Với dạng đề này, học sinh có thể kể về cuộc đấu tranh chống quân xâm lược, về ước vọng hòa bình, cuộc sống hạnh phúc trong hòa bình của nhân dân. Mời học sinh cùng theo dõi bài viết dưới đây của Mytour để kể chuyện thú vị.
Gợi ý cách kể chuyện khen ngợi hòa bình
1. Nội dung:
- Câu chuyện về cuộc đấu tranh chống chiến tranh xâm lược (như chuyện Anh bộ đội Cụ Hồ gốc Bỉ em học ở tuần 4.)
- Câu chuyện về ước vọng hòa bình (như truyện Những con sếu bằng giấy em học ở tuần 4).
- Câu chuyện về cuộc sống yên vui, hạnh phúc trong hòa bình.
- Câu chuyện về ý thức cảnh giác, các hoạt động đấu tranh bảo vệ cuộc sống hòa bình.
- Câu chuyện về truyền thống yêu chuộng hòa bình, giữ quan hệ tốt với các nước láng giềng của dân tộc ta.
2. Tìm câu chuyện ở đâu?
- Câu chuyện được nghe từ người thân kể.
- Báo, truyện đọc trước và hiện nay. Chú ý đến các câu chuyện dành cho thiếu nhi, sách Truyện đọc lớp 5.
3. Cách kể chuyện
- Giới thiệu câu chuyện (nơi đọc hoặc người kể, tên câu chuyện, về ai, về việc gì,…)
- Kể diễn biến câu chuyện, tập trung vào những tình tiết thể hiện ước vọng hòa bình, tinh thần chống chiến tranh.
- Nhận xét cá nhân về câu chuyện.
4. Thảo luận
- Cả lớp cùng thảo luận về ý nghĩa của câu chuyện tiêu biểu nhất.
Kể lại câu chuyện khen ngợi hòa bình - Mẫu 1
Năm 1958, Bác Hồ đi thăm Ấn Độ, Người rời Thủ đô New Delhi bằng tàu hỏa đặc biệt để thăm thành phố Bombay. Đông đảo các đại diện ngoại giao và dân chúng Thủ đô New Delhi đã đến tiễn Bác. Các thành viên của đoàn ta đã lên các toa tàu trước để khi Bác đến, tàu có thể khởi hành ngay.
Khi Bác đến, ông đã ra khỏi toa tàu và chào hỏi các đại diện ngoại giao đang đứng xếp hàng trong phòng chờ của nhà ga. Bước vào toa tàu dành riêng cho mình, Bác không ngồi xuống ngay mà đứng lại ở cửa, trò chuyện với Thủ tướng Nehru. Khi còi tàu báo hiệu tàu sắp khởi hành, Thủ tướng Nehru thân mật và ân cần nói với Bác:
- Chủ tịch cẩn thận, tàu sắp chuyển bánh rồi.
Tươi cười và vô cùng ôn hòa, Bác Hồ nói với Thủ tướng Nehru:
- Ông bạn thân mến, hãy yên tâm, đây là cánh cửa của hòa bình.
Nghe Bác nói, Thủ tướng Nehru vui vẻ mỉm cười, đầy cảm kích và trả lời Bác:
- Chủ tịch, cửa của hòa bình luôn luôn mở rộng đón chào.
Câu chuyện đặc biệt này diễn ra giữa hai nhà lãnh đạo của hai quốc gia, đồng thời cũng là hai người bạn trung thành với hoà bình, luôn dấn thân cho sự hòa bình, hữu nghị và hợp tác giữa các dân tộc, thu hút sự chú ý đặc biệt của các nhà báo Ấn Độ và quốc tế trong ngày đó.
Ngày hôm sau, các báo lớn tại Ấn Độ đăng lại cuộc trò chuyện thú vị này và tạo ra một ý kiến công cộng tích cực. Nhiều tờ báo nhấn mạnh lại lời nói của Bác: 'Đây là cánh cửa của hòa bình'.
Kể lại câu chuyện ca ngợi hòa bình - Mẫu 2
Năm 1958, Bác Hồ thăm Ấn Độ, rời New Delhi bằng tàu hỏa đặc biệt để đến Bombay. Đông đảo các đại diện ngoại giao từ nhiều quốc gia và nhân dân New Delhi đã đến tiễn Bác. Các thành viên của đoàn đã lên tàu trước để chuẩn bị cho sự đón tiếp khi Bác đến.
