Đứng đầu trong danh sách 11 bài tường thuật về một làng nghề truyền thống xuất sắc nhất do các học sinh giỏi trên toàn quốc biên soạn, giúp các em dễ dàng viết bài văn tường thuật về làng lụa Vạn Phúc, làng nghề nón lá, làng tranh Đông Hồ, làng làm hoa giấy Thanh Tiên, làng tơ Cổ Chất, bánh cáy làng Nguyễn...
Nhờ đó, các em sẽ hiểu thêm về lịch sử phát triển, đặc điểm nổi bật của các làng nghề truyền thống ở Việt Nam, nhanh chóng viết bài văn tường thuật về một làng nghề thú vị, để cải thiện kỹ năng học môn Văn 9:
Phân tích dàn ý về một làng nghề truyền thống
1. Khai mạc
- Giới thiệu tổng quan về nguồn gốc của làng nghề truyền thống trong vùng quê.
2. Nội dung chính
- Mô tả chi tiết về vị trí của làng nghề: đặt ở đâu, cách đi và nhận dạng như thế nào?
- Thảo luận về nguồn gốc, lịch sử hình thành của làng nghề truyền thống đó:
- Làng ra đời từ thời điểm nào?
- Lịch sử của làng liên quan đến sự kiện, nhân vật quan trọng nào?
- Thời gian tồn tại và phát triển kéo dài bao lâu?
- Thông tin chi tiết về làng nghề truyền thống đó:
- Trong làng có bao nhiêu gia đình làm nghề?
- Khung cảnh của làng như thế nào?
- Sản phẩm truyền thống của làng nghề. Ngày nay, người dân trong làng vẫn sử dụng phương pháp làm việc thủ công hay hiện đại. Mô tả sự thay đổi, tiến bộ trong quá trình làm nghề của cư dân địa phương.
- Quá trình làm nghề của những người thợ có điểm gì đặc biệt, ấn tượng với bạn?
- Sản phẩm được tạo ra có hình dạng, màu sắc ra sao? Phản ánh nét đặc trưng duy nhất của làng nghề...
- Các yếu tố môi trường, cảnh quan xung quanh làng nghề.
- Đặt vấn đề về vị trí, giá trị của làng nghề truyền thống đó đối với đất nước và cư dân địa phương.
3. Tổng kết
- Nhấn mạnh lại sự lâu đời của lịch sử làng nghề.
- Ý thức của bản thân đối với làng nghề.
Thuyết minh về làng lụa Vạn Phúc
Hà Nội - thủ đô lâu đời với văn hóa phong phú, nơi giữ gìn được di sản văn hóa từ xa xưa chính là làng lụa Vạn Phúc, hay còn gọi là Làng lụa Vạn Phúc. Đây được coi là nguồn gốc của ngành công nghiệp lụa Việt Nam, với sản phẩm lụa Vạn Phúc được đánh giá là xuất sắc nhất trong khu vực Đông Dương.
Nằm tại vùng Hà Đông, làng lụa Vạn Phúc thuộc phường Vạn Phúc, quận Hà Đông, cách trung tâm Hà Nội khoảng 10km. Đến làng lụa Vạn Phúc có thể đi nhiều tuyến đường thuận tiện và nhanh chóng từ trung tâm. Dân cũng có thể sử dụng nhiều phương tiện như xe cá nhân, taxi, xe buýt hoặc xe buýt nhanh BRT theo tuyến Nguyễn Trãi - Lê Văn Lương - Tố Hữu để đến phường Vạn Phúc. Với người dân Hà Đông và phường Vạn Phúc, làng lụa Vạn Phúc đã trở thành biểu tượng, trái tim và tinh thần của cộng đồng.
Điều phân biệt nổi bật nhất khi nhìn vào một làng nghề truyền thống giữa thủ đô chính là cổng làng theo kiến trúc cổ. Cổng làng được xây bằng gạch đỏ theo lối kiến trúc tam quan, với gác và mái che, cổng lớn giúp cho các phương tiện ô tô dễ dàng lưu thông. Khi đến thăm làng lụa Vạn Phúc, du khách sẽ được quay về quá khứ, trải nghiệm không khí xưa cũ, những nét cổ kính của thôn quê giữa một thành phố hiện đại. Đó chính là cổng làng, bia đá vững chãi, mái ngói đỏ rêu phong, cây đa cổ thụ mát mẻ, giếng nước, sân đình. Bằng cách duy trì truyền thống trong quá trình sản xuất lụa Vạn Phúc, ngôi làng đã giữ lại những giá trị truyền thống và tinh hoa nhất đến ngày nay.
Làng lụa Vạn Phúc đã tồn tại gần 1100 năm, lịch sử của làng lụa này bắt đầu từ khi bà A Lã Thị Nương, vợ của thái thú Giao Chỉ Cao Biền, dạy và truyền nghề nuôi tằm kéo tơ dệt lụa cho người dân. Ban đầu, sản phẩm lụa của làng được gọi là Vạn Bảo, sau đó, do sự thay đổi của nhà Nguyễn, nó được đổi tên thành Vạn Phúc. Từ những năm 1930, khi nước ta vẫn chia làm hai miền Bắc Kỳ và Nam Kỳ, người dân ở Bắc Kỳ tự hào khi lụa Vạn Phúc được giới thiệu ra thế giới lần đầu tiên năm 1931 tại hội chợ quốc tế Marseille, từ đó, lụa Vạn Phúc trở thành một mặt hàng xuất khẩu đi Đông Âu và nhiều nơi khác trên thế giới. Ngày nay, lụa Vạn Phúc vẫn tiếp tục phát triển và giữ gìn được vẻ đẹp truyền thống trong từng sợi lụa. Trong bối cảnh cạnh tranh với các sản phẩm lụa khác trên thế giới, lụa Vạn Phúc vẫn vươn lên trong khó khăn, khẳng định giá trị truyền thống, chất lượng, và ngày càng có vị thế trên thị trường quốc tế mặc cho các đối thủ luôn cố gắng làm giả thương hiệu.
