Phân tích nhân vật Tràng và A Phủ trong Vợ Nhặt và Vợ chồng A Phủ mang đến 2 dàn ý và 3 bài văn mẫu xuất sắc, giúp học sinh lớp 12 tự học, nâng cao kỹ năng viết văn.
A Phủ và Tràng là hai nhân vật quan trọng trong văn học Việt Nam. Với 3 bài văn mẫu so sánh A Phủ và Tràng dưới đây, học sinh có thể nắm vững kiến thức và rèn luyện kỹ năng viết văn.
Dàn ý so sánh Tràng và A Phủ
Phần 1: Cấu trúc dàn ý
A. Khởi đầu:
- Tổng quan về hai tác phẩm, tác giả và vấn đề được thảo luận
B. Nội dung chính:
* Giới thiệu nhân vật Tràng và A Phủ trong Vợ Nhặt và Vợ Chồng A Phủ
- Tràng, một dân cư ngụ cư nghèo khổ, kiếm sống bằng nghề đẩy xe bò thuê. Anh sống cùng với mẹ già trong hoàn cảnh cực khổ. Ngôi nhà của họ, nếu có thể gọi là nhà, luôn trống trơn, bề ngoài chỉ là một mảnh vườn mọc um tùm cỏ dại. Hơn nữa, Tràng còn mang vẻ ngoài xấu xí, thô kệch. Ngay cả cái tên cũng giống với tên của một dụng cụ trong nghề mộc (Cái Tràng, cái Đục).
- A Phủ, một chàng trai mang số phận bi đát, là nạn nhân của những phong tục lạc hậu: là người Háng Bla. Cha mẹ và anh chị em của A Phủ đã qua đời trong một trận dịch bệnh khiến mùa màng hủy hoại. Khi đó, A Phủ mới mười tuổi. Mặc dù còn trẻ nhưng A Phủ đã sở hữu một tâm hồn mạnh mẽ. Khi bị người làng bắt để bán cho người Thái dưới cánh đồng, A Phủ đã quyết định trốn lên núi cao và rồi lưu lạc đến Hồng Ngài.
* So sánh nhân vật Tràng và A Phủ
- Điểm tương đồng:
+ Cả hai đều là những người nông dân nghèo nhưng hiền lành, tốt bụng, sống đầy nghĩa tình…
+ Cả hai đều là những nạn nhân đáng thương của cấu trúc xã hội cũ, họ bị bóc lột, đẩy vào bước đường tuyệt vọng.
+ Họ đều là những người đầy ước mơ và hoài bão.
- Sự khác biệt:
1. Nhân vật Tràng
+ Tràng tỏ ra mãnh liệt trong khát vọng sống, luôn tin tưởng vào một tương lai tươi sáng. Từ một người phu xe sống qua ngày, không màng đến tương lai, Tràng đã trở thành ai đó quan tâm đến vấn đề xã hội và ao ước cho một cuộc sống khác biệt.
+ Hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng trong tâm trí của Tràng là một dấu hiệu mới mẻ về sự thay đổi to lớn trong xã hội, mang ý nghĩa quan trọng đối với sự biến đổi của mỗi số phận con người.
2. Nhân vật A Phủ.
+ A Phủ là chàng trai tự do của rừng núi, anh ta yêu công việc, làm việc siêng năng: “biết làm lúa, biết xới đất, lại cày ruộng và săn bắt tốt...”. A Phủ rất mạnh mẽ, chạy nhanh như ngựa. A Phủ đã trở thành ước mơ của nhiều cô gái trong làng “Có được A Phủ cũng như có được con trâu tốt trong nhà”. Tuy nhiên, vì nghèo nên A Phủ không có thể kết hôn.
+ A Phủ là nạn nhân của sự chấp hành độc tài và chính sách cho vay nặng lãi của các chủ nô phong kiến miền núi.
+ A Phủ yêu tự do và khao khát cuộc sống tự do.
* So sánh nhân vật Tràng và A Phủ để hiểu ý nghĩa của hình tượng người nông dân trong văn học
- So sánh Tràng và A Phủ để nhận ra rằng tư tưởng nhân đạo của hai nhà văn đều tương đồng…
- Đó là sự đồng cảm với số phận đau khổ của những người dân nhỏ bé, bất hạnh.
C. Kết bài:
- Tóm lại vấn đề
- Bài học về nhận thức và hành động dành cho thế hệ trẻ trong môi trường sống và xã hội mới
Dàn ý số 2
1. Điểm tương đồng giữa hai tác phẩm:
- Xuất phát từ hoàn cảnh lịch sử đặc biệt của dân tộc.
- Cả hai tác phẩm đều mô tả về cuộc sống của người nông dân nghèo trong hoàn cảnh khó khăn.
- Cả hai tác phẩm đều khắc họa hành trình chinh phục cách mạng, tìm đến hạnh phúc cho những con người bị đẩy vào bước đường cùng. Hoàn cảnh khó khăn, cuộc sống đầy gian truân đã viết nên câu chuyện tình yêu của Mị - A Phủ, Thị - Tràng.
- Mang trong mình giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc, mới mẻ.
