Với 3 mẫu so sánh Việt Bắc và Từ ấy dưới đây, học sinh có thể học cách viết một cách trôi chảy, sáng tạo hoặc thậm chí sử dụng những ý tưởng mới để diễn đạt theo cách riêng của mình. Ngoài ra, họ cũng có thể tham khảo thêm nhiều bài văn hay khác trong chuyên mục Văn 12.
Dàn ý so sánh hai tác phẩm Việt Bắc và Từ ấy của Tố Hữu
I. Khởi đầu
- Tố Hữu được coi là một trong những tượng đài hàng đầu của văn nghệ cách mạng trong thời hiện đại của Việt Nam.
- Tác phẩm thơ của Tố Hữu đa dạng và có giá trị, trong đó có bài thơ “Việt Bắc”. Phần thơ dưới đây thể hiện lòng nhớ nhà của những người phải rời bỏ Việt Bắc (trích từ bài thơ).
- Thơ của Tố Hữu thể hiện cuộc sống và tình cảm cách mạng của người Việt, mang trong mình nét đẹp văn hóa và truyền thống dân tộc. Từ đầu, cá nhân trong thơ của Tố Hữu không chỉ là cá nhân của một chiến sĩ, mà còn là cá nhân đại diện cho Đảng và nhân dân. Điều này được thể hiện rõ trong hai bài thơ “Từ ấy” và “Việt Bắc”.
II. Thân bài
1. Tổng quan về bài thơ, đoạn thơ
- Sau khi Điện Biên Phủ chiến thắng, miền Bắc giành được tự do. Vào tháng 10 năm 1954, các cơ quan Trung ương của Đảng và Nhà nước đã di chuyển từ Việt Bắc (nơi từng là trung tâm của cuộc kháng chiến) về Hà Nội. Sự chuyển động giữa những người ở lại và những người ra đi đã truyền cảm hứng cho nhà thơ sáng tác “Việt Bắc”.
- Đoạn thơ ở đầu bài thơ thể hiện điều này.
2. Nhận định về nội dung, nghệ thuật của đoạn thơ:
* Về nội dung:
- Đề cập đến ý chính của đoạn thơ: Tâm trạng đồng nhất từ đầu đến cuối, sự nhớ nhung sâu sắc, và tình thân ái giữa người ra đi và người ở lại. Hình ảnh của thiên nhiên, cuộc sống hàng ngày, và những ký ức về cuộc chiến tranh hiện ra chân thật, sâu sắc.
- Hai dòng đầu:
- Chữ “đây - đó” chỉ sự gần kề
- “Đắng cay ngọt bùi” là biểu tượng của khó khăn và niềm vui
=> Hai câu thơ miêu tả mối liên kết chặt chẽ giữa người dân Việt Bắc và những người theo đường lối cách mạng, cùng trải qua gian khổ và chia sẻ niềm vui.
- Hai dòng tiếp theo:
- Hình ảnh của “củ sắn lùi, bát cơm, chăn lùi” kết hợp với các từ như “chia, sẻ, cùng” thể hiện cuộc sống kháng chiến thiếu thốn, đắng cay và ngọt bùi cùng chia sẻ.
- Biểu tượng cho tình cảm đậm đà giữa các tầng lớp xã hội
=> Hai câu thơ gợi lên biết bao tình cảm sâu sắc. Những khoảnh khắc ấy luôn hiện diện trong tâm trí người ra đi, ghi lại dấu ấn không thể phai nhạt trong lòng người ở lại.
- Hai dòng tiếp theo:
- “Người mẹ nắng cháy lưng”, “địu con” là biểu tượng của sự lao động vất vả của người mẹ chiến sĩ trong cuộc chiến.
- Một hình ảnh xuất sắc của sự đẹp và tình thương trong cuộc sống kháng chiến.
- Cuối cùng, bốn câu cuối: nhớ về Việt Bắc là nhớ về thời khắc sống trong cuộc kháng chiến không thể nào quên:
- Nhớ “lớp học i tờ” xóa bỏ bóng tối của vô tri thức: Cách mạng mang lại cho nhân dân không chỉ tự do mà còn mang theo ánh sáng tri thức;
- Nhớ nhịp sống trong những “ngày tháng cơ quan”, ”khó khăn vẫn được vượt qua bằng tinh thần lạc quan yêu đời của các chiến sĩ bất khuất;
- Nhớ những âm thanh đặc trưng của vùng núi: tiếng rì rào của rừng chiều, tiếng gõ nhẹ của cối xay, tiếng suối chảy về xa xăm. Đó là những kỷ niệm về cuộc sống bình dị và hạnh phúc tại nơi núi rừng Việt Bắc.
- Cấu trúc “Nhớ sao” lặp lại 3 lần với sự tương phản và cảm hứng lãng mạn.
=>Nỗi nhớ về Việt Bắc là một tình cảm sâu sắc và vĩnh cửu, vẫn vang mãi trong lòng mỗi người con kháng chiến.
* Về nghệ thuật:
- Bức tranh về Việt Bắc hiện ra qua nỗi nhớ của nhân vật trữ tình, trong cái nhìn hoài niệm, có sự thống nhất và hòa nhập của ba phần chính: hồi ức về thiên nhiên, núi rừng Việt Bắc và cuộc sống ở đó.
- Dòng thơ tâm hồn, êm đềm, đậm chất cảm xúc
- Sử dụng từ “nhớ” như một thông điệp, thông điệp lặp lại: nhớ sao… nhớ người…, cùng với cách ngắt nhịp của câu thơ tạo nên âm nhạc thơ đầy đặn.
- Hình ảnh thật, giản dị, đầy tính gợi cảm.
3. Tương quan với bài thơ 'Từ ấy'
* Thuyết minh: cái tôi trữ tình: là sự thể hiện cảm xúc riêng của nhà thơ đối với các vấn đề xã hội, sự tiến triển của lịch sử dân tộc;
=> Khẳng định Tố Hữu là một nhà thơ theo chủ nghĩa cộng sản vì cuộc sống cách mạng luôn là điều quan trọng và ảnh hưởng sâu sắc đến sự sáng tác thơ của ông.
