suzuki-san | |
2020 | The Confidence Man JP: Episode of the Princess | |
2021 | Caution, Hazardous Wife: The Movie | |
Remain in Twilight | Mikie | |
DIVOC-12 |
Phim truyền hình
- Swan no Baka!: Sanmanen no Koi (2007)
Shiori to Shimiko no Kaiki Jikenbo (2008)
Taiyo to Umi no Kyoshitsu (2008)
Majisuka Gakuen (2010)
Ryōmaden (2010)
Q10 (2010)
Sakura Kara no Tegami (2011)
Hanazakari no Kimitachi e (2011)
Majisuka Gakuen 2 (2011)
Saikou no Jinsei (2012)
Kasuka na Kanojo (2013)
Nobunaga Concerto Episode 3 (2014)
Leaders (2014) - Misuzu Shimabara
Kageri Yuku Natsu (2015) – Yu Kahara
Dokonjō Gaeru (2015)
Majisuka Gakuen 5 (2015)
Busujima Yuriko no Sekirara Nikki (2016) - Yuriko Busujima
Gou Gou, The Cat 2 - Iida (2016)
Shuukatsu Kazoku (2017)
Inspector Zenigata - Thám tử Natsuki Sakuraba (2017)
Leaders 2 (2017) - Misuzu Shimabara
The Legendary Mother (2020)
Chương trình truyền hình
- AKBingo! (2008–2012)
Shukan AKB (2009–2012)
AKB48 Nemōsu TV (2008–2012)
Gachi Gase (2012)
Phim tài liệu
- Documentary of AKB48: The Future 1 mm Ahead (2011)
Documentary of AKB48: To Be Continued (2011)
Documentary of AKB48: Show Must Go On (2012)
Documentary of AKB48: No Flower Without Rain (2013)
Chương trình radio
- Atsuko Maeda's Heart Songs (2010–2013)
Sách ảnh
- Hai. (はいっ。)
Acchan (あっちゃん)
Maeda Atsuko (前田敦子)
ATSUKO
Bukiyou (不器用)
Acchan (Memorial Photobook) (あっちゃん)
Giải thưởng và thành tựu
Năm | Giải thưởng | Hạng mục | Đề cử | Kết quả |
---|---|---|---|---|
2010 | BLOG of the year | Female section | Bản thân | Đoạt giải |
2011 | 35th Japan Academy Prize | Popularity Award (Actor Category) | Moshidora | Đoạt giải |
Japanese Movie Critics Awards | New artist award | Bản thân | Đoạt giải | |
International Jewellery Tokyo | teenage department | Đoạt giải | ||
VOCE BEAUTY AWARDS | THE BEST BEAUTY OF THE YEAR (special award) | Đoạt giải | ||
2012 | 4th TAMA Film Award | Best Emerging Actress Award | Bản thân (vai Kueki Ressha) | Đoạt giải |
22nd Japan Film Professional Awards | Best Actress | Đoạt giải | ||
Foreign Movie Import and Distribution Association | Foreign Movie Best Supporter Award | Bản thân | Đoạt giải | |
2013 | 23rd Japan Film Professional Awards | Best Actress | Tamako in Moratorium | Đoạt giải |
2014 | Selfish theater award | Actress award | Sun 2068 | Đoạt giải |
2016 | 11th Asian Film Awards | Best Supporting Actress | The Mohican Comes Home Japan | Đề cử |
3rd Inter Pet Best Pet Smile Award | Best Pet Smile Award | Bản thân | Đoạt giải | |
2017 | Best Formerist Award | female section | Đoạt giải | |
2019 | TAMA Film Awards | Best Actress | Đoạt giải | |
Fumiko Yamaji Film Award | To the Ends of the Earth Almost a Miracle |
Đoạt giải |