2. Phân tích nhân vật:
A Phủ và Tràng:
- Điểm tương đồng:
- Cả hai đều là những người nông dân nghèo, chân thành, giản dị, sống bằng lao động của bản thân, dành cho gia đình.
- Chung số phận:
A Phủ từ nơi khác đến Hồng Ngài, làm thuê, mướn công việc.
Tràng bị đuổi bởi nghèo đói, xây nhà cuối xóm, ven sông.
-> Cuộc sống của họ khó khăn; vì hoàn cảnh, nên họ khó có thể cưới vợ, hạnh phúc gia đình khó đạt được.
+ Bị áp đặt bởi tư tưởng cai trị của tầng lớp thống trị:
- Tràng không dám ăn cắp thóc để trốn thoát khi có cơ hội.
- A Phủ không vượt qua lời nguyền, trở thành kẻ ở gạt nợ cho thống lí Pá Tra; kiên nhẫn chịu đựng như con trâu, con ngựa.
+ Đầy ước mơ và khao khát:
- Tràng vượt qua mọi khó khăn: Xã hội khắc nghiệt; Đau khổ của bản thân; Bóng tối của cuộc sống để đến với hạnh phúc, với mái ấm gia đình, với tầm quan trọng của việc sống 'Trong một lúc, Tràng như quên đi những khó khăn hàng ngày, quên cả cảm giác đói khát đang đe dọa trong lòng, chỉ còn mối quan hệ với người phụ nữ đi bên cạnh'. Tràng hồi hộp, hân hoan, hạnh phúc với cuộc sống của mình. Khi đói đuột, đe dọa bởi cái chết, Tràng vẫn không ngừng trân trọng, tôn vinh những giá trị cao cả của cuộc sống.
- A Phủ: Mặc dù khó có thể cưới vợ vì nghèo đói, nhưng cái nghèo không thể kìm nén bước tiến của những người biết vượt qua hoàn cảnh để sống đúng ý nghĩa của cuộc sống. A Phủ và các bạn cùng nhau lang thang theo những cuộc vui khi mùa xuân đến. Họ cùng nhau hát, nhảy múa; họ cùng hân hoan ca hát về tình bạn…Khi bị giam cầm, nhận biết sự khốn khó của mình, A Phủ đã rơi lệ. Giọt nước mắt của sự chịu đựng, tuyệt vọng, đồng thời cũng là giọt nước mắt cho những ước vọng chưa thành, cho cuộc sống đã chia xa…Khi được Mị giải thoát, A Phủ cúi xuống, nhưng sau đó ham muốn sống lại đã đẩy anh, cố gắng, vùng dậy. Đó là sức mạnh của lòng ham sống, của khao khát tự do
+ Cả hai đều hướng về ánh sáng cách mạng:
- CM đã chỉ lối cho A Phủ, đến Phiềng Sa, A Phủ trở thành một anh anh hùng kiên cường -> Anh đã có được tự do, hạnh phúc.
- Tràng chưa trở thành một anh hùng nhưng ở cuối tác phẩm, trong tâm trí anh, anh đã nghĩ về những người đói và lá cờ đỏ sao vàng bay trong gió-> Tác giả đã gieo hạt giống hy vọng mạnh mẽ vào tâm hồn Tràng, rằng vào ngày mai, trong đoàn người đói đi trên đê Sộp, sẽ có Tràng, bà cụ Tứ và Thị -> họ sẽ thoát khỏi nghèo đói và cuộc sống bị chi phối.
- Điểm khác:
- Trong Vợ nhặt, Tràng là nhân vật chính trong khi trong đoạn trích học Vợ chồng A Phủ, A Phủ là nhân vật phụ.
- Tràng là một anh nông dân nghèo trong thời kỳ đói năm 1945 ở miền Nam dưới sự thống trị trực tiếp của thực dân, phát xít. A Phủ là một người lao động miền núi, sống dưới sự cai trị của bọn chúa đất phong kiến, chúng lợi dụng quyền lực và thần quyền để biến những người nông dân nghèo thành nô lệ không công cho chúng, từ thế hệ này sang thế hệ khác.
- Tràng được tác giả tập trung khắc hoạ bởi những biến cố tâm lý phức tạp, trong khi A Phủ lại được nhà văn Tô Hoài miêu tả thông qua những hành động cụ thể, sinh động.
So sánh nhân vật Tràng và A Phủ - Mẫu 1
Hình tượng người lao động từ lâu đã trở thành một đề tài quan trọng trong văn học nghệ thuật, thu hút biết bao bút văn. Không ít tác giả đã thành công về đề tài này, trong đó có Kim Lân và Tô Hoài. Với hai tác phẩm “Vợ nhặt” và “Vợ chồng A Phủ”, cả hai nhà văn đã thành công trong việc khắc hoạ hình ảnh con người lao động với những phẩm chất đáng quý. Đó là anh Tràng hiền lành, nhân hậu trong “Vợ nhặt” và A Phủ, chàng trai của tự do trong “Vợ chồng A Phủ”.