Khi Bác đến, ông đã ra khỏi tàu và chào hỏi các đại diện ngoại giao đang xếp hàng trong phòng chờ của nhà ga. Khi ra sân ga chỉ còn Bác, Thủ tướng Ấn Độ Nehru và ông trưởng Vụ lễ tân của Ấn Độ. Bước vào toa tàu dành riêng, Bác không ngồi xuống ngay mà dừng lại ở cửa, kể một số câu chuyện với Thủ tướng Nehru. Khi còi tàu báo hiệu sắp khởi hành, Thủ tướng Nehru thân mật và chu đáo nói với Bác:
- Chủ tịch hãy chú ý, tàu sắp chuyển bánh rồi.
Tươi cười và vô cùng hiền hòa, Bác Hồ nói với Thủ tướng Nehru:
- Ông bạn thân mến, hãy yên tâm, đây là cánh cửa của hòa bình.
Nghe Bác nói, Thủ tướng Nehru vui vẻ, biết ơn và trả lời Bác:
- Thưa Chủ tịch, cửa hòa bình luôn luôn mở rộng.
Câu chuyện đặc biệt này diễn ra giữa hai nhà lãnh đạo của hai quốc gia, cũng là hai người bạn tận tâm với hòa bình, luôn dấn thân cho sự hòa bình, hữu nghị và hợp tác giữa các dân tộc, thu hút sự chú ý đặc biệt của các nhà báo Ấn Độ và quốc tế trong ngày đó.
Ngày hôm sau, các tờ báo lớn tại Ấn Độ đăng lại cuộc trò chuyện đầy ý nghĩa này và tạo ra một ý kiến công cộng tích cực. Nhiều tờ báo nhấn mạnh lại lời nói của Bác: 'Đây là cánh cửa của hòa bình'.
Kể lại câu chuyện ca ngợi hòa bình - Mẫu 3
Vào lúc 7 giờ 20 phút ngày 16 tháng 5 năm 1967 tại Sài Gòn, một phụ nữ Việt Nam đã tự tưới xăng lên người và tự đốt, hy sinh để phản đối chiến tranh của đế quốc Mỹ ở Việt Nam.
Ở miền Nam, trong những năm 1965 - 1968, chiến tranh ngày càng trở nên ác liệt và tàn khốc. Đại diện của các tôn giáo lớn, nhà hoạt động xã hội, trí thức và nghệ sĩ đã tụ họp, kêu gọi ngăn chặn bàn tay đẫm máu của quân xâm lược Mỹ: Liên minh các lực lượng dân tộc - dân chủ và hòa bình, Hội Văn nghệ sĩ yêu nước - yêu hòa bình, Phong trào Dân tộc Tự quyết đã ra đời.
Tương tự như loài dơi sợ ánh sáng, kẻ giả quyền lập tức đàn áp, khủng bố các tổ chức hòa bình, những người tận tụy với sứ mệnh của dân tộc.
Là một sinh viên ngành Văn, một phật tử nhân từ, khiêm nhường, nhưng nhiệt huyết, Nhất Chi Mai nói:
Tôi muốn làm ngọn đuốc sáng trong bóng tối để lên án những thế lực tối tăm, những tội ác của chiến tranh. Không còn lựa chọn nào khác, cách duy nhất mà tôi biết, và sức mạnh tôi có để có thể 'nói lên', và cách nói lên chân thực nhất, thuyết phục nhất - theo tôi - chính là tự tay thắp ngọn đuốc ấy.
Bị vây trong một tình cảnh:
Sống sao tôi không thể im lặng
Chị tin tưởng:
Chết mới được ra lời
Chị đã dũng cảm:
Chịu đau đớn thân này
Mong thoát lời thống thiết
Tại chùa Từ Nghiêm, đường Bà Hạt, quận 10, Sài Gòn, sau khi để lại mười bức thư cho cha mẹ, thầy cô, bạn bè, chị đã châm lửa tự thiêu để cảnh tỉnh những thế lực đen tối, vô minh, đồng thời lên án cuộc chiến tranh do đế quốc Mĩ gây nên cho đất nước Việt Nam.