* Phân tích, chứng minh, bình luận:
Quá trình sáng tác của Tố Hữu luôn đi đôi với cuộc hành trình của cách mạng: các giai đoạn thơ tương ứng với các giai đoạn cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng.
- Bài thơ “Từ ấy”:
- “Từ ấy” được chọn từ tập thơ cùng tên, đây là tập thơ đầu tiên của Tố Hữu – có ý nghĩa đặc biệt trên con đường sáng tác thơ của ông.
- Bài thơ thể hiện một tính cách mạnh mẽ, một phong cách sôi nổi, và một quan điểm cá nhân tự do giữa các đồng chí, giúp cái tôi của nhà thơ được thể hiện tự do, không bị ràng buộc bởi bất kỳ quy tắc nào, tạo nên những bài thơ đẹp, cảm động, say mê, và bay bổng nhất trong văn thơ cách mạng Việt Nam thế kỉ XX.
- Bài thơ cũng thể hiện niềm vui, niềm hạnh phúc của một thanh niên giác ngộ về lý tưởng cách mạng.
- Thể hiện một cái tôi cá nhân cảm tính, tích cực và mạnh mẽ một cách mà thơ mới lãng mạn chưa từng biết đến.
- Phần trích đoạn từ 'Việt Bắc' và bài thơ nói chung:
- Cái tôi đã hoà quyện với cái Ta của cộng đồng, dân tộc. Mình là ta – Ta là mình – Ta và mình như hòa quyện vào nhau, xen lẫn nhau. Tố Hữu đã đặt mình vào vị trí của những người chiến đấu, nói về mình và người để thể hiện những tình cảm, lòng biết ơn sâu sắc đối với những tình cảm ấy.
- Qua “Việt Bắc” nói chung và đoạn trích cụ thể này, cái tôi trữ tình của Tố Hữu trong quá trình sáng tác này là cái tôi đồng lòng với cộng đồng, nhằm tôn vinh, tôn trọng hình ảnh của những người chiến đấu và bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc, lòng kính trọng trước sự hi sinh cao cả của họ.
- Khẳng định tính chính xác của quan điểm “Ngay từ đầu, cái tôi trữ tình trong thơ Tố Hữu đã là cái tôi của một chiến sĩ, và điều này ngày càng rõ ràng hơn khi ông xác định mình là một phần của Đảng, một phần của cộng đồng dân tộc”.
III. Phần kết
- Tổng kết về nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ.
- Ý kiến cá nhân về cái tôi trong thơ của Tố Hữu qua hai bài thơ.
So sánh bài thơ Việt Bắc và Từ ấy của Tố Hữu - Mẫu 1
Khi nhắc đến Tố Hữu, chúng ta không thể không nhớ đến 'Cánh chim đầu vào' của thơ ca cách mạng Việt Nam. Ông là nhà thơ được coi là hồn của dân tộc, với văn chương của mình, ông đã ghi dấu trên bảng danh vọng thơ ca Việt Nam với phong cách thơ trữ tình và chính trị. Ông là một chiến sĩ trên mặt trận văn hóa và nghệ thuật, giống như nhà thơ Sóng Hồng đã từng viết: 'Dùng ngòi bút làm đòn xoay chế độ, mỗi vần thơ bom đạn phá cường quyền'. Hay như lời Hồ Chí Minh đã từng nói:
“Nay ở trong thơ nên có thép
Nhà thơ cũng phải biết xung phong”
Nói về bài thơ 'Việt Bắc', vào tháng 7 năm 1954, khi Hiệp định Giơnevơ được kí kết, miền Bắc đã hoàn toàn được giải phóng. Tháng 10 năm 1954, các cán bộ từ Việt Bắc trở về miền Nam để tiếp quản thủ đô Hà Nội. Nhân dịp sự kiện lịch sử này, Tố Hữu đã sáng tác bài thơ 'Việt Bắc'. 'Việt Bắc' không chỉ là một bản tình ca mà còn là một bản hùng ca về cảnh sắc bi tráng, hào hùng trong cuộc kháng chiến ở Việt Bắc.
“Những đường Việt Bắc của ta
Ðêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Ðèn pha bật sáng như ngày mai lên.
Tin vui chiến thắng trăm miền
Hòa Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên vui về
Vui từ Ðồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.”
Những con đường Việt Bắc là những con đường mà quân đội và dân quân đi ra trận. Từ 'của ta' thể hiện mong muốn được đứng dậy, kiểm soát quê hương của mình, đất nước của mình. Tác giả liên tục sử dụng các từ như 'đêm đêm', 'rầm rập' kết hợp với phụ âm rung và thủ pháp so sánh. Tác giả tái hiện lại âm thanh hùng vĩ của cả một dân tộc ra trận. Câu thơ trên mô tả về âm thanh, trong khi câu thơ dưới mô tả nhiều hơn về hình ảnh.
Lí tưởng cách mạng là Đảng là Bác Hồ soi đường chỉ lối cho anh bộ đội vào trận đánh quân thù. “Bạn cùng mũ nan” đó là những chiếc mũ đồng bào dân tộc miền cao gửi tặng cho người lính để vượt qua bao nắng mưa dãi dầu.
Nếu hiểu theo nghĩa tường minh, “Ánh sao” ở đây là ánh sao của bầu trời Việt Bắc phản chiếu vào nòng súng thép của anh bộ đội vào trận đánh quân thù. Thế nhưng, nếu hiểu theo nghĩa hàm ẩn, thì đây là lí tưởng cách mạng, là Đảng là Bác Hồ soi đường chỉ lối cho anh bộ đội vào trận đánh quân thù.
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Nếu hiểu theo nghĩa tường minh, 'Ánh sao' ở đây là ánh sao của bầu trời Việt Bắc phản chiếu vào nòng súng thép của anh bộ đội vào trận đánh quân thù. Thế nhưng, nếu hiểu theo nghĩa hàm ẩn, thì đây là lí tưởng cách mạng, là Đảng là Bác Hồ soi đường chỉ lối cho anh bộ đội vào trận đánh quân thù. 'Bạn cùng mũ nan' đó là những chiếc mũ đồng bào dân tộc miền cao gửi tặng cho người lính để vượt qua bao nắng mưa dãi dầu.
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay
Nghệ thuật biến tấu ngôn từ, như lửa sáng, là sức mạnh bền vững của quân đội, là bài ca của những người lao động vất vả, xe cày, mang đạn ra chiến trường ngày đêm. Và chỉ trong các viện bảo tàng lịch sử của Việt Nam, chúng ta mới thấy được, có chiếc xe đạp có thể chở 2, 3 tạ đạn lên tiền tuyến. Thơ của nhà thơ Tố Hữu cộng hưởng với thơ của Bác Hồ, khi hướng đi luôn từ hiện tại đến tương lai, từ bóng tối đến ánh sáng. Và ở đó, nghệ thuật nói lên và phóng đại làm cho vẻ đẹp của con người Việt Nam tỏa sáng từ trang sử vẻ vang của dân tộc. Đó là vẻ đẹp của những con người tinh tế từ gót chân đến mái tóc, đẹp như chính sự thật sinh ra.
Đêm vắng sương mù kín đáo
Ðèn pha chiếu sáng như hôm sau tới.
Một phía là “đêm sương dày” một phía là “đèn pha sáng”, ánh đèn ấy làm tan đi tầng sương dày. Ánh sáng của chiếc đèn xe không chỉ là hình ảnh của những chiếc xe mà ta thấy trong “Đội xe không kính”. Ở đây, chúng ta có thể nhìn thấy khó khăn và thiếu thốn trong những ngày kháng chiến ban đầu. Chúng ta chỉ có vũ khí là sự kiên nhẫn và lòng dũng cảm, nhưng càng đánh, quân ta càng mạnh mẽ, chiến thắng trở nên dễ dàng. Chúng ta đã có những đoàn xe ra tiền tuyến. Chúng ta đã có những pháo binh trên mặt trận và ở đó, bình minh huy hoàng kêu gọi toàn bộ dân tộc Việt Nam đứng lên chiến đấu.
Tám dòng thơ trên mô tả cảnh quân đội ra quân, còn 4 dòng thơ dưới đề cập đến vẻ đẹp của niềm vui chiến thắng:
“Tin vui chiến thắng khắp nơi
Hòa Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên vui mừng
Vui từ Ðồng Tháp, An Khê
Vui trên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.”
Từ “vui” được lặp lại 4 lần, thể hiện âm nhạc vui sướng từ biết bao trái tim của người dân Việt Nam. Nghệ thuật liệt kê “Hòa Bình” “Tây Bắc” “Điện Biên”,..chiến thắng sau còn đong đầy hơn chiến thắng trước. Do đó, ta thấy rằng đó chính là vẻ đẹp của Việt Bắc, đó là lý do mà người ta nói: Việt Bắc của Tố Hữu không chỉ thuyết phục người đọc ở một bản tình ca mà ở đó còn là một bản hùng ca trữ tình về cảnh ra quân, là những giai điệu tự hào trong thơ ca Việt Nam.
Sau đó, chúng ta thấy:
Từ đó, ánh nắng hạ mặt trời
Chân lý rạng rỡ qua tâm hồn
Hồn tôi như một vườn hoa xanh mướt
Phả hương thơm và rộn tiếng chim…
Tôi cam kết lòng mình với mọi người
Để chia sẻ tình yêu với muôn nơi
Để hồn tôi liên kết với những hồn khổ
Gần gũi nhau hơn để mạnh mẽ vượt qua cuộc sống
Tôi đã trở thành con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp tái sinh
Là anh của vạn đời em nhỏ
Bất kể quần áo, chẳng quan trọng…
Bài thơ “Từ ấy” gồm 3 khổ thơ, mỗi khổ thơ mang một vẻ đẹp đặc biệt. Khổ thơ đầu tiên là niềm vui của tác giả khi tiếp cận với lý tưởng cách mạng. Ông so sánh tâm hồn mình với một khu vườn rộng lớn, từ khi có ánh sáng của lý tưởng, khu vườn ấy trở nên rực rỡ với tiếng chim vang vọng, là niềm vui của tác giả, là ánh sáng của một vùng đất hồng hồng đánh bật bóng tối, là ánh sáng của triết học Mác Lê nin, là Đảng dẫn dắt con đường. Trong khổ thơ thứ hai, từ niềm vui ấy dẫn đến ý thức trách nhiệm của người chiến sĩ. Họ phải gần gũi với nhân dân, khơi dậy lòng đoàn kết dân tộc. Cuối cùng, sự thay đổi về ý thức trách nhiệm dẫn đến sự thay đổi về tâm tư tình cảm. Sử dụng liên tục các từ như “là anh” “là em” “là con”, ông xem mọi người, mọi đồng chí như trong một gia đình. Họ đều là máu thịt của mình. Và nhiệm vụ cuối cùng, nhiệm vụ quan trọng nhất là phải xây dựng, thấu hiểu nỗi thống khổ của nhân dân. Đó là vẻ đẹp của bài thơ “Từ ấy”.
Trong văn chương, chúng ta nhận thấy rằng, khi thời cuộc thay đổi, cách viết của nhà văn cũng phải thay đổi theo. Chúng ta đã biết đến Nguyễn Minh Châu trước năm 1975, ông viết nhiều về con người Việt Nam trong cuộc chiến. Sau này, chúng ta biết đến Nguyễn Minh Châu sau năm 1975, ông viết về cuộc sống với triết lý, trải nghiệm và những câu chuyện thực tế nhưng mang lại những tuyên ngôn sâu sắc. Nguyễn Tuân trước năm 1945 và sau năm 1945 là hai người hoàn toàn khác nhau. “Chữ người tử tù” khác biệt hoàn toàn so với “Người lái đò sông Đà”.
Bài thơ “Việt Bắc” và “Từ ấy” có điểm chung ở đây là sự nhất quán trong phong cách sáng tác “trữ tình và chính trị”. Là nhà thơ cách mạng, ông luôn nhận thức được rằng ngòi bút của mình phải thực sự là vũ khí trên mặt trận văn hóa và nghệ thuật. Thơ của ông có thể xem như “Nhật kí về lịch sử Việt Nam”, vì vậy không ngẫu nhiên mà ông được gọi là hồn thơ của dân tộc. Tuy nhiên, điểm khác biệt nằm ở nội dung. Một tác phẩm viết về niềm vui khi tiếp cận với ánh sáng lý tưởng của cách mạng. Một tác phẩm khác viết về những năm tháng không thể nào quên của dân tộc Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Một tác phẩm viết bằng thể thơ lục bát, một tác phẩm khác không.
Dù trước hay sau cách mạng, dù là “Từ ấy” hay “Việt Bắc”, phong cách thơ của Tố Hữu thật sự đáng ngưỡng mộ. Ông là người viết thư kí trung thành của thời đại, tác phẩm của ông là những gương mặt tiên tiến trên con đường cuộc đời.
So sánh giữa bài thơ “Việt Bắc” và “Từ ấy” của Tố Hữu - Mẫu 2
Bài thơ Việt Bắc được nhà thơ Tố Hữu sáng tác vào tháng 10 năm 1954, ngay sau chiến thắng Điện Biên Phủ vào tháng 5 năm 1954, khi miền Bắc được giải phóng. Các cơ quan Trung ương của Đảng và Nhà nước đã di chuyển từ Việt Bắc (thủ đô của cuộc kháng chiến) về Hà Nội. Sự tiếc nuối khi phải rời bỏ nơi ở là nguồn cảm xúc lớn cho Tố Hữu khi viết bài thơ này. Bài thơ Việt Bắc được trích từ tập thơ Việt Bắc (1947 - 1954) của Tố Hữu. Bài thơ đã thể hiện sự nhớ nhà của một cán bộ cách mạng (cũng là nhà thơ) đối với chiến khu Việt Bắc khi họ rời chiến khu để về thủ đô Hà Nội.
Cá nhân biến thành cộng đồng, tập hợp sức mạnh lớn lao của cả dân tộc. Đoạn thơ vẽ nên bức tranh lịch sử về một đội quân nhân dân đông đảo ra trận được mô tả hoành tráng trong mỗi câu thơ: Những con đường Việt Bắc của chúng ta … Đèn pha sáng như ngày mai.
Những con đường cụ thể của Việt Bắc cũng là biểu tượng của con đường cách mạng của dân tộc đã mở ra một cách đầy rộng lớn. Con đường là biểu tượng quen thuộc trong thơ Tố Hữu đại diện cho đường cách mạng. Khí thế hùng hồn được thể hiện qua hàng loạt các phụ âm như rung, từ ngữ như đêm đêm, rầm rập, điệp điệp, trùng trùng. Đoạn thơ vẽ lên không gian rộng lớn (Những con đường Việt Bắc) và thời gian trầm lặng (Đêm đêm) của cuộc kháng chiến vĩ đại, trường kì.
Câu thứ hai mở ra một cảnh khác, đó là những ngày kháng chiến chống Pháp, khi máy bay địch hoạt động chủ yếu vào ban ngày. Vì vậy, chúng ta phải hành quân vào ban đêm là rừng núi là đêm (Tố Hữu). Trên những con đường Việt Bắc, đêm sau đêm cứ rầm rập tiến quân ra trận.
Khí thế của cuộc chiến được thể hiện thông qua âm thanh rầm rập - từ ngữ này không chỉ mô tả được tiếng động mạnh mẽ của bước chân mà còn giúp người đọc hình dung được nhịp độ hối hả, gấp gáp của một đoàn người đông đảo cùng hành quân về phía trước, tất cả tạo nên một sức mạnh tổng hợp làm rung chuyển cả mặt đất.
Từ 'rầm rập' là một từ tượng thanh rất sinh động. Nó miêu tả bước chân của đoàn quân đầy khí thế và sức mạnh mạnh mẽ của một tập thể đông đúc có tổ chức. Với từ 'rầm rập' đặc biệt đó, cuộc ra trận của quân ta trở thành một cuộc diễu binh hùng tráng:
Xuân ơi, hãy ngắm cuộc diễu binh hùng vĩ
Ba mươi mốt triệu nhân dân
Tất cả hành quân
Tất cả là chiến sĩ
Vì vậy, bước chân của đoàn quân trong những đêm ấy như làm rung chuyển cả mặt đất. Hình ảnh trong thơ mang đậm tinh thần truyền thống. Trên con đường ấy, dường như cả nước cùng hành quân. Tất cả đã mô tả đoàn quân mạnh mẽ bước đi như những đợt sóng dâng trào, liên tiếp kéo dài không ngừng.
Mặc dù thiếu vật liệu trang bị (chiến sĩ phải đội mũ nan đan từ tre và vải) nhưng đoàn quân điệp điệp trùng trùng là biểu tượng cho sự trưởng thành vượt bậc của quân đội và dân tộc trong cuộc kháng chiến.