Kim Lân là một tác giả chuyên viết truyện ngắn, thế giới nghệ thuật của ông tập trung vào cảnh quan nông thôn và người nông dân. Tác phẩm “Vợ nhặt” được trích từ tập truyện “Con chó xấu xí”. Truyện được viết ngay sau Cách mạng với tên gọi “Xóm ngụ cư”. Tuy nhiên, do thất lạc bản thảo nên sau khi hòa bình được thiết lập, tác giả đã viết lại thành “Vợ nhặt”.
Nếu Kim Lân tập trung vào đề tài nông thôn thì Tô Hoài lại hiểu biết sâu sắc về văn hóa của nhiều vùng miền trên cả nước, đặc biệt là văn hóa Tây Bắc. Vùng đất và con người ở đây đã làm nền cho việc sáng tác của ông, tạo ra những hình ảnh đẹp. “Vợ chồng A Phủ” là một trong những tác phẩm nổi bật của Tô Hoài, mô tả về con người và thiên nhiên ở đây.
Cả hai tài năng về truyện ngắn Kim Lân và Tô Hoài đều là biểu tượng xuất sắc của văn học hiện thực phê phán. Dưới bút của họ, con người lao động hiện lên với những phẩm chất quý báu. A Phủ và Tràng đều là những con người lao động lương thiện, nhân từ, sống có lòng nhân ái. Họ tỏa sáng qua lòng lao động chăm chỉ, kiên trì. Họ mong muốn có mái ấm gia đình, tìm kiếm tình yêu, khao khát tự do trong thời đại khắc nghiệt. Dù là nạn nhân của xã hội cũ, họ bị bóc lột, đẩy vào bước đường cùng, nhưng vẫn luôn hi vọng vào cuộc sống, nỗ lực vươn lên. Tràng đối mặt với nạn đói, nhưng vẫn khát khao hạnh phúc, anh đã tạo ra hạnh phúc từ cuộc sống cơ cực và hy vọng vào một cuộc sống mới. A Phủ bị bóc lột, bị lạm dụng, nhưng vẫn khao khát tự do. Anh đã chiến đấu để tìm hạnh phúc của mình cùng Mị ở Phiềng Sa. Dù có hoàn cảnh và lịch sử khác nhau, họ đều có kết thúc tốt đẹp sau chuỗi bi kịch của cuộc đời. Ngoài những điểm tương đồng, hai nhân vật này còn có những đặc điểm riêng tạo nên vẻ đẹp đa dạng.
Bắt đầu với nhân vật Tràng. Trong câu chuyện, Tràng là người dân nghèo, tốt bụng, sẵn lòng giúp đỡ người khác trong thời kỳ đói khủng khiếp.
Tràng là một dân ngụ cư nghèo, làm công việc thuê đẩy xe bò. Anh sống với mẹ già trong hoàn cảnh nghèo khó. Căn nhà của họ vắng teo, chỉ là mảnh vườn mọc rậm rạp cỏ dại. Ngoại hình của Tràng không được đẹp đẽ, thô kệch. Người ta thường gọi anh là 'Cái Tràng, Cái Đục'. Tràng có tính cách hồn nhiên, phần nào giống những nhân vật trong truyện cổ tích. Anh thường bị trẻ con trêu chọc, nhưng không ai nghiêm túc khi nói chuyện với anh. Tuy nhiên, Kim Lân không viết về nhân vật ngốc nghếch, mà là về một sự thật đắng lòng về cái đói và tình người. Ban đầu, Tràng không có ý định tìm vợ. Anh biết mình không thể có vợ. Khi mệt mỏi sau một ngày làm việc, anh thường hát chơi 'Muốn ăn cơm trắng bao giờ / Lại đây đẩy xe bò cùng tôi đi'. Anh chỉ đùa và không nghĩ ai sẽ đến giúp mình. Nhưng một ngày, có một người phụ nữ đói đến và thực sự đẩy xe bò cùng anh. Tuy nhiên, Tràng không giữ lời hứa, nhưng anh cảm thấy hạnh phúc khi thấy 'vẻ mặt của thị chưa bao giờ cười với anh một cách thân thiện như vậy'.
Tuy nhiên, Kim Lân không viết về nhân vật ngốc nghếch mà ông miêu tả một sự thật đắng lòng về đói và lòng nhân ái. Tràng ban đầu không nghĩ đến việc tìm vợ. Anh biết mình không có cơ hội. Khi mệt mỏi sau một ngày làm việc, anh thường đùa 'Muốn ăn cơm trắng không / Lại đây đẩy xe bò với anh đi'. Nhưng không ai nghĩ ai sẽ thực sự làm điều đó. Nhưng một ngày, một người phụ nữ đói đến và thực sự giúp đỡ. Mặc dù không giữ lời hứa, nhưng Tràng cảm thấy hạnh phúc khi thấy 'vẻ mặt của thị cười với anh một cách thân thiện như vậy'.