Lụa Vạn Phúc có những đặc điểm độc đáo không thể tìm thấy ở bất kỳ sản phẩm lụa nào khác, điều này là nhờ vào đôi bàn tay của những nghệ nhân tài ba, họ là những người giữ bí mật gia truyền và đổ bộ tâm huyết của mình vào từng sản phẩm. Họ đã phải dày công và tận tâm để tạo ra một tấm lụa hoàn hảo. Một sản phẩm lụa Vạn Phúc cần phải trải qua nhiều giai đoạn, từ việc trồng dâu cho tằm, thu tơ kéo tơ, nhuộm tơ... Mặc dù có sự hỗ trợ từ các thiết bị hiện đại, nhưng con người vẫn là trung tâm, máy móc chỉ là công cụ phụ trợ không thể thay thế con người. Mỗi sợi tơ dệt thành dải lụa mềm mại là kết quả của công sức lao động và tài năng của những người nghệ nhân làng lụa.
Đối với làng lụa Vạn Phúc và cả đất nước, lụa Vạn Phúc không chỉ là một sản phẩm quý giá, mà còn là một biểu tượng của lịch sử, truyền thống và văn hóa dân tộc Việt Nam, là sợi tơ nối kết Việt Nam với thế giới. Ngày nay, khi đến thăm Vạn Phúc, bạn sẽ được tham quan du lịch trong làng nghề truyền thống này. Bạn sẽ được giới thiệu về nhiều sản phẩm của làng như: lụa, gấm, vân, the, lĩnh, cầu, đũi... Sản phẩm nổi tiếng nhất là lụa vân, có những họa tiết nổi bật, mặc vào sẽ cảm nhận được sự ấm áp vào mùa đông và mát mẻ vào mùa hè. Các sản phẩm từ lụa ngày càng đa dạng và phong phú: từ quần áo hàng ngày đến váy áo, áo vest, sơ mi, và cả túi xách, khăn quàng.
Làng lụa Vạn Phúc không chỉ là một làng nghề truyền thống đơn thuần mang lại giá trị hàng hóa mà còn vượt qua ý nghĩa đó, trở thành biểu tượng của truyền thống văn hóa dân tộc. Làng lụa Vạn Phúc đã được thể hiện qua thơ ca, âm nhạc, vào cuộc sống hàng ngày, giống như những bài hát trong bài 'Áo lụa Hà Đông' với tiếng hát đầy cảm xúc, luôn trở thành một phần không thể tách rời trong tâm trí mỗi người dân Hà Đông.
Miêu tả làng nghề gốm của người Chăm ở tỉnh Bình Thuận
Dân tộc Chăm sinh sống ven biển miền Trung Việt Nam từ lâu đời, đặt nền móng cho một văn hoá phong phú với ảnh hưởng sâu rộng từ văn hoá Ấn Độ. Từ thế kỷ XVII, họ đã xây dựng vương quốc Chămpa. Người Chăm ở Bình Thuận có kế thừa nghề nông nghiệp, chủ yếu là trồng trọt và nuôi cá, ngoài ra còn có ruộng khô trên đồi. Họ cũng làm thủ công và thương mại nhỏ. Làng nghề gốm của người Chăm ở Bình Thuận là một trong những làng nghề cổ, vẫn giữ được đến ngày nay.
Lịch sử phát triển nghề gốm của người Chăm ở Bình Thuận chưa được ghi chép đầy đủ, rõ ràng. Ngay cả các nghệ nhân gốm già, người Chăm cũng không biết rõ nguồn gốc của nghề này. Các văn kiện bằng chữ Chăm cổ cũng không đề cập đến nghề gốm. Không có bảng ký hay truyền thuyết nào được truyền miệng trong cộng đồng người Chăm về nghề gốm.
Hiện nay, tại Bình Thuận có 26 thôn của người Chăm, nhưng chỉ có thôn Bình Đức, xã Phan Hiệp, huyện Bắc Bình vẫn duy trì nghề gốm theo cách truyền thống của tổ tiên. Theo các nghệ nhân, nghề gốm ở thôn Bình Đức tồn tại từ lâu đời, được các gia đình người Chăm truyền lại qua nhiều thế hệ.
Quy trình làm gốm truyền thống của người Chăm ở thôn Bình Đức, xã Phan Hiệp, huyện Bắc Bình bao gồm nhiều bước công việc liên kết với nhau.
Bước đầu là chọn đất và lấy đất. Theo kinh nghiệm dân gian, đất sét dùng để làm gốm phải có màu vàng nhạt, dẻo và mịn vừa phải, không nhiều hạt sạn. Việc lấy đất thường diễn ra vào mùa nông nhàn, từ tháng Một đến tháng Hai Âm lịch hàng năm. Công cụ bao gồm cuốc, xẻng, cúp, xà beng và thúng. Trước đây, đất được chở bằng xe trâu, ngày nay bằng xe cơ giới.