Trong những đêm dài hành quân chiến đấu đó, ánh sao lấp lánh trên đầu súng của người lính, đó có thể là ánh sao sáng tỏa trong đêm tối hoặc là một biểu tượng ẩn dụ: ánh sao của lý tưởng dẫn dắt con đường cho người chiến sĩ đuổi bắt kẻ thù, bảo vệ độc lập và tự do cho Tổ quốc. Ánh sao trên đầu súng bạn và trên mũ nan. Câu thơ không chỉ miêu tả sự thật mà còn mang ý nghĩa tượng trưng sâu xa. Đầu tiên, nó mô tả đoàn quân di chuyển trong đêm, đầu súng lấp lánh ánh sao trời. Nhưng cũng là ánh sao của lý tưởng.
Chiến sĩ đi dưới bóng sao trên nắp mũ
Mãi mãi là điểm sáng dẫn đường
(Vũ Cao)
Hình ảnh rạng rỡ kia kết hợp với hình ảnh chiếc mũ nan giản dị, vẫn còn thiếu vật liệu trang bị của anh bộ đội, tạo nên vẻ đẹp bình dị nhưng cao quý, bình thường nhưng vĩ đại. Nhà thơ Chính Hữu cũng đã viết về Đầu súng trăng treo trong bài thơ Đồng chí của ông.
Tuy nếu ánh trăng trong Đồng Chí là biểu tượng cho khát vọng hòa bình, vẻ đẹp yên bình của quê hương, thì ánh sao trong bài thơ này lại là biểu tượng của lí tưởng, của niềm tin chiến thắng trong lòng người lính ra trận. Khí thế mạnh mẽ của quân đội nhân dân được tác giả mô tả bằng lối nói thực tế, phóng đại:
Công nhân đỏ đuốc mỗi đoàn
Bước chân nát đá, muôn lửa rực cháy.
Những đám lửa đỏ rực sáng bừng soi đường, làm nổi bật hình ảnh các đoàn công nhân mang đạn, kiên cường vượt qua núi đồi cao hiểm để cung cấp vật liệu quân sự cho quân đội, giúp họ chiến thắng. Thành ngữ 'chân cứng đá mềm' được biến thành 'bước chân nát đá' - hình ảnh mạnh mẽ đó là sự khẳng định về ý chí phi thường, sức mạnh lớn lao của nhân dân kháng chiến.
Cuộc kháng chiến của chúng ta là cuộc chiến tranh toàn dân, toàn dân quyết chiến, nó thể hiện sức mạnh to lớn của toàn dân tộc trong cuộc đấu tranh cho lý tưởng chính nghĩa, và chắc chắn chúng ta sẽ chiến thắng. Ở hai câu thơ này, tác giả sử dụng nhiều hình ảnh sắc nét tạo ra một bức tranh vừa chân thực vừa phong phú.
Các đoàn công nhân bước vào chiến dịch như bước vào một lễ hội hoa đăng. Điều này thực sự là một tấm gương rực rỡ, một nguồn cảm hứng lớn về sự kiêu hãnh và niềm vui ra trận của quân ta. Thật sự, Cách mạng là một ngày hội của nhân dân (Karl Marx).
Cái tôi đại diện cho Việt Bắc - trung tâm của cuộc kháng chiến, trí óc của cách mạng, trái tim của dân tộc, với tinh thần ra trận hùng hồn; với niềm tự hào, niềm kiêu hãnh, niềm tin vào chiến thắng... Từ những đêm đó ở Việt Bắc, một cảm hứng lãng mạn về tương lai rạng ngời của dân tộc phát triển qua những dòng thơ:
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha sáng như bình minh tương lai
Hai câu thơ tạo ra sự đối lập giữa bóng tối và ánh sáng: nếu câu trên mô tả bóng đêm u tối thăm thẳm, gợi nhớ cuộc sống bị áp bức dưới sự thống trị của kẻ thù, thì câu dưới tỏa sáng niềm tin vào một ngày mai chiến thắng huy hoàng, tương lai tươi sáng.
Thực ra, trong đoạn thơ trên, ta nhận thấy sự đối lập rõ ràng. Tố Hữu sử dụng một hệ thống từ chỉ ánh sáng như ánh sao, đuốc đỏ, lửa bay, đèn sáng phản ánh một hệ thống từ chỉ bóng tối như đêm đêm, nghìn đêm, thăm thẳm - với sự thống trị của ánh sáng trước bóng tối, tác giả dường như muốn nhấn mạnh sự hùng mạnh của dân tộc ta trước mọi kẻ thù tối ám, đồng thời khẳng định rằng những ngày hạnh phúc, tươi sáng sẽ đến với dân tộc ta.
Qua không gian rộng lớn, thời gian đằng đẵng, khí thế hào hùng ở Việt Bắc, chúng ta thấy rõ cuộc kháng chiến chống Pháp là một cuộc trường kỳ, gian khổ, nhưng dân tộc Việt Nam không bao giờ đầu hàng, mà luôn kiên cường, vững vàng, đoàn kết nhau để đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi.
Và đây là một tin vui vang vọng khắp đất nước báo tin chiến thắng:
Tin vui chiến thắng trên mọi miền
Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên đón vui
Vui từ Đồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.
Nhịp điệu sôi động, phấn khích, lan tỏa niềm vui và hân hoan. Mỗi địa danh như một nốt nhạc vang vọng trong bản ca chiến thắng. Không chỉ ở Tây Bắc, mà cả nơi khắp trăm miền từ Nam Bộ, Tây Nguyên, đến Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên đều rộn ràng niềm vui.
Các từ như vui, vui về, vui từ, vui lên tự nhiên đặt Việt Bắc là trung tâm của niềm vui. Từ Việt Bắc, niềm vui lan tỏa. Và từ mọi nơi, tin vui tràn về Việt Bắc. Từ đó, Tố Hữu mở ra một tương lai mơ ước trong bức tranh mang tên Ngày mai…
Trong bức tranh đó, Việt Bắc sẽ liên kết với cả miền xuôi lẫn miền ngược – nơi núi rừng hoang sơ. Tố Hữu mơ ước về một Việt Bắc với giao thông thuận tiện, điện đến mọi nhà, khai thác khoáng sản, phát triển phố phường, trường học, chợ phiên sôi động… Những mơ ước của một thời sẽ trở thành hiện thực rực rỡ giữa cuộc sống.
Đoạn thơ gợi lại những kỷ niệm về kháng chiến hào hùng với nhịp điệu nhanh, sôi động, phản ánh không khí sôi động, hào hứng của cuộc kháng chiến. Không khí vui tươi, sôi động của cuộc chiến trên đường phố, tiếng xe vang vọng, quân lính tiến lên tiếng gió rì rào trên núi.
Đây là hình ảnh biểu tượng cho cuộc hành quân lịch sử của dân tộc trong kháng chiến chống Pháp, nhìn qua góc nhìn của một thi sĩ lãng mạn, hướng tới tương lai của những người lính.
Tố Hữu, một nhà thơ cách mạng, đã từng sớm nhận ra lý tưởng cách mạng, và hành trình thơ của ông đi kèm với sự gián đoạn của cuộc cách mạng. Nhân vật trong thơ ông phản ánh vẻ đẹp của cuộc sống mới và phản ứng mạnh mẽ trước những hành động xấu xa của kẻ thù.
Cái tôi cách mạng của Tố Hữu từ bài thơ 'Từ ấy' đến 'Việt Bắc' đã có sự thay đổi. Cái tôi trữ tình của Tố Hữu trong tập 'Từ ấy' là một cái tôi mang tính chất chính trị, phản ánh bối cảnh thời đại.
Cái tôi trữ tình này đã trải qua sự phát triển trong cuộc đấu tranh, trong mối quan hệ với cuộc sống của dân tộc, khi cái tôi này không chỉ là của riêng mình mà là của mọi người, của quá khứ, hiện tại và tương lai. Đây là lần đầu tiên cái tôi đó trở thành một phần của xã hội cách mạng.
'Từ ấy' được coi như là tuyên ngôn về sự giác ngộ cách mạng, thơ cách mạng được coi như là tuyên ngôn cho sự xuất hiện của một loại nhà thơ mới: nhà thơ - chiến sĩ. Trong tập 'Từ ấy', là một cuộc đấu tranh cách mạng trong nhà tù, cái cốt lõi của tâm trạng nhân vật trữ tình phản ánh tâm hồn và khát vọng của một con người mới trong thời đại mới. 'Từ ấy' là sự gắn bó tự nguyện của cái tôi với quần chúng, với cuộc sống lớn lao, với đất nước và nhân dân...
Theo quan điểm về lẽ sống, giai cấp tư sản và tiểu tư sản thường đề cao chủ nghĩa cá nhân (Ta là một, là riêng là thứ nhất Không có ai bè bạn nổi cùng ta). Nhưng sau khi nhận thức được lý tưởng, Tố Hữu nhất quyết nói:
Tôi kết lòng với mọi người
Để cảm nhận sâu về mọi nơi
Đại từ 'tôi' nhấn mạnh ý thức về mục đích và phong cách sống của nhà thơ. 'Tôi' là cá nhân; 'mọi người' là cộng đồng, tập thể. Tác giả nói 'Tôi kết lòng với mọi người', tức là tôi tự nguyện hòa nhập cùng mọi người.
Ta cũng có thể hiểu là tôi tự trói buộc lòng mình với mọi người. Dù hiểu theo cách nào, tác giả khẳng định ý thức tự nguyện và quyết tâm hòa nhập cá nhân với tập thể.
Đó còn là cái tôi mong muốn cống hiến cho lí tưởng, thể hiện trách nhiệm của người chiến sĩ... Đó là tâm hồn của nhà thơ, cá nhân của ông.
Cái tôi mở lòng với muôn nơi, không giới hạn trong không gian và thời gian. Nghệ thuật hoán dụ giúp Tố Hữu diễn đạt sự đồng cảm sâu sắc với từng hoàn cảnh, từng con người.
Là tinh thần hiểu biết sâu sắc về sức mạnh của sự đoàn kết... Và không chỉ là sự đồng cảm chung chung mà tác giả đặc biệt quan tâm đến nỗi khổ của những con người cần lao
Cho tâm hồn tôi gắn với nỗi khổ
Gần gũi hơn với đời sống khối đời
Khối đời mà nhà thơ nói đến có thể là biểu tượng cho một tập thể đông đảo đoàn kết nhau, cùng chung cảnh ngộ, hợp tác mạnh mẽ cho một mục tiêu chung. Thông qua bức tranh thơ này, nhà thơ đã nhận ra rằng khi cá nhân hòa nhập vào cộng đồng, khi tâm hồn của mỗi người kết nối với nỗi khổ của mọi người, thì sức mạnh ấy sẽ được tăng cường lên gấp nhiều lần. Từ đó, Tố Hữu đặt mình giữa cuộc sống và trong cộng đồng đông đảo của những người lao động, để rồi trỗi dậy tại đó.
Khi đến tập thơ Việt Bắc, nghệ thuật thơ của Tố Hữu đã đi vào một giai đoạn mới, hòa mình vào bước tiến của cuộc cách mạng. Trong giai đoạn này, nghệ thuật thơ của ông đã mở rộng cả về cảm hứng, lí tưởng và phạm vi miêu tả. Sự mở rộng về không gian và thời gian đã tạo ra một diện mạo nghệ thuật mới cho Việt Bắc.
Tập thơ Việt Bắc đậm chất dân tộc, thể hiện sức mạnh của toàn dân trong cuộc kháng chiến. Trong việc miêu tả quan hệ xã hội, Tố Hữu là người đầu tiên phát hiện ra tình quân dân được so sánh như tình cá nước, đó là một nét đẹp trong văn hóa truyền thống của Việt Nam.
Có thể nói, từ lí tưởng cách mạng từ 'Từ ấy' đến 'Việt Bắc' đã được nâng cao thêm một bước. Cuộc kháng chiến càng lớn bao nhiêu, thì lí tưởng càng trở nên tinh tế, lung linh bấy nhiêu.