Ngày hôm sau, khi Tràng ngồi nghỉ trước cổng chợ tỉnh, một người phụ nữ bất ngờ lao đến, cơ thể mảnh mai, sưng sỉa, kêu la với anh “Điêu, người này mà điêu”. Tràng không nhận ra người phụ nữ ấy đã giúp anh đẩy xe trước đó. Trước mắt anh, người phụ nữ ấy thảm hại với nhan sắc và tính cách bị đói đến độ gầy guộc, quần áo rách rưới. Thấy người phụ nữ đói, Tràng cảm thấy thương xót và cho ăn cho cô nhiều “bốn bát bánh đúc”. Điều đó cho thấy tấm lòng nhân ái của Tràng, không có ý định lợi dụng hay chọc ghẹo.
Tràng thường hay đùa, và khi nói đùa rằng “Nếu về với tớ, thì đứa nhỏ đó phải tự mình lên xe rồi mới về được”. Nhưng nói đùa thôi, không ngờ rằng thực sự thị đã về. Ban đầu, Tràng lo sợ về tương lai và cái chết “an ủi bản thân rằng thóc gạo này liệu có đủ nuôi sống mình không, lại còn phải đèo bòng”. Đó là nỗi sợ hãi thực sự, đặc biệt trong thời kỳ đói kém như thế. Nhưng tình thương và hy vọng hạnh phúc đã lớn hơn nỗi sợ hãi, khiến Tràng quyết định “Chậc kệ!” chỉ một từ “kệ” thôi, Tràng đã từ bỏ mọi lo sợ, để tập trung vào hạnh phúc của mình.
Dù trong hoàn cảnh khó khăn, Tràng vẫn khát khao hạnh phúc và ý thức xây dựng gia đình:
Khi người phụ nữ đồng ý làm vợ, Tràng đã chăm sóc cô ấy: “Anh đưa thị vào chợ tỉnh, mua thúng con vài thứ lặt vặt và đưa đi ăn cơm no nê…”. Tràng còn mua hai hào dầu để thắp sáng.
Trên đường về: (khác biệt so với Tràng hôm qua, lo âu và buồn bã). Hôm nay, Tràng rất vui vẻ, hạnh phúc tràn ngập khiến mặt anh “phớn phở khác thường”. Thỉnh thoảng anh cười một mình. Lúc này, anh lại tiếp cận người phụ nữ, sau đó rút lại, vuốt nhẹ vai cô, muốn nói đùa nhưng lại ngượng ngùng. Kim Lân đã miêu tả sự thay đổi trong tâm trạng của Tràng. Tràng thực sự đã thay đổi, và trong lòng anh tràn ngập hạnh phúc khi “Trong một lúc Tràng hình như quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hằng ngày, quên cả cái đói khát ghê gớm đang đe dọa, quên cả những tháng ngày trước mặt. Trong lòng hắn bây giờ chỉ còn tình nghĩa giữa hắn với người đàn bà đi bên. Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy ở người đàn ông nghèo khổ ấy, nó ôm ấp, mơn man khắp da thịt Tràng, tựa hồ như có bàn tay vuốt nhẹ dọc sống lưng”. Thế là rõ ràng: Hạnh phúc đã thay đổi anh.
Sau khi về nhà, Tràng ban đầu cảm thấy “bối rối”, đứng giữa nhà với cảm giác “sợ hãi”. Nhưng sự hạnh phúc vô bờ bến khiến anh nhanh chóng lấy lại tự tin. Sau đó, Tràng cười với mình với sự ngạc nhiên không tưởng: “anh còn ngờ ngợ như thể không phải thật. Cuối cùng, anh đã có vợ!”. Đây là sự ngạc nhiên trong niềm vui.
Khi đợi mẹ về, Tràng rất lo lắng, không ngồi yên một chỗ. Đó là lần đầu tiên anh lo lắng như vậy. Khi mẹ về, anh vui mừng như một đứa trẻ, vì mẹ luôn là quyền lực cao nhất trong cuộc đời Tràng. Tràng muốn nói chuyện với mẹ, bắt mẹ ngồi xuống để trò chuyện. Điều này cho thấy Tràng đã hiểu rằng việc lấy vợ là trách nhiệm trọng đại của cả đời anh. Vì vậy, đối với anh, đây là một thời khắc thiêng liêng và quan trọng. Khi được đồng ý, Tràng cảm thấy nhẹ nhõm. Vậy là anh đã có gia đình, có vợ mà không cần phải tốn tiền cưới. Tràng tự hào về điều này.
Tràng luôn khao khát một cuộc sống đầy đủ, và tin vào một tương lai tươi sáng. Từ một người đàn ông cơ bản, chỉ quan tâm đến cuộc sống hàng ngày, Tràng đã trở thành người quan tâm đến xã hội rộng lớn và mong muốn thay đổi.
Sau khi kết hôn, Tràng trở thành một người đàn ông trưởng thành, suy nghĩ chín chắn. Tác giả mô tả sự thay đổi của Tràng sau đêm tân hôn. Tràng thức dậy, cảm thấy dễ chịu “như người vừa từ giấc mơ tỉnh dậy”. Đó là tâm trạng hạnh phúc. Tràng cảm động khi thấy mẹ và vợ dọn dẹp nhà cửa, đặc biệt là khi nghe tiếng chổi quét sàn. Tràng cảm thấy yêu thương với ngôi nhà của mình: “Bỗng dưng anh thấy thương yêu với căn nhà của mình lạ lùng. Anh đã có một gia đình. Anh sẽ cùng vợ xây dựng cuộc sống ở đó. Ngôi nhà là nơi anh cảm thấy an toàn, ấm áp.” Đây là hạnh phúc đang tỉnh thức Tràng. Cuộc sống đang gọi anh.