Sau sự ra đi cảm động của chị Nhất Chi Mai, báo chí trong và ngoài nước đều lan tỏa thông tin với sự tiếc thương và kính trọng. Nhiều nhà văn, nhà thơ, nhà báo đã biểu hiện sự đồng cảm sâu sắc với chị qua nhiều tác phẩm lan truyền rộng rãi khắp mọi nơi.
Ngày nay, khi đọc lại từng câu thơ chân thành, giản dị của chị, nhớ đến phương cách 'nói lên' quyết liệt của chị trong bối cảnh lịch sử khắc nghiệt những năm 60 ấy, chúng ta cảm thấy sự hi sinh của chị như một ngọn đuốc đem lại ánh sáng trong bóng tối. Và những dòng thơ nhỏ nhẹ, hiền lành, khiêm nhường của chị sẽ vẫn vang vọng mãi trên mỗi cây cỏ, trên mỗi khúc trời yên bình của Việt Nam.
Kể lại câu chuyện ca ngợi hòa bình - Mẫu 4
Nông Văn Dền, tên gọi khác là Kim Đồng, sinh năm 1928, là người dân tộc Nùng, quê nhà anh tại tỉnh Cao Bằng. Gia đình anh cực kỳ nghèo khó. Cha anh qua đời vì bệnh phu phèn lao do thực dân Pháp gây ra. Anh trai của anh đi làm xa vài tháng một lần. Chỉ có mẹ già yếu và em họ mồ côi Cao Sơn ở nhà.
Từ khi còn nhỏ, Kim Đồng đã thể hiện tinh thần yêu nước và căm ghét giặc Pháp. Vùng quê của anh là điểm nổi bật của phong trào cách mạng từ sớm. Vào ngày 15 tháng 5 năm 1941, Đội Nhi đồng cứu quốc được thành lập, với 5 đội viên và Kim Đồng được bầu làm đội trưởng đầu tiên. Trong mọi hoạt động, Kim Đồng luôn thể hiện sự dũng cảm và sáng suốt.
Một lần, sau khi thực hiện nhiệm vụ dẫn cán bộ vào căn cứ, Kim Đồng trên đường về nhà đã nghe thấy tiếng ồn lạ từ trong rừng. Anh liền rủ người bạn Cao Sơn để cùng nhau báo động cho các cán bộ trong khu dân cư. Sau khi quan sát, Kim Đồng phát hiện bọn lính đang sử dụng sương mù để tiến hành phục kích trên đường vào khu dân cư, và chờ đợi lúc bắt người. Kim Đồng chỉ cho Cao Sơn lùi về phía sau và chạy đi báo tin. Sau khi đảm bảo rằng bạn đã rời đi, Kim Đồng chú ý đến địa hình, băng qua con suối và leo lên rừng. Hành động của anh khiến bọn lính buộc phải bắn hoặc gọi lên, tiết lộ vị trí của chúng. Khi thấy có người chạy, bọn lính bắn và hô lên: “Dừng lại!”. Tuy nhiên, Kim Đồng không ngừng bước. Bị bắn, anh đã hy sinh dũng cảm vào sáng sớm ngày 15 tháng 02 năm 1943.
Kể lại câu chuyện ca ngợi hòa bình - Mẫu 5
Chiến tranh đã trôi qua nhiều năm, nhưng những đau thương và mất mát mà nó gây ra không bao giờ phai nhạt. Giới trẻ ngày nay không phải trải qua cuộc chiến nên khó có thể hiểu hết những đau khổ ấy. Tuy vậy, những câu chuyện về thời chiến vẫn giúp ta suy ngẫm về sự tàn ác của chiến tranh và khát vọng hòa bình. Ông nội từng kể cho tôi về anh hùng Văn Ngọc Bé, người hy sinh để giành lại độc lập và tự do cho đất nước.