Ở thời điểm này, gần như tất cả mọi người không chỉ nhận thức được lý tưởng cách mạng mà còn biết cách hành động theo con đường cách mạng. Từ đứa trẻ Lượm đến những chiến sĩ, những cán bộ... đều chung một lý tưởng và gặp nhau trên con đường ra mặt trận.
Hình ảnh chú bé liên lạc Lượm không chỉ mang trong mình một lý tưởng cách mạng mà hình ảnh của em cũng là một lý tưởng, biểu tượng cho những đứa trẻ liên lạc của Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp, là biểu tượng của sự vui vẻ, hồn nhiên và dũng cảm.
Từ khi lý tưởng cộng sản đến với Tố Hữu, nó giống như một luồng ánh sáng mãnh liệt và mới mẻ. Trong tâm hồn sôi nổi của nhà thơ trẻ, nó trở thành một nguồn năng lượng thẩm mỹ tự nhiên, tự tỏa sáng ra thế giới xung quanh.
Đặc điểm quan trọng nhất của giai đoạn 'Từ ấy' không chỉ là việc khám phá sâu sắc về thực tế đời sống mà còn là sự biểu hiện chân thành của cái tôi trong sáng, hồn nhiên của một thanh niên tràn đầy hoài bão, tự hát lên niềm vui lớn khi gặp được lý tưởng cộng sản và hy sinh cho lý tưởng đó. Tuy nhiên, ở 'Việt Bắc', lý tưởng không phải là đối tượng được mô tả trực tiếp. Nó được áp dụng như một quan điểm tiếp cận, đánh giá và tổng kết thực tế.
Lí tưởng trong thời kỳ này đã trở thành cuộc sống hàng ngày mà nhân dân đã thực hiện, đã sống với lí tưởng đó một cách giản dị:
Vẻ đẹp của lí tưởng, của ước mơ đã trở thành vẻ đẹp của nhân dân kháng chiến, vẻ đẹp của con người và nhân dân thực (Trần Đình Sử).
Sự thi vị yêu sách người viết văn phải nhìn nhận con người và cuộc sống không chỉ bằng con mắt của cá nhân mà chủ yếu là bằng con mắt toàn diện của lịch sử, dân tộc và thời kỳ. Cảm hứng lãng mạn chủ yếu được thể hiện trong việc khẳng định phương diện lý tưởng của cuộc sống mới và vẻ đẹp của con người mới, ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng và tin tưởng vào tương lai rạng ngời của dân tộc. Tất cả đã tập trung tại Việt Bắc, góp phần xây dựng hình ảnh đất nước, con người Việt Nam vươn lên trong những thách thức để đạt được ngày chiến thắng. Đó là kết quả của quá trình trải nghiệm thực tế, chiến đấu và gắn bó với cách mạng của người chiến sĩ.
So sánh 'Việt Bắc' và 'Từ ấy' của Tố Hữu - Mẫu 3
Đặng Thai Mai đã từng có nhận xét như sau: “Với Tố Hữu, thơ là vũ khí đấu tranh cách mạng. Đó chính là đặc điểm nổi bật và cũng là bí quyết độc đáo của Tố Hữu trong thơ ca”.
Có thể nói, suốt cuộc đời sáng tác thơ của Tố Hữu đều liên kết chặt chẽ với hành trình cách mạng đầy gian khổ nhưng cũng không thiếu những chiến công lịch sử của dân tộc. Vì thế mà, mọi tác phẩm của ông đều mang xu hướng trữ tình chính trị kết hợp với nguyên liệu dân tộc theo một cách độc đáo, riêng biệt.
Thơ của Tố Hữu có giai điệu dịu dàng của tình cảm, nhưng lại đầy nhiệt huyết, truyền động lực cho tinh thần cách mạng của quân và dân trong những thời kỳ khó khăn.
Trong số đó, 'Từ ấy' và 'Việt Bắc' là hai tác phẩm nổi bật nhất. Hai tác phẩm này được viết trong hai giai đoạn khác nhau của cách mạng, vì vậy chúng cũng thể hiện sự biến động, di chuyển trong cái tôi trữ tình qua hai giai đoạn lịch sử của đất nước.
Cái tôi trữ tình có thể hiểu là những suy nghĩ, cảm nhận riêng của mỗi tác giả về cuộc sống, xã hội và quê hương. Nó được thể hiện rõ qua các tác phẩm văn học trong từng giai đoạn lịch sử với các hoàn cảnh khác nhau.
Đối với Tố Hữu, cái tôi trữ tình của ông gắn bó chặt chẽ với cuộc hành trình cách mạng đầy gian nan, nhưng cũng không thiếu những đỉnh cao vang dội của sự thành công của dân tộc, của nhân dân. Đặc biệt, đó là một cái tôi được vững vàng trong lòng dân, trong lòng Đảng và trong lòng quốc gia.
Thơ của ông vì vậy làm phong phú thêm niềm vui và đau thương của thời đại, thúc đẩy những cảm hứng chung. Mặc dù là cá nhân, nhưng trong thơ của ông, cái tôi không bao giờ đơn độc, mà luôn hòa nhập vào dòng chảy suy tư chung.
Trong các tác phẩm của Tố Hữu, cái tôi trữ tình của nhà thơ luôn hiện diện với vẻ đẹp sáng ngời của người chiến sĩ cách mạng mong muốn hòa mình vào cộng đồng. Đặc biệt, trong tập thơ đầu tiên của mình - Từ ấy - ông đã thể hiện khao khát ấy qua những vần thơ dịu dàng và sâu lắng.
'Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trạng trải với trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời
Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm, cù bất cù bơ...'
Càng về sau, ông càng đi cùng những người cùng chí hướng trên hành trình cách mạng gian nan, thì cái tôi trữ tình của ông càng thêm sâu sắc. Cái tôi của chiến sĩ đã trở thành tôi lớn, là tôi của Đảng, của nhân dân.
Những vần thơ ông viết càng trở nên mạnh mẽ, sâu lắng hơn với tinh thần cách mạng. Cái tôi trữ tình gắn bó mật thiết với cách mạng, từ sơ tâm đến hồn thơ đồng lòng với cách mạng, nghệ thuật và tình yêu.
Người đọc có thể dễ dàng nhận thấy sự biến đổi của cái tôi trữ tình đó qua việc ra đời của hai tác phẩm. Với Tố Hữu, mỗi tác phẩm của ông đều mang ý nghĩa và đánh dấu những bước ngoặt quan trọng đối với cách mạng và sự nghiệp bền vững của dân tộc.
Trong đó, Từ ấy là bài thơ ông sáng tác vào thời điểm cách mạng đang tiến triển rõ ràng. Vào tháng 7/1938, Tố Hữu - một thanh niên Huế năng động tham gia các hoạt động thanh niên - được vinh dự gia nhập vào Đảng.
Với chàng trai trẻ chỉ mới 18 tuổi đó, đây là niềm vui to lớn, là một điểm sáng trong cuộc sống và sự nghiệp cách mạng của ông.
Nếu Từ ấy thể hiện niềm vui riêng tư của tác giả, thì Việt Bắc lại phản ánh niềm vui chung của cả dân tộc.
Bài thơ Việt Bắc được Tố Hữu viết sau chiến thắng Điện Biên Phủ (7/1954), hiệp định Giơ-ne-vơ đã mang lại độc lập cho miền Bắc. Từ đó, một chương mới của dân tộc đã bắt đầu.
Tuy nhiên, bên cạnh niềm hạnh phúc rộn ràng ấy, việc phải rời xa chiến khu Việt Bắc để quay về thủ đô đã khiến người chiến sĩ chìm trong những cảm xúc xúc động khó tả, xen lẫn chút tiếc nuối nhớ thương. Từ những cung bậc cảm xúc đó, Việt Bắc đã ra đời và để lại dấu ấn sâu đậm trong sự nghiệp văn chương của Tố Hữu.
Sự thay đổi về hoàn cảnh lịch sử đã kích thích sự biến đổi của cái tôi trữ tình của Tố Hữu. Dựa trên nền tảng lịch sử, nội dung của tác phẩm cũng trở nên đa dạng hơn. Có thể nói, cái tôi trữ tình đã trải qua một quá trình phát triển để trở nên hoàn thiện hơn.
Dù có thay đổi như thế nào, lý tưởng cách mạng và tình yêu đất nước của ông vẫn nguyên vẹn, không bị ảnh hưởng bởi thời gian. Sự biến đổi của cái tôi đó chính là sự hoàn thiện của thi nhân, cũng như là sự phát triển của cách mạng dân tộc từ trẻ trung đến trưởng thành.
Ở Từ ấy, ta như cảm nhận được niềm hạnh phúc của chàng thiếu niên mười tám tuổi khi ôm trọn lý tưởng cách mạng trong lời thơ:
Từ ấy trong lòng tôi rực sáng
Mặt trời chân lý chiếu sáng qua tâm hồn.”
Giọng thơ bay bổng nhưng không thiếu nhiệt huyết, thể hiện sự khao khát mãnh liệt hòa mình vào cuộc sống, nhân dân, cống hiến cho sự nghiệp tổ quốc. Cái tôi cá nhân của Tố Hữu hiện lên với năng lực tích cực.
Mỗi dòng thơ đều truyền đạt nhiệt huyết và khí thế của một chàng trai đầy kích động, hòa nhập vào khúc hát quân hành. Cái tôi trữ tình của hồn thơ cởi mở, sẵn lòng đón nhận và hòa nhập với cái tôi chung của cộng đồng.
Việt Bắc, mười sáu năm sau, trong một hoàn cảnh mới, với sự tôi luyện của chiến trường và cuộc sống khó khăn, Tố Hữu trở thành một người chiến sĩ quả cảm và anh dũng. Cảm nhận của ông đã chuyển mình, đổi mới.
Ở Việt Bắc, không còn thấy khát khao và cảm xúc trực tiếp mà thấy sự ấm áp, suy tư và ân tình thủy chung. Đây không chỉ là một bài thơ mà còn là một bức tranh hồi tưởng về kháng chiến, là lời giãi bày nỗi nhớ của người đi và người ở lại.
Lời người đi nói với người ở lại, lời người ở lại dành cho người đi thể hiện tình cảm gắn bó của các chiến sĩ tại núi rừng Tây Bắc.
Cả bài thơ Việt Bắc toát lên lòng biết ơn sâu sắc và gợi nhắc về ân tình thủy chung. Mặc dù có những cảm xúc khó tả giữa người đi và kẻ ở lại, nhưng không phải là nỗi buồn ủy mị. Thay vì sống trong quá khứ, hãy đón chờ tương lai tươi đẹp hơn.
Sự chia tay ngày hôm nay là tiền đề cho sự thống nhất đất nước ngày mai.
'Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn'
Sự vận động cái tôi trữ tình thể hiện qua phong cách viết và thể thơ lục bát trong Việt Bắc. Điều này chứng tỏ sự trưởng thành và phát triển trong hồn thơ của Tố Hữu.
Cái tôi trữ tình của Tố Hữu đang tiến gần đến nhân dân, gắn bó với nhân dân, đồng thời phản ánh hoàn cảnh lịch sử và sự phát triển của cách mạng dân tộc.
Tố Hữu, từ một hồn thơ trẻ trung, bay bổng trong những suy nghĩ của cái tôi mạnh mẽ, đã dần chuyển mình để trưởng thành hơn. Dù thời gian có làm thay đổi, hồn thơ ấy vẫn giữ nguyên những tình cảm sơ tâm ban đầu với cách mạng, với sự nghiệp chung của đất nước.