Khi nghe tiếng trống thuế vang lên, Tràng suy tư, đây là điều hiếm gặp đối với anh. Trong tâm trí anh, hình ảnh những người nghèo đói kéo nhau đi trên đê Sộp để chiến đấu đã hiện lên, và trước hết là lá cờ đỏ. Tràng nhớ lại cảnh ấy với lòng ân hận và tiếc nuối, trong đầu anh vẫn là hình ảnh những người đói và lá cờ... Chi tiết này thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm. Tác giả dự đoán rằng Tràng sẽ tham gia vào cuộc chiến của những người đói, và anh sẽ tham gia vào việc phá kho thóc của Nhật. Cuộc sống sắp mở ra trang mới cho anh.
Xây dựng nhân vật Tràng, tác giả đã đặt anh ta trong các tình huống độc đáo trong truyện; tâm trạng của anh được mô tả một cách chân thực và tinh tế; ngôn ngữ sử dụng mộc mạc, giản dị, phù hợp với tính cách của nhân vật. Tràng đóng vai trò là một biểu tượng cho tư tưởng của tác giả trong tác phẩm.
Nếu như nhân vật Tràng của Kim Lân đại diện cho những phẩm chất tâm hồn cao quý và nhân cách rực rỡ, thì A Phủ của Tô Hoài cũng là một hình ảnh sáng lấp lánh của tâm hồn.
A Phủ là một chàng trai mang mệnh phận khó khăn, là nạn nhân của những truyền thống lạc hậu: người Háng B la. Cha mẹ và anh chị em của A Phủ đã mất trong một trận dịch đậu mùa. Lúc đó A Phủ chỉ mới mười tuổi. Mặc dù còn trẻ nhưng A Phủ đã tỏ ra mạnh mẽ và kiên cường. Khi bị người làng đói bắt để bán cho người Thái dưới cánh đồng, A Phủ đã không cam chịu mà thay vào đó, anh ta trốn lên núi cao và sau đó lưu lạc đến Hồng Ngài.
Dịp Tết đến và xuân về, mọi người đều có trang phục mới nhưng A Phủ chỉ có một chiếc vòng vía trên cổ. A Phủ không lấy vợ vì anh không muốn tuân theo truyền thống của làng bản. Với A Phủ, 'không có bố mẹ, không có ruộng, không có tiền' là lý do chính.
Mặc cho những biến cố trong cuộc đời, A Phủ vẫn là một người có phẩm chất tốt đẹp.
A Phủ là một chàng trai tự do sống giữa núi rừng, anh ấy yêu lao động, giỏi giang: “biết cày ruộng, biết làm đồng, lại cày cấy và săn bắt động vật rất can đảm…”. A Phủ có sức khỏe tốt, chạy nhanh như ngựa. Anh đã trở thành ước mơ của nhiều cô gái trong làng “Có được A Phủ giống như có được một con trâu to trong nhà”. Mặc dù nghèo, nhưng A Phủ vẫn sống một cuộc sống tinh thần phóng khoáng, hồn nhiên, yêu đời, yêu công bằng, tự tin của tuổi trẻ. “Trong lúc còn trẻ, vào dịp Tết, dù không có quần áo mới như nhiều chàng trai khác, A Phủ chỉ mang trên mình chiếc vòng duy nhất. Anh cũng cùng bạn bè đem theo sáo, khèn và quả bóng đi tìm người yêu ở các làng trong rừng”.
A Phủ là nạn nhân của bạo quyền và chính sách cho vay lãi nặng của bọn chủ nô phong kiến trong miền núi.
Thậm chí, A Phủ là đứa con của núi rừng tự do nhưng vẫn không thoát khỏi số phận làm nô lệ. Sự việc xảy ra trong một đêm hội mùa xuân. Thấy thái độ kiêu căng của A Sử , A Phủ đã “ném một chiếc đĩa gỗ lăng vào mặt A Sử” và sau đó “xô vào, nắm lấy vòng cổ, kéo xuống đánh, xé áo, đánh dồn dập”. Hành động mạnh mẽ này của A Phủ bắt nguồn từ sự căm hận giai cấp, anh ta rất căm ghét sự bạo ngược của những kẻ giàu có.
Vì tội đánh một viên quan, A Phủ bị đưa ra trước thẩm phán. Tại đó, A Phủ bị lính của Pá Tra đánh đập dã man, tàn bạo. A Phủ đã chứng minh rằng anh ta là người không khuất phục, kiên cường. A Phủ bị đám trai làng đánh đập “môi và mắt chảy máu… hai đầu gối sưng lên như mặt hổ phình phịch”. A Phủ không khóc lóc van xin, thay vào đó, “A Phủ quỳ, chịu đựng, im như tượng đá”.