Vào thời điểm đó, kẻ thù đã lên kế hoạch tấn công trại lính của chúng ta, nhưng bất ngờ thay, mọi thứ trở nên yên bình, không có dấu hiệu gì đáng chú ý. Người cơ sở trở về và báo không thấy kẻ thù. Mọi người thở phào và tiếp tục lập kế hoạch chống lại địch. Nhóm bảo vệ chia thành hai phần để canh gác ở hai đầu. Tuy nhiên, đột nhiên, hai đội thám hiểm giả mạo thành dân thường, mang theo súng trường, bất ngờ xuất hiện trên đập trước nhà. Thời cơ đã không còn! Loạt đạn nổ, và đồng chí Bé bị thương nặng, hai chân bị găm đạn, nằm trong vũng máu. Mọi người nhanh chóng phản công bằng súng AK, tiêu diệt nhóm thám hiểm của địch. Địch rút lui bất ngờ. Tình hình trở nên cực kỳ căng thẳng, cần phải rút quân ngay lập tức để bảo vệ đồng đội. Đồng chí Văn Ngọc Bé đề xuất một ý kiến khiến mọi người đều đau lòng: 'Tôi sẵn sàng hy sinh để chống lại kẻ thù. Tất cả vũ khí của tôi hãy mang đi. Hãy mở hai quả lựu đạn, và đặt vào tay tôi. Nếu địch xâm nhập, tôi sẽ nổ tung chúng cùng với đối thủ. Mọi người hãy ra đi ngay!'.
Khi nghe đồng chí Bé nói như vậy, mọi người đều không đồng ý. Nhưng kẻ thù quay trở lại nhanh chóng. Trước tình hình khẩn cấp, nếu ở lại sẽ không có ai sống sót. Cuối cùng, mọi người đồng ý tuân theo lời đề xuất của đồng chí Bé. Trong căn nhà lá nhỏ, cạnh chiếc cối xay lúa, đồng đội quyết tâm hy sinh. Xung quanh căn nhà, chỉ có tre và chuối. Trước nhà là một con mương chảy. Họ vượt qua mương lầy, giữa tre và chuối, trên bầu trời, máy bay OV10, 'Rọ gáo' bay thấp. Anh em rẽ vào trong rừng, tim đau xé…
Và khi họ biến mất, bọn thám báo quay lại. Hai chân thương, máu chảy quá nhiều, đồng chí Văn Ngọc Bé không còn sức mạnh để thực hiện kế hoạch của mình là nổ hai quả lựu đạn cùng với kẻ thù. Anh nằm trên đất, đau thương, găm đạn xuyên thấu lưng, anh hùng Văn Ngọc Bé đã cùng với nhiều đồng đội khác của đơn vị hy sinh máu của mình để viết nên một bản giao hưởng bất tử về lòng dũng cảm giành lại hòa bình cho dân tộc Việt Nam, một hình ảnh không bao giờ bị quên.
Anh đã hy sinh một cách oai hùng. Nếu không có anh, chúng ta không thể có được hòa bình như ngày hôm nay. Chúng tôi sẽ noi theo gương anh, cố gắng học tập để xây dựng đất nước ngày một giàu mạnh hơn.
Kể lại câu chuyện ca ngợi hòa bình - Mẫu 6
Mình muốn chia sẻ câu chuyện “Ước vọng hòa bình của tuổi thơ” mà mình đọc trên báo “Khăn quàng đỏ”.
Chuyện kể rằng: ở lớp 5A trường Tiểu học Nguyễn Chí Thanh, phường Phú Hải, thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình có bạn tên là Trần Ngọc Kiên Giang. Khi xem chương trình trên kênh VTV3 của Đài Truyền hình Việt Nam, bạn thấy một cô bé tên Na-ka-mu-ra, tác giả của bức tranh “Tác hại của chất phóng xạ” từ hai quả bom nguyên tử của Mỹ ném xuống Nhật Bản trong Thế Chiến thứ hai. Na-ka-mu-ra sinh ra đã bị khuyết tật. Đôi chân của cô bé không bình thường nhưng cô có tài năng hội họa. Ngay từ nhỏ, cô đã nổi tiếng với bức tranh về “Màu xanh của em”, được tuổi thơ trên toàn thế giới ngưỡng mộ.
Và bây giờ, Na-ka-mu-ra đang học lớp cuối cấp Tiểu học, nghe tin Mỹ khởi đầu cuộc chiến tranh ở Iraq - một cuộc chiến tranh mà cả thế giới đều lên án, hàng trăm ngàn người dân vô tội đã chết vì bom đạn của Mỹ. Na-ka-mu-ra đã vẽ bức tranh 'Tác hại của chất phóng xạ” để chống lại chiến tranh. Một lần nữa, Na-ka-mu-ra làm mọi người kính phục và khâm phục. Trần Ngọc Kiên Giang đã viết thư để tỏ sự hâm mộ của mình với Na-ka-mu-ra.
