Gió đi theo dòng gió, mây theo lối mây
Dòng nước u buồn, cỏ rủ lay
Thuyền ai neo bến sông trăng ấy
Liệu có kịp mang trăng trở về tối nay?
Nhận định về thơ trữ tình cuối cùng cũng là cảm nhận về “tình cảm” trong thơ và tâm trạng của nhân vật trữ tình trước tự nhiên, vũ trụ, đất trời. Đến với thơ lãng mạn Việt Nam, từ năm 1932 đến năm 1945 “ta bước ra khỏi Thế Lữ, ta phiêu du trong thế giới tình yêu cùng Lưu Trọng Lư, ta mất trí cùng Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta say mê cùng Xuân Diệu” (Hoài Thanh – Nhà thơ Việt Nam). Đúng vậy, độc giả thời đại và ngày nay yêu thơ của Hàn Mặc Tử bởi sự “mất trí” của nó. Chính “mất trí” đó đã tạo ra phong cách nghệ thuật độc đáo, đặc biệt, mới lạ của Hàn Mặc Tử. “Mất trí” trong thơ ông chính là sự biến đổi không thể đoán trước được của tâm trạng. Nét phong cách đặc biệt ấy đã tụ hợp và tỏa sáng trong cả bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” của nhà thơ tài năng và cũng rất không hạnh phúc này. “Đây thôn Vĩ Dạ” được lấy từ tập thơ Điên của Hàn Mặc Tử. “Mất trí” cuồng nhiệt ấy được thể hiện cụ thể và rõ ràng trong dòng thơ:
“Gió đi theo lối gió, mây theo dòng mây
Dòng nước u buồn, cỏ rủ lay
Thuyền ai neo bến sông trăng ấy
Liệu có mang trăng trở về kịp tối nay?”
Với lời mời nhẹ nhàng dịu dàng như một lời kêu gọi, Hàn Mặc Tử trở lại với thôn Vĩ Dạ trong giấc mơ:
“Tại sao anh không về thăm thôn Vĩ
Thấy nắng rọi hàng cây sáng ngời
Vườn xanh tươi tỏa như ngọc lúc lên
Lá trúc che kín như chữ điền”
Cảnh vật ở thôn Vĩ Dạ – một ngôi làng gần thành phố Huế ven sông Hương Giang với những khu vườn cây trái, hoa lá thơm ngát, thật đẹp và thơ mộng. Có một hàng cây cau thẳng tắp đang tắm mình dưới ánh nắng mới bừng sáng. Và rất gần đó là hình ảnh của “nắng rọi hàng cây sáng ngời” và “vườn xanh tươi tỏa như ngọc”. “Xanh tươi” khiến cho tâm hồn trở nên trẻ trung và hạnh phúc hơn. Lời ca tụng cây cỏ xanh tươi nhưng cũng mang một vẻ mơ hồ, lấp lánh để hiện lên vẻ đẹp của “vườn xanh”. Trong không gian ấy, hiện ra hình ảnh của “lá trúc che kín” tạo nên một cảnh đẹp hòa hợp giữa cảnh vật và con người. “Trúc xinh” và “người xinh” kết hợp cùng nhau làm nổi bật vẻ đẹp của con người. Tâm trạng của nhân vật trữ tình ở đoạn thơ này là niềm vui, một niềm vui đến mê đắm như lạc vào cõi tiên, cõi mơ khi được trở về với cảnh và con người thôn Vĩ.
Tuy nhiên, dù cùng không gian là thôn Vĩ Dạ nhưng thời gian đã thay đổi từ “nắng mới bừng sáng” sang chiều tà. Tâm trạng của nhân vật trữ tình cũng trải qua một biến đổi lớn. Trong mắt nhà thơ, bầu trời hiện ra “Gió theo lối gió, mây theo đường mây” trong cảnh chia ly, buồn bã. Việc nhân hóa cho chúng ta nhìn thấy điều đó. “Gió theo lối gió” theo hướng của nó và mây cũng vậy. Câu thơ được chia thành hai vế đối nhau; bắt đầu với hình ảnh của “gió”, kết thúc cũng là gió; bắt đầu với “mây”, kết thúc cũng là “mây”. Từ đó, chúng ta nhận thấy “mây” và “gió” như hai người lạ, quay lưng với nhau. Điều này thực sự là một điều nghịch lý vì nếu có gió thì mây mới di chuyển theo, nhưng câu thơ lại nói “gió theo lối gió, mây theo đường mây”. Tuy nhiên, trong văn chương, việc sử dụng cách nói phi lý như vậy là bình thường. Tại sao tâm trạng của nhân vật trữ tình ban đầu rất vui vẻ khi trở về thôn Vĩ Dạ vào buổi sáng đột nhiên lại thay đổi mạnh mẽ và trở nên buồn bã như vậy? Trong giấc mơ, Hàn Mặc Tử đã trở về với thôn Vĩ nhưng lại cảm thấy buồn, có lẽ bởi tình yêu không được đáp trả và những kỷ niệm đẹp với cảnh và người con gái xứ Huế mơ mộng đã tạo nên tâm trạng đó. Thực sự “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” nên cảnh vật xứ Huế ban đầu thơ mộng, trữ tình lại bị nhà thơ mô tả lạ lùng, xa lạ đến như vậy. Bầu trời buồn, mặt đất cũng chẳng vui gì hơn khi “Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”.