Có đất, người làm gốm phải xử lý đất trước khi làm gốm. Việc này ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu suất sản phẩm sau khi nung. Để nhào đất vào sáng ngày hôm sau, ngày hôm trước đất được đập và pha trộn, không để dư lại qua ngày hôm sau.
Thợ làm gốm là phụ nữ Chăm, họ tạo hình sản phẩm không cần bàn xoay, chỉ sử dụng các công cụ giản đơn. Dụng cụ bao gồm một chiếc bàn kê và một miếng vải thô. Đối với sản phẩm lớn, phải thực hiện trên sàn phẳng, do nghệ nhân già, có kinh nghiệm thực hiện. Thợ sử dụng cát trắng để đặt đất sét lên bàn kê. Bằng cách dùng tay, họ tạo dáng và hình dáng sản phẩm.
Tùy vào kích thước sản phẩm, thợ lấy thêm đất để nối vuốt phần thân sản phẩm. Họ vuốt mặt bên ngoài sản phẩm và dịch chuyển quanh bàn kê, tạo ra dáng gốm cơ bản. Số vòng dịch chuyển phụ thuộc vào loại sản phẩm.
Tiếp theo, thợ dùng vòng tre vót mỏng vuốt lên mặt sản phẩm ướt để tạo độ đều và láng mịn. Rồi dùng miếng vải thô nhúng nước và vuốt miệng gốm cho đều, mịn. Mặt trong và ngoài miệng sản phẩm được vuốt nước. Khi sản phẩm ráo nước, thợ tiếp tục nông thân và đáy sản phẩm, làm bóng mặt trong và ngoài.
Sản phẩm gốm ướt được để khô tự nhiên ở nơi có bóng mát hoặc hỏa lò phơi, có thể để ở nơi nắng gió. Độ ráo của sản phẩm ảnh hưởng đến quá trình chỉnh hình sau này. Sử dụng các công cụ đặc thù, thợ nạo mặt trong thân và đáy sản phẩm, nông sản phẩm từ đáy, làm tròn thành đáy hoặc nông và nạo bớt chỗ dày mặt trong. Tiếp đó, thợ chà mịn mặt ngoài sản phẩm.
Để kiểm tra độ đều và cân đối, thợ sử dụng vỏ nghêu để nạo mặt trong thân và đáy một lần nữa, sau đó xoa nước thổ hoàng lên toàn bộ mặt ngoài và mặt trong thân gốm. Sản phẩm được phủ kín bằng tấm nilon để không bị khô. Trước khi nung, thợ dùng viên đá mài chà lên thân sản phẩm để làm nhẵn lớp nước thổ hoàng bên trên thân gốm.
Những sản phẩm gốm Chăm được làm hoàn toàn thủ công, không giống nhau. Mỗi sản phẩm thể hiện phong cách, tay nghề, khéo léo và cả tình cảm của người thợ.
Gốm của người Chăm được nung lộ thiên, một lần nung cần từ vài trăm đến 2000 sản phẩm. Thời gian nung phụ thuộc vào số lượng sản phẩm.
Gốm được xếp từ nhỏ đến lớn, từ dày đến mỏng. Nhiên liệu chính là củi và rơm, củi là chất đốt chính, rơm thấm nước để giữ nhiệt không cho hơi nóng thoát ra ngoài.
Sản phẩm gốm của người Chăm Bình Thuận đa dạng, bao gồm các loại đồ đun nấu như trã, nồi, ấm, khương, dụ, gàn, hỏa lò, khuôn lò bánh xèo, khuôn lò bánh căn, và các loại đồ đựng như lu đựng gạo, chum lớn, chum nhỏ, chậu, ống nhổ của các chức sắc.
Sản phẩm gốm của người Chăm Bình Thuận có giá rẻ, đa dạng về kích cỡ và loại, được ưa chuộng trên diện rộng và tiêu thụ ở nhiều tỉnh lân cận như Ninh Thuận, Khánh Hòa, Đồng Nai, Lâm Đồng, Tp. Hồ Chí Minh.
Người Chăm tạo ra sản phẩm gốm đầu tiên để sử dụng trong cuộc sống hàng ngày, sau đó là để trang trí và mang tính mỹ thuật và tôn giáo. Những sản phẩm này đã trở thành hàng hóa mua bán rộng rãi.
Gốm Chăm Việt Nam vẫn tồn tại và giữ được hồn tinh túy và vẻ đẹp hoang sơ của gốm cổ, xứng đáng được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại. Hy vọng gốm Chăm sẽ hồi sinh và tiếp tục phát triển.
Quy trình làm gốm của người Chăm thể hiện giá trị nghệ thuật đặc trưng. Gốm truyền thống của họ tồn tại và giữ được vẻ đẹp hoang sơ hàng trăm năm qua.
Làng nghề làm gốm của người Chăm ở Bình Đức vẫn giữ nhiều giá trị văn hóa truyền thống, thể hiện qua kỹ thuật chế tác gốm truyền thống, sản phẩm độc đáo mang nhiều dấu ấn lịch sử văn hóa tộc người. Năm 2012, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã công nhận Nghề làm gốm của người Chăm tỉnh Bình Thuận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.