Trong thư, Kiên Giang viết: “Bức tranh của bạn chứa đựng một thông điệp lớn: Phản đối chiến tranh và thể hiện ước mơ của tuổi thơ về hòa bình và hạnh phúc. Mình rất thích môn vẽ của bạn Na-ka-mu-ra ạ! Bạn là một cô bé dũng cảm vượt qua số phận của mình. Tác hại của chất phóng xạ đã khiến cho đôi chân của bạn không bình thường như chúng ta, nhưng ý chí và ước mơ của bạn đáng được mọi người trên thế giới khâm phục. Mình muốn bày tỏ sự cảm phục của mình và muốn kết bạn với bạn. Chúng mình sẽ viết thư cho nhau thường xuyên nhé! Mình sẽ dừng ở đây. Chúc bạn thành công trên con đường hội họa”.
Câu chuyện mình đọc là như thế này. Có lẽ sắp tới, tôi và Kiên Giang sẽ cố gắng vẽ một bức tranh về ước mơ hòa bình của tuổi thơ, góp phần cùng Na-ka-mu-ra chống lại chiến tranh, để trái đất chúng ta sống trong hòa bình hạnh phúc.
Kể lại câu chuyện ca ngợi hòa bình - Mẫu 7
Từ lâu, hòa bình luôn là vấn đề quan trọng trên khắp thế giới. Tôi từng nghe về một cô bé thơ ngây, yêu hòa bình. Câu chuyện kể về “Những con sếu bằng giấy”.
Ngày 16-7-1945, Mỹ chế tạo thành công bom nguyên tử. Chưa đầy một tháng sau, họ quyết định ném cả hai quả bom xuống Nhật Bản.
Hai quả bom đó rơi vào Hi-rô-si-ma và Na-ga-xa-ki, cướp đi mạng sống của hàng trăm nghìn người. Đến năm 1951, gần 100000 người ở Hi-rô-si-ma mất vì phóng xạ. Hậu quả của bom nguyên tử thật đau lòng và nặng nề.
Khi thành phố Hi-rô-si-ma bị tấn công bằng bom nguyên tử, cô bé Xa-xa-cô Xa-xa-ki chỉ mới hai tuổi nhưng đã bị nhiễm phóng xạ. Mười năm sau, cô bé mắc bệnh nặng và trải qua những ngày cuối đời trong bệnh viện. Tin vào một truyền thuyết, cô bé gấp sếu giấy và dành cho đến khi mãi mãi ra đi. Trước sự mất mát của em, học sinh Hi-rô-si-ma quyên góp xây tượng đài để tưởng nhớ. Trên đỉnh tượng, một em gái giơ cao hai tay với một con sếu trong lòng, biểu tượng cho sự mong muốn vĩnh cửu của hòa bình.
Hearing the story of Xa-xa-cô, everyone is moved by her love for peace. No miracle can sustain peace; it requires collective effort to protect and uphold the peace that we have and to push back against unjust wars.
The story I read is about Xa-xa-cô Xa-xa-ki, a two-year-old girl who survived the bombing of Hi-rô-si-ma but later died due to radiation exposure. She believed that folding a thousand paper cranes would cure her, but she passed away after folding only 644. Touched by her death, students in Hi-rô-si-ma raised funds to build a memorial statue, symbolizing their desire for everlasting peace.
Kể lại câu chuyện ca ngợi hòa bình - Mẫu 8
Trong các câu chuyện về kháng chiến chống Mỹ, em ấn tượng với nhà sư Thích Quảng Đức.
Trong thời kỳ chính quyền Mỹ Ngụy dưới sự lãnh đạo của Ngô Đình Diệm, nhân dân bị bóc lột và đàn áp, đặc biệt là Phật giáo. Trong một sự kiện thương tâm, 8 phật tử đã bị giết trong lễ Phật Đản. Thầy Thích Quảng Đức đã tự thiêu để phản đối sự bất công này, trở thành biểu tượng của sự đấu tranh chống lại chính quyền tàn bạo và sự can thiệp của đế quốc Mỹ.
Câu chuyện về thầy Thích Quảng Đức giúp tôi hiểu sâu hơn về thời kỳ lịch sử khó khăn. Không chỉ quân đội, mà cả những người dân và Phật tử cũng tham gia vào cuộc chiến chống lại chiến tranh. Sự hy sinh của họ xứng đáng được trân trọng và tự hào.