Trong thế kỷ XIX, vào cuối thế kỷ, đất nước chúng ta đang gặp phải những biến cố loạn lạc, triều đình nhà Nguyễn đang dần suy sụp, nhưng văn học chữ Nôm lại phát triển mạnh mẽ, làm cho truyện Kiều trở nên hoàn hảo hơn trong ngôn ngữ tài hoa của nó. Các tác giả như Nguyễn Đình Chiểu, Bà Huyện Thanh Quan, Trần Tế Xương, Nguyễn Khuyến... ít sử dụng chữ Hán để viết thơ như các nhà Nho từ các thế kỷ trước. Họ đã chọn sử dụng 'chữ Nôm hoá thơ Đường'.
Khi rút về sống trong tĩnh lặng, ngoài những bài thơ mang nỗi buồn của người mất nước, họ cũng có những tác phẩm thơ mộng với hình ảnh thân thương của vùng quê đang sống. Trong số những nhà thơ đó có Nguyễn Khuyến. Ông viết những bài thơ về mùa thu đậm chất tình yêu quê hương, nơi ấy yên bình. Một trong những bài thơ nổi tiếng đó là Thu Điếu - Câu cá mùa thu.
Con ao lạnh lẽo, nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé teo tóp.
Nguyễn Khuyến đã mô tả không gian, thời gian và hình ảnh đặc trưng của vùng nông thôn Bắc Bộ. Trong không gian này, có một cái ao, thời gian là mùa thu, và hình ảnh tiêu biểu của bài thơ đó là chiếc thuyền câu bé. Mùa thu ở vùng quê Bắc Bộ se lạnh, nước ao ít bị xáo trộn, cộng với bầu trời mùa thu trong xanh khiến nước ao thu như trong veo. Giữa cảnh ao thu như vậy có một chiếc thuyền câu bé. Những từ ngữ được chọn bởi Nguyễn Khuyến làm tăng thêm sự lạnh lẽo, trong sáng và sự bé nhỏ giữa bầu không khí mùa thu, của nước và chiếc thuyền câu. Ao thu ở vùng quê không rộng lớn nhưng lại hiện ra mênh mông, chiếc thuyền câu không to lớn nhưng vẫn được thấy là nhỏ bé đối với ao thu. Nguyễn Khuyến đã chọn từ ngữ để mô tả cảnh vật như vậy.
Nếu ở hai câu đầu, tác giả tóm tắt không gian chính là ao thu rất yên bình thì ở hai câu cuối, tác giả đi sâu vào chi tiết, mở rộng không gian:
Lá vàng uốn mình trước gió lay.
Việc mở rộng không gian để mô tả gió qua hình ảnh sóng biếc lăn tăn, chiếc lá vàng uốn mình, lay động. Cảnh vật thôn dã yên bình cảm thấy có chút buồn bã trong vẻ yên bình của vùng quê. Có gió mát mới, có sóng biếc, có lá vàng... Gió thu của Nguyễn Khuyến êm đềm, nhẹ nhàng, trên mặt nước cũng không thiếu gió và lá vàng. Trước đây, biết đến mùa thu khi nhìn thấy 'những đám đông hồng đậu ngắm', đến thời Nguyễn Khuyến thì có 'lá vàng trước gió', Tản Đà với 'Trận gió thu phong rụng lá hồng', Xuân Diệu cũng có những dòng:
Thu về đây, thu về đây
Với áo mơ phai dệt lá vàng.
Ngôn ngữ nghệ thuật có thể khác nhau nhưng màu thu vẫn còn nguyên, gió mát của mùa thu, lá vàng bay...
Từ không gian trên ao, xung quanh bờ ao, nhà thơ mở rộng tầm nhìn:
Tầng mây bay nhẹ trên bầu trời xanh ngắt
Đường xá ven ao quanh co, đưa khách lạ đi lang thang.
Khung cảnh ao thu bây giờ đã có thêm bầu trời xanh ngắt như trong bài Thu vịnh. Tất cả đều là những sự vật thiên nhiên, kể cả đường xá quanh ao. Bức tranh mùa thu, thiên nhiên nông thôn miền Bắc được vẽ ra với những nét đơn giản, mộc mạc như vậy, như một bức tranh thủy mặc của một họa sĩ tài hoa mang trái tim đầy tình yêu với quê hương. Khó có thể tạo ra bức tranh mùa thu như vậy nếu tác giả không có tâm hồn yêu quê và không có đôi mắt tinh tế, không có giác quan nhạy bén để chọn lựa những chi tiết phù hợp với tâm hồn. Chiếc thuyền câu bé trong hai câu đầu như biến mất, đường xá quanh ao cũng chỉ còn là của riêng mình, không có bóng người. Tất cả chỉ là cảnh tĩnh lặng, mênh mang. Nếu có chút động đậy, thì chỉ là những chuyển động nhẹ từ gió trời mang lại. Chúng ta hãy thử đặt ra câu hỏi: Trong thời kỳ như thế này, thời kỳ cực thịnh của Lý - Trần - Lê chẳng hạn, nông thôn ở quê hương của Nguyễn Khuyến nói riêng, nông thôn miền Bắc nói chung có vắng bóng, cô đơn như thế không? - Có thể là không chứ?! Bức tranh mùa thu ở nông thôn miền Bắc trong thời bình không thể vắng bóng như thế. Vậy thì tại sao? Chúng ta có thể giải thích, luận bàn một cách dễ dàng hơn khi mở lại trang sử thời đại của nhà thơ. Và nhìn vào bức chân dung, vị trí của con người trong hai câu cuối:
Tựa gối om cần lâu không được,
Cá nào đớp động dưới chân bèo.
Ở câu thứ hai, hình ảnh của một chiếc thuyền là một hình ảnh biểu tượng, thì ở câu thứ bảy, xuất hiện hình ảnh của chính con người: con người. Vị trí của con người, tựa gối om cần, nhỏ lại, chiếc thuyền đã nhỏ con người ngồi tựa gối om cần còn nhỏ hơn, như đang đắm chìm vào thế giới tư duy. Mặc dù tác giả không sử dụng từ ngữ Hán - Việt, nhưng khi nhìn thấy hình ảnh của việc tựa gối om cần, người ta nhớ đến câu chuyện cổ xưa: Khương Tử Nha thời nhà Chu ngồi câu cá, chờ đợi thời cơ bên bờ sông Vị Thủy, và sau đó là cuộc sống không thể khớp với hoạt động của nhà thơ Nguyễn Khuyến. Ông không phải là người chờ đợi thời cơ mà là một người đã từng làm quan, giờ đã lui về ẩn dật chỉ vì không muốn cam tâm làm tay sai cho kẻ địch trong lúc triều đình Huế trở nên bảo thủ, ươn hèn. Trong nỗi buồn về vận mạng đất nước suy tàn ấy, có lẽ nhà thơ mượn hình ảnh câu cá để giải tỏa sầu muộn. Nhưng khi thả câu, chờ đợi cá cắn, nỗi buồn ấy lại trỗi dậy càng sâu sắc hơn. Một con cá nào đó động dậy dưới bèo thu làm cho nhà thơ quay trở lại với thế giới thực, trốn tránh nỗi buồn của một nhà văn vô dụng trước nỗi đau của dân tộc, của đất nước.
Thu Điếu mang lại hình ảnh mùa thu, tâm hồn thu của làng quê Việt Nam qua ngôn ngữ thơ tiếng Việt thuần khiết. Tài năng của nhà thơ đã biến tiếng nói dân gian thành ngôn ngữ thơ trong sáng và giản dị, chọn lọc những hình ảnh giản dị nhưng lại thể hiện một cách tự nhiên làm nổi bật sự yên bình mênh mang của thế giới, giữa sự yên lặng bao la ấy là lời than thở u uất của con người. Nghệ thuật đó mang lại cho người đọc cảm xúc sâu sắc. Và như vậy, có người cho rằng Nguyễn Khuyến là một trong những bậc thầy sử dụng ngôn ngữ trong thơ một cách đáng nể.