Dòng Hương Giang ban đầu thơ mộng, đẹp đã đi vào lòng người qua nhiều thế hệ thơ ca Việt nhưng giờ lại “buồn thiu” – một nỗi buồn sâu thẳm, không thể diễn tả bằng lời. Mặt nước buồn hoặc chính là biểu hiện của con sóng buồn của nhà thơ đang dâng lên không thể giấu giếm. Lòng sông buồn, bãi bờ của nó còn thêm sầu bi. “Hoa bắp lay” gợi lên hình ảnh của những bông hoa bắp khô héo, úa tàn đang “lay” nhẹ trong gió. Cảnh vật trong thơ buồn đến như vậy. Tuy nhiên, khi đêm buông xuống, trăng lên, tâm trạng của nhân vật trữ tình lại thay đổi:
“Ai đậu thuyền bên bến sông trăng ấy
Có chở trăng về đúng đêm nay không”
Sông Hương “buồn thiu” vào buổi chiều dưới ánh trăng đã biến thành “sông trăng” thơ mộng. Chiếc thuyền neo đậu trên dòng sông đó là “thuyền ai đậu bến”, tạo nên bức tranh trữ tình, lãng mạn hơn. Hình ảnh của “thuyền” và “sông trăng” tương hòa, đẹp đẽ. Một giọng hỏi xa xăm vang lên từ người đến thôn Vĩ, “Có chở trăng về đúng đêm nay không?”. Câu hỏi đầy ý nghĩa này phản ánh một tâm trạng khao khát, mong chờ, chờ đợi được gặp gỡ người thôn Vĩ với gương mặt sáng ngời như “trăng”. Qua đó, ta có thể hiểu rõ hơn tình cảm của nhà thơ dành cho em gái xứ Huế đầy yêu thương. Tình cảm ấy thực sự là “Của một thời thanh xuân đẹp, không phai mờ” (Thế Lữ).
Từ đó, ta hiểu thêm về tâm trạng buồn bã của nhân vật trữ tình vào buổi chiều. Sự phức tạp, khó đoán của tâm lí thi nhân được thể hiện rõ qua bài thơ kết thúc với những dòng:
“Mơ người xa vắng, xa vắng dường nào
Áo em trắng rạng rỡ quá không nhìn thấy
Bên đây sương mù dày đặc phủ kín
Có ai biết hết tình yêu ấy?”
Dù được đón tiếp với lòng mừng “khách đường xa” – những người từ thôn Vĩ đến gặp mình, tâm trạng của nhân vật trữ tình lại chuyển sang nỗi đau, hoài nghi “Có ai biết hết tình yêu ấy?”. “Ai” ở đây có thể là người thôn Vĩ hoặc chính tác giả. Không biết liệu người thôn Vĩ còn yêu mình như trước không? Và mình có còn yêu “áo em trắng rạng rỡ” không? Nỗi đau trong tình yêu chính là sự hoài nghi, không tin tưởng vào nhau. Nhân vật trữ tình lâm vào trạng thái đó và đã thể hiện tâm trạng của mình để mọi người hiểu và đồng cảm. Điều mới mẻ trong thơ lãng mạn giai đoạn 1932 – 1945 cũng được thể hiện ở đây.
Sau khi đọc bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử, đặc biệt là khổ thơ “Ai đậu thuyền bên bến sông trăng ấy… đúng đêm nay không” để lại trong lòng người đọc những cảm xúc sâu sắc. Khổ thơ này giúp chúng ta hiểu thêm về tâm trạng của một nhà thơ chuẩn bị rời bỏ cuộc sống. Lời thơ trầm buồn, sâu lắng, đầy suy tư. Độc giả đương thời yêu thơ của Hàn Mặc Tử vì ông đã chia sẻ những tâm trạng sâu sắc, thầm kín nhất của mình trong thời đại của “tôi”, của bản thân đang tự chiến đấu để tự khẳng định. Tình cảm trong thơ Hàn Mặc Tử là thật sự, và vì vậy sẽ mãi ở trong lòng người đọc. Ấn tượng về nhà thơ của Quảng Bình, nơi nắng gió nồng nàn, sẽ không bao giờ phai nhạt trong trí óc người Việt Nam.