Cuối cùng, trong phiên xử, A Phủ bị Pá Tra bắt phải trả một trăm bạc trắng. Vì không có tiền để trả, A Phủ buộc phải vay mượn một trăm bạc trắng. Chính sách cho vay lãi nặng đó đã biến chàng trai trẻ yêu tự do thành nô lệ với án tử hình suốt đời, đúng như lời Pá Tra đã nói “đời này, đời con, đời cháu tôi cũng sẽ bắt, đến khi nào trả hết nợ thì thôi”. Đó là cuộc sống bị coi thường, bị ngược đãi và phải chịu đựng những công việc nặng nhọc, nguy hiểm nhất như “săn bò tót, bẫy hổ, chăn ngựa suốt năm một mình lang thang trong rừng”. Cuộc sống của A Phủ, sống hay chết, đều phụ thuộc vào bàn tay tàn ác của Pá Tra.
A Phủ mơ về tự do và khao khát sự sống:
Vì mất một con bò, A Phủ đã phải đối mặt với thảm kịch mới. Thống lý la mắng A Phủ: “Quân ăn cướp làm mất bò của tao…” . A Phủ bị trói đứng vào cột bằng dây mây từ chân đến vai. Nếu không bắt được hổ, A Phủ sẽ “chết ở đó”. Tuy nhiên, với khát vọng sống mạnh mẽ, tính gan góc và bất khuất, A Phủ không từ bỏ mà tìm mọi cách tự giải thoát: “Vào đêm, A Phủ cúi xuống, cắt đứt hai vòng dây, nhích dần dây trói ra khỏi một bên tay”. Nhưng cha con thống lý trở lại và buộc thêm một dây mới vào cổ A Phủ.
Sau những ngày bị “trói đứng ở góc nhà”, “chỉ đứng nhắm mắt” và sự tuyệt vọng và đau khổ đã khắc sâu trên hai má xám của A Phủ. A Phủ nằm bên bờ vực của cái chết: “Chỉ còn một đêm nữa là người kia chết đau, chết đói, chết lạnh, phải chết”. Khó có nỗi đau nào lớn hơn khi con người nhận ra rằng họ sắp chết, chứng kiến cái chết lan tràn trong cơ thể mà không thể làm gì để ngăn chặn. A Phủ đã rơi nước mắt: “Dòng lệ long lanh bò xuống hai má đã xám đen”. Nhưng giọt nước mắt ấy đã làm động lòng của Mị, người đã từ vô cảm trở thành đồng cảm với nỗi đau của A Phủ để cuối cùng, sau một cuộc đấu tranh nội tâm dữ dội, Mị đã cắt đứt dây trói cứu sống A Phủ. Và với sự giúp đỡ của Mị, A Phủ đã được tự do. Hai người trốn khỏi Hồng Ngài, tới khu du kích ở Phiềng Sa, gặp cán bộ A Châu. A Phủ và Mị sau đó trở thành chiến sĩ du kích cùng bộ đội giải phóng quê hương.
Nghệ thuật xây dựng nhân vật: Nhân vật A Phủ chủ yếu được thể hiện qua hành động và tính cách. Truyện kể hấp dẫn. Sử dụng ngôn từ mộc mạc, giản dị phản ánh đúng bản chất của vùng núi Tây Bắc. Tạo ra các cảnh tượng sống động… Đó là thành công của Tô Hoài trong việc xây dựng nhân vật A Phủ.
Có thể nói qua hai nhân vật Tràng và A Phủ, cả hai tác giả Kim Lân và Tô Hoài đã phát hiện và tôn trọng những giá trị và phẩm chất cao quý của người lao động. Thông qua số phận của nhân vật, hai tác giả đã thể hiện sự đồng cảm chân thành, sâu sắc và mở ra con đường cho nhân vật. Với những giá trị này, nửa thế kỷ trôi qua, các tác phẩm 'Vợ chồng A Phủ' và 'Vợ nhặt' vẫn là những tác phẩm sống động và có giá trị lâu dài nhất. Đó cũng chính là giá trị nhân đạo sâu sắc của hai tác phẩm. Với những lý do trên, Kim Lân và Tô Hoài đều xứng đáng được gọi là những nhà văn của những con người lao động chân chính.
So sánh nhân vật Tràng và A Phủ - Mẫu 2
Trong mỗi tác phẩm văn học, những nhân vật điển hình thường là điểm nhấn quan trọng, từ cách miêu tả họ mà tư tưởng chủ đề, nội dung của tác phẩm được thể hiện rõ nét. Trong 'Vợ nhặt' của Kim Lân, Tràng là một nhân vật ấn tượng, trong 'Vợ chồng A Phủ' của Tô Hoài, A Phủ lại là điểm nhấn tương tự. Mỗi nhân vật có đặc điểm riêng, nhưng cả hai đều làm cho tác phẩm thêm phong phú, đặc sắc.