Thuyết minh về làng nghề nón lá xứ Huế
Chiếc nón lá là biểu tượng truyền thống của phụ nữ Việt Nam, không chỉ để che mưa, che nắng mà còn là biểu tượng văn hóa dân tộc. Nghề làm nón lá đã tồn tại và phát triển hàng trăm năm qua ở Huế với nhiều làng nghề thủ công.
'Gió cầu vương áo nàng thôn nữ
Quai lỏng nghiêng vành chiếc nón thơ.'
(Đông Hồ)
Nghề làm nón ở Huế đã tồn tại và phát triển hàng trăm năm qua với nhiều làng nghề thủ công như Dạ Lê, Phú Cam, Đốc Sơ, Triều Tây. Mỗi năm sản xuất hàng triệu chiếc nón để đáp ứng nhu cầu tiêu thụ. Các nghệ nhân khéo léo đan từng chiếc nón, trải qua nhiều công đoạn để hoàn thành sản phẩm.
Các bước bao gồm: chọn khung, uốn vành, lợp lá, cắt hoa văn, chằm và đánh bóng bảo quản, cuối cùng là đưa ra thị trường. Do có nhiều bước như vậy, nghề làm nón phân chia ra thành nhiều thợ khác nhau, mỗi người một công việc: Thợ làm khung, thợ chuốt vành, thợ chằm nón,...
Để tạo hình cho chiếc nón, người thợ bắt đầu làm khung. Công đoạn đầu tiên là chuốt vành, yêu cầu thợ phải khéo léo, chuốt sao cho các vành đều nhau, không quá to hay quá nhỏ làm mất đi vẻ đẹp của nón. Vành nón làm bằng gỗ nhẹ, mảnh, vành ghép lại tạo cho chiếc nón lá có độ khum, độ tròn và hình dáng nhất định. Mỗi chiếc nón thường có từ 15-16 vành, đường kính khoảng 50cm, làm từ gỗ cây lồ ô. Vành nón có thể xem là bước quan trọng nhất, quyết định rõ hình dạng chiếc nón lá.
Tiếp theo là công đoạn lợp lá - một bước không kém phần quan trọng. Lá dùng để lợp nón là loại lá nón bình thường, nhưng phải qua nhiều giai đoạn chọn lọc tỉ mỉ và trải qua các công đoạn khác nhau. Những người thợ phải cân nhắc, cẩn thận để lá nón giữ được màu trắng xanh mới. Những chiếc lá nón được xếp đều lên vành, tạo nên hình ảnh chiếc nón thanh mảnh, đầy nữ tính.
Sau công đoạn lợp lá là công đoạn đặt hoa văn. Biểu tượng giữa hai lớp nón thường là hình ảnh cầu Trường Tiền, núi Ngự Bình, cầu Ngói,... được đặt hài hòa trong không gian nón. Nón lá với hoa văn đẹp mắt đã cuốn hút không biết bao nhiêu người dân hướng về quê hương Huế mộng mơ đầy yêu thương.
Bước quan trọng nhất là chằm nón. Công đoạn đòi hỏi sự tỉ mỉ, khéo léo của người nghệ nhân, chính vì lí do này mà thợ chằm nón đa chơi xổ sốu là nữ. Những đường cước mỏng viền quanh vành nón không chỉ tô điểm cho nón lá mà còn giúp tăng độ bền cho nón. Nón lá sau khi hoàn tất sẽ được quét lên một lớp nhựa thông pha cồn để tăng độ bóng, không thấm nước.
Tại Huế, khắp mọi nơi đều có hàng nón lá: từ chợ Đông Ba, Bến Ngự,... đến chợ Sịa, Phò Trạch,... Chiếc nón lá với vẻ đẹp hấp dẫn đã trở thành món hàng được nhiều người ưa chuộng, đặc biệt là du khách. Ai đã từng đặt chân đến Huế, đều muốn sở hữu một chiếc nón lá, một dấu ấn của đất đai này.
Cầm chiếc nón lá trên tay, không chỉ yêu từng chi tiết nhỏ nhặt trên đó mà còn yêu thêm tình cảm đậm đà của xứ Huế:
'Con sông dùng dằng, con sông không chảy
Sông chảy vào lòng, nên Huế rất sâu...'
(Thu Bồn)
Nón bài thơ không chỉ là một loại nón đơn thuần mà còn trở thành biểu tượng đặc sắc của dân tộc. Đây là sản phẩm thủ công mĩ nghệ đầu tiên được bảo hộ bởi Cục Sở hữu Trí tuệ (Bộ Khoa học và Công nghệ).
Chiếc nón lá, đặc biệt là nón bài thơ, đã gắn bó sâu đậm trong lòng người thông qua những bài thơ mộc mạc, đậm tình yêu thương, trở thành biểu tượng của dân tộc Việt Nam, đặc biệt là những người con của Huế. Dù hiện nay không còn thấy nón lá xuất hiện nhiều như trước, nhưng hình ảnh của nó vẫn sống mãi trong lòng người. Yêu thêm chiếc nón lá, yêu thêm người Huế, yêu thêm bản sắc văn hóa Việt Nam..... Và dù thời gian có trôi qua, hình ảnh chiếc nón lá cùng chiếc áo dài truyền thống vẫn mãi là biểu tượng sâu sắc trong lòng người dân.
Giới thiệu về Làng tranh Đông Hồ
Hỡi cô thắt lưng bao xanh
Cùng về Làng Mái với anh
Làng Mái với những lễ hội truyền thống
Có ao nước trong lành và nghề làm tranh nổi tiếng
Làng Đông Hồ, nơi tên gọi quen thuộc, yên bình nằm dọc theo dòng sông Đuống thuộc xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Từ xưa, tên làng đã đi vào tâm trí mỗi người Việt qua những tác phẩm tranh dân gian độc đáo, phản ánh đậm đà nét văn hóa dân tộc.
Được biết đến từ thời kỳ Lê, làng tranh Đông Hồ nổi tiếng với nghề làm tranh dân gian. Từng được gọi là làng Mái hay làng Hồ, nằm ven sông Đuống, gần bến đò Hồ (nay là cầu Hồ). Để đến làng Đông Hồ, người ta đi theo đường Quốc lộ số 5 từ Hà Nội, sau đó rẽ trái tại ga Phú Thụy, rồi đi chừng 18km qua các địa danh nổi tiếng của huyện Gia Lâm là đến phố Hồ, rẽ trái thêm 2km là đến làng Đông Hồ.
Tranh Đông Hồ đã tồn tại từ thời kỳ Lê. Tại làng tranh nghèo nhưng phồn thịnh như Đông Hồ, trước đây người ta thường hay truyền nhau câu ca 'Làng Mái có lịch có 26 sông tắm mát, có nghề làm tranh'. Với thời gian, 17 dòng họ đã tập trung về làng, và đều làm nghề tranh.
Tranh Đông Hồ với những hình ảnh gà, lợn tươi trẻ,
Mang trong mình tinh thần sáng bừng của dân tộc
Có thể nói rằng, điều đặc biệt ở tranh Đông Hồ chính là điều đó. Tranh của Hàng Trống, Kim Hoàng, Huế... không thể có sắc màu tươi rói, hấp dẫn như tranh Đông Hồ, cũng không thể có được giấy điệp mịn màng, quyến rũ như vậy. Tranh Đông Hồ mang trong mình chất dân gian, được thể hiện rõ qua nền giấy điệp màu trắng ngà, tạo nên sự hài hòa với các màu sắc.
Trong tranh Đông Hồ, có nhiều loại như: tranh thờ - bộ ngũ sự; tranh lịch sử: Hai Trưng, Bà Triệu...; truyện tranh: Thánh Gióng, Truyện Kiều, Thạch Sanh; phổ biến nhất là chúc tụng; như tranh Vinh hoa - Phú quý, Nghi xuân, Gà (xem thêm Bảy bức tranh gà); tranh sinh hoạt: Đánh Ghen, Chăn Trâu Thổi Sách. Tranh Đông Hồ thường mang trong mình những hình ảnh phong phú như đám cưới chuột, trai gái hái dừa, cá chép vẫy đuôi... thể hiện mong muốn về sự sung túc.
Điều đặc biệt là người dân làng Hồ chủ yếu sản xuất tranh để bán hoặc trao đi. Hàng năm, làng Hồ tổ chức hội làng vào rằm tháng ba âm lịch với nhiều nghi lễ truyền thống như tế thần, thi mã, thi tranh, mang lại niềm vui cho làng.
Ở đường anh đi qua
Ngừng lại ngắm cảnh, tan bi ai
Mua một tờ tranh sặc sỡ
Mua gà lợn tranh nhau đẻ nhiều.
Làng tranh Đông Hồ đã trải qua nhiều biến động theo thời gian. Các nghệ nhân kể lại rằng trong quá khứ, khi Pháp thuộc, người dân thường mua tranh, thậm chí là bàn khắc tranh. Một số tranh quý của làng bị hỏng hoặc mất trong thời kỳ chiến tranh. Sau đó, Chính phủ Pháp phải liên hệ với Đảng Cộng sản Pháp để khắc lại tranh và bảo tồn nghệ thuật dân gian. Dù có một thời gian làng tranh Đông Hồ bị lãng quên, nhưng gần đây, người dân lại trở lại với nghề tranh với niềm đam mê và nhận thức về vẻ đẹp của tranh Đông Hồ.
Tranh Đông Hồ từng là xu hướng thịnh hành và được yêu thích trong các triển lãm nghệ thuật quốc tế với vẻ đẹp đậm chất dân gian. Không chỉ người dân trong nước mà còn có nhiều du khách và họa sĩ quốc tế đến để tìm hiểu và mua tranh Đông Hồ làm quà lưu niệm.
Làng làm hoa giấy Thanh Tiên
“Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu…”
(Thời bồn hồn)
Ai đã từng đặt chân đến Huế, không thể quên được vẻ đẹp của xứ sở này. Trên dòng Hương Giang chảy chậm rãi, những cánh hoa giấy nhẹ nhàng trôi theo dòng nước, nhắc nhở về làng nghề truyền thống của Huế - làng làm hoa giấy Thanh Tiên.
Hoa giấy là một phần không thể thiếu trong ngày tết, đặc biệt là ở Cố đô Huế - kinh đô của chế độ phong kiến cuối cùng của Việt Nam. Làng làm hoa giấy Thanh Tiên đã tồn tại gần 400 năm, được thành lập dưới thời các vua Nguyễn, nhưng chỉ đến năm 1802 mới trở nên nổi tiếng.
Người dân kể lại rằng vào những năm đó, sau khi vua Gia Long thống nhất đất nước, trong lễ Thượng tuần, vua ban hành sắc lệnh yêu cầu mỗi trấn đem về một loài hoa quý để dâng lên. Một quan trong triều đình, người làng Thanh Tiên, đã tặng vua một loài hoa giấy mang ý nghĩa đặc biệt, tượng trưng cho đạo lý Tam Cương - Ngũ Thường. Nghe ý kiến của quan này, vua rất thích và ban sắc lệnh khuyến khích người dân làng Thanh Tiên làm hoa giấy để bày biện và phổ biến nghề làm hoa giấy khắp cả nước.
Mặc dù làm hoa giấy Thanh Tiên có vẻ đơn giản nhưng lại không dễ dàng. Ngoài kỹ năng thủ công, người thợ còn cần có óc thẩm mỹ cao và tính kiên trì. Hoa giấy Thanh Tiên được biết đến với sự đa dạng về màu sắc và loại hoa, với hình thức đẹp mắt. Những bông hoa này không chỉ giống thật mà còn sống động hơn hoa thật.
Hoa giấy đã trở thành một phần không thể thiếu của Huế, làm nên vẻ đẹp mộng mơ của xứ sở này và thêm phần sinh động cho cảnh quan tự nhiên. Hằng năm, vào đầu tháng Chạp, người dân ở làng Thanh Tiên bận rộn với việc trang trí từng nhánh hoa để chờ đón mùa xuân và tết đến, tô thêm vẻ đẹp cho tín ngưỡng dân gian ở Huế. Trên bàn thờ của người Huế thường trang trí một cây hoa giấy đa sắc. Mọi người ở Huế đều khâm phục trước tài nghệ làm hoa sen giấy của làng Hoa giấy Thanh Tiên. Hoa sen giấy Thanh Tiên cũng là món quà được nhiều du khách quốc tế yêu thích, mang về quê hương của họ như châu Âu, châu Mỹ, châu Úc.
Hoa sen giấy Thanh Tiên còn được sử dụng làm biểu tượng trong các lễ hội lớn như Festival Huế, lễ hội áo dài, các chương trình giao lưu văn hóa nghệ thuật và được trưng bày tại Đại Nội - Huế, và Nhà lưu niệm Nguyễn Chí Diểu (Thanh Tiên, Phú Mậu, Phú Vang, Huế).
Vượt qua biến động của thời gian, mặc dù có nhiều loại hoa nhân tạo xuất hiện, làng nghề hoa giấy Thanh Tiên vẫn giữ vững vị thế của mình. Không chỉ là một làng nghề truyền thống lâu đời, làng nghề hoa giấy Thanh Tiên còn là niềm tự hào của người Huế, gìn giữ nét đẹp văn hóa tinh thần đặc trưng của Huế.
Thuyết minh về làng lụa Cổ Chất
“Hỡi cô gái thắt dải lưng màu xanh
Có về Nam Định với anh thì hãy về
Nơi Nam Định có bến Đò Chè
Có tàu Ngô Khách, có nghề dệt lụa”
Mỗi khi lời thơ ấy vun vút, lòng tôi lại nhớ về màu tơ vàng rực của làng Cổ Chất. Theo dòng thời gian vô tình trôi qua, qua bao năm tháng, ngôi làng ấy vẫn giữ vững truyền thống cổ xưa nhất, tạo nên một làng nghề truyền thống nổi tiếng ở đất Thành Nam. Người ta thường gọi là Làng tơ Cổ Chất.
Làng Cổ Chất yên bình nằm ở một vùng của xã Phương Đình, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định. Từ trung tâm của thành phố Nam Định, đi thẳng theo quốc lộ 21 hoặc dọc theo dòng sông Hồng khoảng 20km về phía Đông Nam, bạn sẽ cảm thấy như lạc vào một không gian đậm chất xưa của đồng bằng Bắc Bộ. Đó là làng tơ Cổ Chất. Làng nghề truyền thống ẩn mình bên dòng sông Ninh hiền hòa, thơ mộng.
Từ rất lâu trước đây, ngôi làng này đã nổi tiếng với nghề trồng dâu, nuôi tằm, ươm tơ và dệt lụa. Không ai nhớ rõ nghề này đã đi cùng làng từ khi nào. Chỉ nghe các cụ kể lại rằng: vào đầu thế kỷ XX, Pháp xây dựng một nhà máy ươm tơ ngay đầu làng Cổ Chất để khai thác sức lao động và lợi thế của vùng đất trồng dâu tằm sông Ninh.
Hồi tưởng lại quá khứ, những người già trong làng vẫn nhớ rõ khung cảnh sống sôi động ngày xưa của làng. Thương nhân từ mọi nơi tìm về làng để mua tơ lụa, mang đi bán ở bến Đò Chè - khu cảng sầm uất của Nam Định trong những năm trước năm 1945.
Đến ngày nay, làng có khoảng năm trăm hộ theo nghề ươm tơ. Tơ làng Cổ Chất có chất lượng rất tốt, những sợi tơ mảnh mai, mềm mại, màu sắc tươi sáng. Người trong làng ươm cả tơ vàng lẫn tơ trắng. Tằm được chọn lựa từ các vùng lân cận xa xôi như Thanh Hóa, Hà Nam, Thái Bình. Khi bước chân đến ngôi làng cổ này, điều đầu tiên gây ấn tượng là khắp nơi đều thấy những bó tơ vàng, tơ trắng rực rỡ trên những que tre. Ở một góc nào đó, có những người phụ nữ đang vắt những bó tơ để dệt. Tơ vàng, ánh mặt trời vàng hòa quyện với nhau tạo nên một bức tranh sặc sỡ màu sắc. Với sự phát triển của khoa học và công nghệ, các sản phẩm của làng được sản xuất bằng cả công nghệ thủ công và máy móc, mang lại nhiều sản phẩm tơ đa dạng và chất lượng hơn.
Khi bước vào những xưởng kéo tơ, ta lại càng ngỡ ngàng trước những làn khói bốc nghi ngút từ nồi luộc kén. Ẩn sau những làn khói đó là hình ảnh các bà, các chị đang miệt mài cho những chiếc kén tằm vào nồi, đôi tay khéo léo khuấy đều. Không lâu sau, các kén liên tục nhảy lên bàn kéo sợi, những sợi tơ chui qua lỗ nhỏ rồi cuốn vào guồng quay đang quay. Sau đó, những bó tơ vàng, tơ trắng được tạo ra.
Đến làng Cổ Chất, bạn không chỉ thấy trực tiếp quá trình ươm tơ và dệt lụa mà còn được chiêm ngưỡng một làng quê mang đậm bản sắc văn hóa Bắc Bộ. Dạo quanh làng, bạn sẽ gặp Vạn Cổ Hương và chùa Phổ Quang. Đó là di tích kiến trúc được Bộ Văn hóa công nhận là di tích lịch sử - văn hóa đền chùa Cổ Chất. Đặc biệt, bạn còn được nghe kể về những câu chuyện lâu đời liên quan đến các công trình này.
Trong làng có chùa thờ Phật, đền thờ bốn vị Thánh tổ đã có công xây dựng làng Cổ Chất xưa. Nhằm tưởng nhớ công lao của các vị tiền bối, tri ân công đức của các bậc tiền nhân, mỗi ngày mùng 6 tháng 3 âm lịch, dân làng lại đón tiếp khách thập phương tới dâng hương. Trong dịp này, người dân cũng tổ chức các trò chơi dân gian như một cách để khởi đầu cho một mùa tơ vàng mới, một mùa lúa mạ bội thu và mong muốn một cuộc sống an khang thịnh vượng.
Làng tơ Cổ Chất từ lâu đã trở thành biểu tượng của nghề truyền thống Nam Định. Nơi đây là nơi sinh ra những loại tơ tằm đẹp nổi tiếng của vùng đất thành Nam. Những bó tơ ở đây không chỉ đẹp mà còn bền, đã đi qua tay của các nghệ nhân đến mọi miền đất nước, tạo ra những bộ quần áo đẹp cho con người. Tơ Cổ Chất là nguồn sống của cả một làng nghề, là sự kết hợp của lịch sử văn hóa lâu dài. Đến với làng này, bạn được gặp gỡ những người dân chân chất, hiền lành, gắn bó với nghề ươm tơ, dệt lụa và ngắm nhìn những khung cảnh tuyệt đẹp.
Qua bao biến cố lịch sử, đến ngày nay, Cổ Chất trở thành biểu tượng của nghề truyền thống nổi tiếng trên khắp đất nước. Dù thời gian trôi qua nhưng làng nghề truyền thống ấy vẫn tồn tại mãi trong lòng những thế hệ hiện nay và cả của tương lai.
Trình bày về Bánh cáy làng Nguyễn
Khi đến từng vùng miền khác nhau của đất nước, chúng ta lại được thưởng thức những đặc sản độc đáo mà chỉ có ở vùng đất đó. Ai đã từng đặt chân đến miền Tây Nam Bộ, không thể quên những vườn cây mướt mát, những món cá sông đặc sản của vùng miền. Ai đã từng đặt bước tới Hà Nội không thể bỏ qua món bún chả nổi tiếng khắp nơi. Còn đối với Thái Bình - một tỉnh đồng bằng nhỏ bé ở miền nông thôn Bắc Bộ, chúng ta không thể không nhắc đến món bánh cáy làng Nguyễn đã trở nên nổi tiếng khắp cả nước.
Khi nhắc đến Thái Bình, ai cũng sẽ nghĩ ngay đến chùa Keo, một trong những ngôi chùa với kiến trúc đẹp và cổ kính nhất Việt Nam. Nhưng Thái Bình không chỉ có điều đó, mà còn có một món ăn đặc sản, là biểu tượng văn hóa ẩm thực của người dân nơi đây, đó là món bánh cáy làng Nguyễn.
Bánh cáy đã tồn tại từ rất lâu, khoảng hai trăm đến ba trăm năm trước, từ thời kỳ phong kiến. Món bánh này trở thành một phần không thể thiếu của ẩm thực truyền thống và là đặc sản của vùng miền, được dành tặng cho vua chúa ngày xưa. Sự phổ biến của bánh cáy đã giúp hình thành một làng nghề làm bánh cáy nổi tiếng ở Thái Bình, đó là làng Nguyễn (thuộc Đông Hưng, Thái Bình). Và chỉ ở ngôi làng này, người ta mới thưởng thức được hương vị nguyên bản nhất của chiếc bánh cáy từ thời xa xưa.
Đối với nhiều người, món bánh cáy có thể cảm thấy khá xa lạ. Món bánh này được làm từ gạo nếp, nhưng lại có một hương vị đặc biệt không thể tìm thấy ở bất kỳ đâu khác. Để tạo ra một chiếc bánh cáy thơm ngon, người ta cần sử dụng nhiều nguyên liệu, trong đó gạo nếp và mỡ lợn là hai nguyên liệu chính, cùng với các loại hạt khác như lạc, gấc, vừng, dừa... và quan trọng nhất là việc lựa chọn nguyên liệu cẩn thận. Trước khi bắt đầu làm bánh, người thợ bánh phải chọn ra những lát mỡ lợn tươi ngon nhất để muối. Mỡ lợn cần phải có độ tươi, độ dẻo, độ đàn hồi và màu trắng nhất định, được lấy từ con lợn ngon nhất. Sau đó, mỡ lợn được ướp muối và đường trong khoảng một nửa tháng để tạo thành thành phần ngon nhất của bánh cáy. Khi mỡ lợn đã chín đến mức cần thiết, người ta mới bắt đầu làm bánh cáy. Ngoài mỡ lợn, việc chọn lựa các nguyên liệu khác cũng rất quan trọng. Gạo nếp được sử dụng để làm bánh phải là loại gạo nếp cái hoa vàng - một loại gạo đặc sản của vùng đồng bằng, được xay xát và vo cẩn thận. Gạo nếp sẽ được ngâm trong nước lạnh qua một đêm để tạo ra độ mềm và nở. Sau đó, gạo nếp sẽ được vo và giã đều tay để tạo ra xôi, gồm xôi gấc và xôi nghệ. Trong lúc nấu xôi, người nghệ nhân làm bánh phải canh thời gian để xôi chín đến mức cần thiết, sau đó được mang ra và giã cho thật nhuyễn và mịn. Xôi sau khi giã sẽ được cán mỏng thành từng miếng nhỏ rồi sấy khô. Trong thời gian chờ xôi sấy, người thợ bánh sẽ chuẩn bị các nguyên liệu còn lại cho bánh. Đó là những thành phần tạo ra mùi thơm và hương vị đặc trưng của bánh. Trong đó, không thể thiếu mùi thơm của vỏ quýt, mùi của gừng và vị ngọt của đường mía, sự giòn của cà rốt. Từ gừng, người thợ bánh sẽ giã nát và pha thành nước gừng, kết hợp với đường và cà rốt để tạo ra hương vị đặc trưng cho bánh cáy. Những người đã từng thưởng thức bánh cáy chắc chắn sẽ không thể quên được hương vị đặc biệt của món ăn này.
Sau khi đã sấy khô, lớp xôi được nghiền thành bột mịn. Mỡ lợn từ thùng muối được thái thành hạt lựu rồi xào với đường cho đến khi chuyển màu vàng giòn, sau đó bột xôi được trộn đều vào. Tất cả các nguyên liệu sẽ được khuấy đều tay, đòi hỏi người thợ phải có đôi tay khéo léo để tạo nên một chiếc bánh đẹp với màu sắc và độ sánh hoàn hảo.
Cuối cùng, vừng và lạc được rang vàng lên, tỏa ra mùi thơm đặc trưng, sau đó được rải đều lên mặt đáy của khuôn bánh. Người thợ sẽ trút những nguyên liệu đã chuẩn bị vào khuôn, sau đó ấn chặt bánh xuống để kết dính lại. Khi bánh trong khuôn nguội và kết dính lại, nó sẽ được đem ra ngoài, tạo nên món bánh cáy truyền thống - đặc sản của Thái Bình.
Ngày xưa, bánh cáy còn có chứa trứng của cáy biển, tạo ra cái tên đặc biệt - bánh cáy. Mặc dù sau này nguyên liệu này không còn phổ biến, nhưng cái tên đã trở thành biểu tượng cho bánh cáy Thái Bình. Bánh cáy làng Nguyễn từ lâu đã trở thành thương hiệu nổi tiếng trên khắp cả nước, là biểu tượng cho đặc sản của Thái Bình.
Để thưởng thức hương vị và độ ngon của bánh cáy, người ta phải cắt thành từng miếng nhỏ, kèm với một chén trà nóng mới có thể thưởng thức hết hồn của bánh cáy Thái Bình. Bánh cáy trước kia chỉ được làm vào dịp tết hoặc những dịp lễ, nhưng ngày nay, mọi người có thể thưởng thức nó mọi lúc. Bánh cáy cũng là món quà không thể thiếu của những ai đã tới Thái Bình để gửi tặng cho bạn bè và người thân.
Bánh cáy đã trở thành một phần của văn hóa tinh thần của người dân Thái Bình. Mỗi khi hỏi về món ngon của quê hương, mỗi người con Thái Bình đều tự hào nói về bánh cáy. Không chỉ trong cuộc sống hàng ngày, bánh cáy đã trở thành món đặc sản không thể thiếu của Thái Bình, chứa đựng tinh hoa của văn hóa ẩm thực đặc trưng của vùng đất này.
Bước chân đến Thái Bình, không chỉ ngắm cảnh đẹp mà còn không thể bỏ qua việc thưởng thức bánh cáy truyền thống. