Bài thơ Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan sẽ được khám phá trong chương trình Ngữ văn lớp 7.

Dưới đây là Bài mẫu văn lớp 7: Phân tích tâm trạng của tác giả trong bài thơ Qua Đèo Ngang. Mời các bạn học sinh tham khảo ngay.
Phân tích tâm trạng của tác giả trong bài thơ Qua Đèo Ngang - Mẫu 1
Bài thơ “Qua Đèo Ngang” của Bà Huyện Thanh Quan đã thể hiện sự nhớ nhà và tình yêu quê hương rất rõ nét.
Đèo Ngang là điểm dừng đầu tiên trên hành trình vào Nam để thực hiện nhiệm vụ. Rời xa quê hương, gia đình, nghĩa trang, nữ nhà văn cảm thấy rất bồng bột. Dấu hiệu đầu tiên của nghệ thuật mà người đọc nhận thấy là “bóng xế tà”. Trời đã sắp tối, hoàng hôn buông xuống, thế giới đang dần chìm vào bóng tối bao la. Chỉ còn những tia sáng nhỏ nhoi cuối chiều. “Tà” mang ý nghĩa của sự tan biến, sự mất mát. Buổi chiều chẳng qua lại chỉ là “chiều tà” khiến người ta nhớ nhà hơn. Cùng với thời gian ấy, tâm trạng của nhà thơ bộc lộ sự buồn bã, nhớ nhà.
Tâm trạng của nhà thơ buồn bã, xa xôi, dưới chân đèo hiện lên những hình ảnh:
“Dưới chân núi lom khom, vài nhà cửa
Bên bờ sông lác đác, chợ mấy nhà”
Tại đèo Ngang, không nhiều người. Một vài nông dân vất vả chặt củi, vài căn nhà thị trấn rung rinh. Cách sử dụng ngôn từ rất tinh tế, hình ảnh này kích thích sự liên tưởng đến cuộc sống giản dị, khô khan. Nó hoàn toàn khác biệt so với cuộc sống sôi động, hối hả ở thành thị. Nhà thơ muốn tìm sự sống, nhưng đèo Ngang lại khiến trái tim bà đầy thất vọng. Hai dòng thơ đối diện tạo nên hình ảnh bi thảm của cuộc sống tại đèo Ngang.
Trong tĩnh lặng đó, xa xa, ta nghe tiếng chim kêu lúc lắc, mang theo nỗi nhớ thương của cả quê, cả nhà. Theo truyền thuyết, sau khi vua Thục, Lưu Bị, thất bại trước Lục Tốn của Đông Ngô, ông trốn về thành Bạch Đế và qua đời tại đó. Sau khi mất, vua Thục biến thành con chim quốc biểu hiện sự đau khổ mất mát của quốc gia. Khung cảnh u sầu, tiếng chim kêu buổi chiều buồn bã làm ta nhớ đến những dòng thơ:
“Qua núi rừng xa xa
Vắng vẻ lắm người qua
Đèo cao dốc dựng lên
Một vài căn nhà chênh vênh”
Tiếng chim quốc thế, nhà nhà, là cảm nhận chân thành của bà hoặc là một phương tiện ẩn dụ để diễn đạt cảm xúc sâu sắc từ tâm hồn nữ văn sĩ. Tại đây, lòng của nhà thơ đồng điệu với vua Thục, muốn nắm giữ những ký ức xưa, nhớ về một thời vàng son đã qua. Tiếng chim kích thích sự nhớ quê hương đến đau lòng. Nhớ về gia đình, nhớ về quê hương - có lẽ đó là sự nhớ về thời Lê mà bà đã từng trải. Thái độ của nhà văn là phủ nhận hiện thực, quay về quá khứ. Nhà thơ Nguyễn Du đã nói “Ai buồn không vui?” trong bối cảnh này, điều đó là hợp lý.
Một mình đối mặt với cảnh vật, cuộc sống và sau đó là chính mình. Trong tâm hồn của nhà văn chứa đựng nhiều cảm xúc không biết chia sẻ với ai. “Một tình riêng” trong một cảm xúc lớn hơn, liệu chúng ta có thể nói chuyện với chính mình. Nỗi buồn trở nên gấp bội. Đây là tâm sự của tác giả và cũng là tâm sự của những người đau khổ trước sự thay đổi của thế giới, của những thế hệ sống trong quá khứ, xót xa với hiện tại.
Bà Huyện Thanh Quan đã thành công nhất trong việc sử dụng cảnh để diễn tả tình cảm trong thơ. Hình ảnh trong thơ gần gũi, giàu biểu cảm. Điều đáng chú ý ở đây là bà đã chọn những tín hiệu nghệ thuật đắt giá để thể hiện tâm trạng của mình. Bài thơ chứa đựng đầy đủ tâm hồn, tình cảm và nỗi lòng của nhà thơ. Những dòng thơ sâu lắng khiến người đọc cảm thấy xúc động và suy tư.
Phân tích tâm trạng của tác giả trong Qua Đèo Ngang - Mẫu 2
Bà Huyện Thanh Quan là một trong những nhà thơ nữ nổi tiếng nhất thế kỉ XVIII. Bài thơ Qua Đèo Ngang của bà cũng rất nổi tiếng.
Bà thường viết về thiên nhiên, đặc biệt là vào buổi chiều, tạo cảm giác của sự lặng lẽ buồn bã. Cảnh vật trong thơ bà như một bức tranh tĩnh mịch, tươi đẹp, diễn tả bằng nghệ thuật mơ hồ. Việc tả cảnh là để gửi gắm tình cảm nhớ nhung và yêu quý với quá khứ hoàng kim của một thời đã qua.
'Bước tới đèo Ngang, bóng xế tà
Cỏ cây kề đá, lá rủ hoa'
Khi nhà thơ đến đèo Ngang, là lúc chiều buông. Hình ảnh bóng xế tà không chỉ phản ánh không gian khi mặt trời bắt đầu lặn, đêm dần buông, mà còn thể hiện nhịp sống nhẹ nhàng của những đám mây trên bầu trời. Không gian hiện ra với vẻ hoang vắng, tạo nên cảm giác cô đơn, lạc lõng của nhân vật trữ tình. Câu thơ tiếp theo 'Cỏ cây chen đá lá chen hoa' - tác giả đã miêu tả sự phong phú của cảnh đẹp tự nhiên khu vực đó.
“Lom khom dưới núi, tiều vài chú
Lác đác bên sông, chợ mấy nhà”
Từ 'lom khom” mô tả hình ảnh của người nông dân trở về nhà vào buổi chiều, trong khi 'lác đác' gợi lên cảm giác trống vắng của không gian sinh sống. Trong hai câu thơ này, hình ảnh con người trở nên nhỏ bé dưới núi, và không gian sống trở nên trống rỗng. Việc miêu tả con người và cuộc sống không làm mất đi vẻ u buồn, cô đơn trong bức tranh thơ.
Tầm nhìn mở ra nhưng lại đẩy sâu vào nỗi cô đơn, trống trải của con người xa quê hương:
'Nhớ quê thương nhà già quê quê
Thương nhà mỏi miệng gia gia'
Vào lúc chiều tà, khi không gian trở nên vắng vẻ và u buồn, người ta thường nhớ về quê hương, đặc biệt là những ai đang ở xa nhà. Đó là thời điểm mà gia đình sum họp dưới mái ấm gia đình. Trong không gian chiều tà ở đèo Ngang hoang sơ và vắng vẻ, nữ thơ Bà Huyện Thanh Quan gửi gắm nỗi nhớ của mình đến gia đình và quê hương. Đây là tình cảm tha thiết và chân thành của một người con xa xứ, nhớ nhà và quê hương. Một nỗi buồn nặng trĩu, khó lòng dập tắt.
Cảnh đèo Ngang với 'trời, non, nước' tạo ra một không gian rộng lớn và xa lạ:
'Dừng chân lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta'
Trước sự rộng lớn của đất trời, con người thường cảm nhận được sự cô đơn và nhỏ bé của bản thân. Bà Huyện Thanh Quan, khi xa quê thực hiện nhiệm vụ, cũng không tránh khỏi cảm giác cô đơn. 'Dừng chân lại' đồng nghĩa với việc thức dậy trong tâm hồn của người thi sĩ một cảm giác nhớ nhà, nhớ quê hương. Trong không gian rộng lớn và cô đơn đó, Bà Huyện Thanh Quan chỉ có thể tự tâm sự với chính bản thân qua 'Một mảnh tình riêng ta với ta'.
Bài thơ “Qua Đèo Ngang” của Bà Huyện Thanh Quan nổi bật với cảm xúc u buồn và nỗi nhớ quê của nhân vật trữ tình. Nỗi nhớ này không chỉ thể hiện tình yêu chân thành với quê hương mà còn tương thân tương ái trong cảnh lẻ loi và cô đơn giữa đất trời.
Phân tích tâm trạng của tác giả trong bài thơ Qua Đèo Ngang - Mẫu 3
Bài thơ “Qua Đèo Ngang” của Bà Huyện Thanh Quan đã miêu tả tâm trạng của nhà thơ khi đứng trước thiên nhiên ở đèo Ngang:
“Bước tới Đèo Ngang, bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.
Lom khom dưới núi, tiều vài chú,
Lác đác bên sông, chợ mấy nhà.
Nhớ nước, đau lòng, con quốc quốc,
Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia.
Dừng chân đứng lại, trời, non, nước,
Một mảnh tình riêng, ta với ta.”
Phải hiểu rõ và trân trọng bài thơ mới thấy được tài năng và tinh thần luôn hướng về quê hương đất nước và gia đình của bà Huyện Thanh Quan. Ai dám nói rằng phụ nữ trong xã hội phong kiến không có những tình cảm đó?
Chỉ cần đọc hai câu đầu của bài thơ là ta đã ngay lập tức cảm nhận được nỗi buồn xa cách.
Câu thơ bắt đầu với cụm từ bóng xế tà và sự hiện diện của từ chen, cùng với cách gieo vần lưng “lá, đá”, tạo nên không khí cô đơn, tĩnh mịch. Từ “tà” như diễn tả một khái niệm sắp tan biến, biến mất. Thời gian làm cho câu thơ trở nên buồn bã hơn. Như ca dao có câu:
“Vẳng nghe chim vịt kêu chiều
Bâng khuâng nhớ mẹ, chín chiều ruột đau”
Nhận ra rằng, những tình cảm cao quý của mỗi người dường như gặp nhau ở một điểm. Đó chính là thời gian. Quãng thời gian thích hợp nhất để thể hiện sự nhớ nhung khắc khoải chính là lúc chiều về. Trong bài thơ Qua đèo Ngang, tác giả bỗng dưng nổi lên cảm xúc man mác khi bà bắt gặp ánh hoàng hôn bao phủ cảnh vật ở Hoành Sơn. Cảnh vật trở nên buồn và trống vắng hơn vì từ chen trong câu thứ hai. Điều này khiến người đọc cảm nhận được sự hoang vắng của đèo Ngang khi chiều tà buông, bóng xế mặc dù nơi đây rất đẹp: có cỏ cây, đá, lá, hoa. Vì vắng vẻ, thi sĩ mở rộng tầm nhìn để tìm kiếm một chút sự sống linh động. Và kia, phía xa xa dưới chân đèo xuất hiện hình ảnh:
“Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông, chợ mấy nhà”
Câu thơ gợi cho ta hình dung trong ánh hoàng hôn lạnh lẽo, mấy người tiều phu đang đốn củi, mấy quán chợ xiêu xiêu trong gió. Đảo ngữ đưa hai từ láy “lom khom, lác đác” lên đầu câu đã được tác giả sử dụng như nhấn mạnh thêm sự u hoài ở đây. Nhà thơ tìm kiếm một chút sự sống nhưng sự sống đó lại làm cho cảnh vật héo hắt, buồn bã hơn, xa vắng hơn. Sự đối lập giữa hai câu khiến cho cảnh trên sông, dưới núi trở nên rời rạc, thưa thớt. Từ vài, mấy như nói lên sự vắng vẻ. Trong cảnh hiu quạnh đó, bất ngờ vang lên tiếng kêu đều đều, đầy man mác của chim quốc quốc, chim gia gia trong bóng hoàng hôn buông xuống.
Từ ghép “đau lòng, mỏi miệng” khiến cho ta cảm thấy xúc động, buồn bã. Sự song song giữa ý nghĩa và từ ngữ của hai câu thơ này trong bài thơ nhấn mạnh tình cảm của Bà Huyện Thanh Quan đối với Tổ quốc, gia đình một cách tinh tế và tài tình. Từ hiện thực của xã hội hiện nay mà bà đang sống đến cảnh thực của đèo Ngang khiến tác giả nhớ lại chính mình và chia sẻ tâm tư:
“Dừng chân đứng lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta”
Câu kết của bài thơ, ta cảm nhận được nhà thơ đang u hoài về quá khứ. Dừng lại và quan sát, bà chỉ thấy: “trời, non, nước”. Và chỉ có một mình tác giả giữa không gian hoang vu của đèo Ngang.
Bà Huyện Thanh Quan mãi mãi ghi nhớ tài năng và tư tưởng tuyệt vời của những nhà văn, nhà thơ đối với non sông, đất nước đã qua.
Phân tích tâm trạng của tác giả trong Qua Đèo Ngang - Mẫu 4
Một trong những tác phẩm nổi bật của Bà Huyện Thanh Quan là Qua Đèo Ngang. Bài thơ đã miêu tả sâu sắc nỗi nhớ và tình yêu của tác giả dành cho quê hương, đất nước.
Bài thơ mở đầu bằng việc tác giả nhấn mạnh về thời gian, không gian và quan điểm của mình. Hai từ “bước tới” gợi lên cảm giác ngạc nhiên khi tiếp cận con đường đi qua đèo. Thời gian “bóng xế tà” đưa ra cảm nhận về buổi chiều dần tàn và đêm đang buông xuống. Đứng trước đèo Ngang với rừng núi hoang sơ xa lạ, những tình cảm trong lòng bất chợt tràn ngập. Tiếng “tà” với âm bằng trong văn cảnh tạo nên không khí buồn thương man mác, trở thành “nhịp” của ý thơ:
“Bước tới đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa”
Trong không gian thời gian đó, tác giả đã vẽ nên bức tranh về thiên nhiên ở đèo Ngang. Từ điệp “chen”, kết hợp với vần lưng “đá - lá”, cùng vần chân “tà - hoa” đã tạo nên giai điệu thơ mộng và sống động. Cảnh đèo hiện lên với vẻ hoang sơ và hơi cằn cỗi.
Giữa bức tranh thiên nhiên đó, con người xuất hiện như một chấm buồn nhỏ bé, im lặng:
“Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà”
Điều này khiến tâm trạng của Bà Huyện Thanh Quan trở nên cô đơn và lạnh lẽo hơn.
Nhà thơ đã sử dụng phong cách miêu tả tượng trưng và truyền thống của thi pháp cổ (ngư, tiều, canh, mục) kết hợp với cảm hứng đầy tinh tế và sáng tạo.
“Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia”
Tiếng chim cuốc, chim đa vọng lên trong không gian chiều tà với âm điệu sâu lắng. Đó là “nhớ nước đau lòng” và “thương nhà mỏi miệng” được kết hợp và xen vào nhau một cách hài hòa. Câu thơ về cảnh ngụ tình thể hiện sự nhớ nhà đậm đà của tác giả.
“Dừng chân lại: trời, non, nước
Một mảnh tình riêng ta với ta”
Càng nhớ về quê hương, nhà thơ càng cảm thấy lạc lõng cô đơn nhiều hơn. Hai từ “đứng lại” thể hiện một tư thế, một trạng thái xúc động và bồi hồi. “Ta với ta” là ba chữ quý giá kết hợp với ngữ điệu âm, đặt trong mối tương phản với “trời, non, nước”, thể hiện sự mênh mông và lẻ loi của lòng người. Nó vẽ lên một cảm giác trống vắng không thể diễn tả bằng lời.
Như vậy, bài thơ Qua Đèo Ngang thật sự đã diễn đạt được tình cảm sâu sắc dành cho quê hương, đất nước của nhà thơ.