Tràng không được Kim Lân ưu ái nhiều, vẻ ngoài của anh có thể được xem là không quá ưa nhìn: mặt mày xấu xí, tính cách hơi dở dang, thường cười khẩy với trời, và anh sống trong một xóm ngụ cư. Anh không có tình trạng kinh tế tốt, nhưng lại làm việc chăm chỉ, chất phác. Đặc biệt, anh là người tốt bụng, yêu thương đồng loại và có tầm nhìn tích cực về cuộc sống. A Phủ, mặc dù mồ côi cha mẹ, nhưng lại trở thành một chàng trai gan góc, mạnh mẽ và là niềm mơ ước của nhiều cô gái. Anh đấu tranh với hoàn cảnh khó khăn, nhưng vẫn luôn khao khát sống, yêu cuộc sống. Anh hiểu và thương cảm với số phận của mình, và khi được cứu, anh lại mạnh mẽ đứng lên và bắt đầu cuộc sống mới.
Trong khi Tràng là nạn nhân của sự bóc lột của chế độ phát xít và thực dân, A Phủ lại là nạn nhân của chế độ phong kiến và những hủ tục mê tín. Tràng chịu đựng cảnh đói khát, trong khi A Phủ bị bóc lột và đối mặt với sự hiểm nguy từ quan lại. Mặc dù khác biệt về hoàn cảnh, cả hai nhân vật đều thể hiện sức sống và khao khát tự do, hạnh phúc trong cuộc sống.
Cả Tràng và A Phủ đều có khát vọng sống mãnh liệt và luôn tìm kiếm hạnh phúc trong cuộc sống của họ. Tuy nhiên, hoàn cảnh của họ khác nhau: Tràng là nạn nhân của sự bóc lột của chế độ phát xít và thực dân, trong khi A Phủ chịu đựng áp bức từ chế độ phong kiến và những hủ tục mê tín. Dù khác biệt, cả hai nhân vật đều thể hiện sức sống và khao khát tự do trong cuộc sống của mình.
Tuy nhiên, dù ở bất kỳ hoàn cảnh nào, cả Tràng và A Phủ đều để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả bởi những phẩm chất cao đẹp của họ. Sự tin tưởng, lòng lạc quan vào cuộc sống đã đưa họ đến với hạnh phúc sau này.
So sánh nhân vật Tràng và A Phủ - Mẫu 3
Hình ảnh người nông dân gặp khó khăn với nhiều bất hạnh từ ngàn xưa đã trở thành đề tài của những câu ca dao, những tác phẩm văn học cổ.
“Nước non lẩn đận một mình
Thân cô lên thác xuống ghềnh bấy nay”.
Tuy nhiên, chỉ đến trước Cách mạng tháng 8-1945, số phận không may và những phẩm chất cao đẹp của họ mới được khai phá một cách tỉ mỉ, chi tiết trong văn chương hiện đại.
Hai tác phẩm Vợ Nhặt (Kim Lân) và Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài) được xem như là hai tác phẩm đặc biệt mở ra hai thế giới khác biệt, chứa đựng sự phê phán về xã hội hiện thực một thời để mở ra một hướng đi mới, một tầm nhìn mới cho nhân vật. Đó là sự bừng sáng của Cuộc cách mạng.
Thông qua so sánh nhân vật Tràng và A Phủ, ta sẽ hiểu rõ hơn về những đắng cay mà họ phải trải qua từ xã hội hiện tại để nhìn thấy những phẩm chất tốt đẹp của họ. Và từ đó, ta có thể thấy rõ giá trị nhân đạo mà hai tác giả muốn truyền đạt qua nhân vật của mình.
Tràng và A Phủ là hai nhân vật chính trong hai tác phẩm của Tô Hoài và Kim Lân. Hai nhân vật này đại diện cho tầng lớp lao động trong xã hội cũ, mặc dù có những phẩm chất tốt đẹp, nhưng họ đều bị xã hội chìm đắm, cuộc sống gian khổ, bất công. Chỉ khi so sánh Tràng và A Phủ, ta mới có thể khai phá hết những thông điệp mà tác giả gửi gắm qua hai nhân vật.
Dưới ngòi bút của các nhà văn hiện thực, con người lao động như Tràng và A Phủ hiện lên với những phẩm chất đáng quý. Cả hai đều là những nông dân nghèo nhưng tốt bụng, nhân hậu, sống nghĩa tình, trung thực, chất phác, giản dị, nuôi sống bản thân và gia đình bằng công lao lao động của mình.
Đó là những người cùng số phận. Họ đều là nạn nhân thương tâm của xã hội cũ, bị bóc lột, bị đẩy vào bước đường cùng. A Phủ từ nơi khác lưu lạc đến Hồng Ngài, làm thuê, làm công. Trong khi đó, Tràng - một chàng trai lao động hiền lành lại bị đày đọa bởi nghèo đói, phải xây dựng một ngôi nhà tạm bợ ở cuối xóm, bên bờ sông sống cùng với mẹ già. Cuộc sống của họ luôn chật vật; do hoàn cảnh, do nghèo khó nên họ khó có thể tìm được hạnh phúc gia đình.
Khi so sánh nhân vật Tràng và A Phủ, ta cũng thấy họ là những người giàu ước mơ và khát vọng. Tràng vượt qua mọi khó khăn, bóng tối của cuộc sống để đạt được hạnh phúc, mái ấm gia đình, với trách nhiệm cao cả làm người và anh cảm thấy mình trở nên người tốt hơn khi Thi bước vào cuộc đời của mình. Anh hồi hộp, phấn khích, hạnh phúc với hạnh phúc của cuộc đời mình. Khi nghèo đói ám ảnh, cái chết đe dọa, Tràng vẫn không ngừng giữ vững, tôn vinh những giá trị cao quý của cuộc sống.
Đối với A Phủ, mặc dù mồ côi cả cha lẫn mẹ, chỉ là một người lao động làm thuê cuốc mướn, mặc dù nghèo đói nhưng A Phủ vẫn không ngừng khao khát hạnh phúc. Anh đã vượt qua những khó khăn để đến với vùng đất hứa Phiềng Sa cùng với Mị xây dựng hạnh phúc của mình. Tràng và A Phủ có điều kiện sống và lịch sử khác nhau nhưng đều có kết thúc tốt đẹp dù trước đó cuộc đời họ là một chuỗi bi kịch, cuộc sống tăm tối.
Ngoài những điểm tương đồng đó, hai nhân vật này còn có nhiều điểm khác biệt tạo nên những vẻ đẹp riêng biệt mà chỉ khi so sánh nhân vật Tràng và A Phủ ta mới nhìn thấy được. Trong Vợ nhặt, Tràng là nhân vật chính trong khi trong Vợ chồng A Phủ, A Phủ là nhân vật phụ. Nhân vật Tràng của Kim Lân được tập trung miêu tả qua những diễn biến tâm lý phức tạp trong khi A Phủ lại được Tô Hoài mô tả bằng những hành động cụ thể, sinh động. Thông qua đó, tính cách và phẩm chất nhân vật cũng được thể hiện rõ ràng, cụ thể.
Tràng là một anh nông dân nghèo trong nạn đói năm 1945 ở miền Nam. Anh phải chịu nhiều thất thiệt, bất công dưới chế độ trực tiếp của thực dân, phát xít. A Phủ là một người lao động ở miền núi, sống dưới chế độ của bọn chúa đất phong kiến, chúng tận dụng quyền lực và thần phận để biến những người lao động nghèo như A Phủ thành nô lệ cho chúng.
Một điểm khác biệt của hai nhân vật này là nhận thức. Hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng hiện ra trong đầu Tràng là một dấu hiệu thật mới về một sự thay đổi xã hội rất lớn, có ý nghĩa quyết định đối với sự thay đổi của mỗi số phận con người. Điều này là điều mà các tác phẩm văn học hiện thực giai đoạn 1930 – 1945 không thể nhìn thấy được.
Khi so sánh nhân vật Tràng và A Phủ, ta thấy rằng cả hai nhân vật đều có những điểm tương đồng và khác biệt. Vậy nguyên nhân nào dẫn đến sự khác biệt đó? Đầu tiên phải kể đến là do hoàn cảnh lịch sử ra đời của hai tác phẩm. Nền văn học mới sau Cách mạng tháng tám đã đặt vấn đề và giải quyết vấn đề số phận con người theo một cách khác, lạc quan hơn, nhiều hy vọng hơn.
Lý do thứ hai dẫn đến sự khác biệt đó là do phong cách sáng tác của mỗi nhà văn. Nếu Kim Lân tập trung vào đề tài nông thôn thì Tô Hoài lại rất hiểu biết văn hóa nhiều vùng miền khác nhau trên đất nước ta. Trong đó đặc biệt là văn hóa Tây Bắc. Chính sự gắn bó và kiến thức sâu rộng của mình, mỗi nhà văn lại chọn những hướng đi khác nhau cho tác phẩm của mình, khai thác những vấn đề khác nhau để làm nổi bật hình ảnh người nông dân giai đoạn này.
Khi xây dựng hình ảnh nhân vật lao động như Tràng và A Phủ, nhà văn đã gửi gắm rất nhiều thông điệp nhân văn ý nghĩa và giá trị nhân đạo của mình thông qua nhân vật ấy. So sánh nhân vật Tràng và A Phủ để thấy rằng tư tưởng nhân đạo của mỗi nhà văn đều giống nhau…
Đó chính là sự đồng cảm với số phận đau khổ của những con người nhỏ bé, bất hạnh, tố cáo các thế lực gây ra đau khổ cho con người, phát hiện, khám phá và ca ngợi vẻ đẹp tiềm ẩn trong những con người bất hạnh đồng thời đấu tranh cho khát vọng chân chính, tốt đẹp của con người.
Ở mỗi tác phẩm khác nhau, những khía cạnh có sự biến đổi phong phú, linh hoạt, phù hợp với thời đại và diễn biến tâm lý nhân vật. Song đều thể hiện được tài năng và tầm vóc tư tưởng của người nghệ sĩ. Bởi vì “Nhà văn chân chính là nhà nhân đạo từ trong cốt tủy” (Biêlinxki) cũng như tư tưởng “nghệ thuật vị nhân sinh”.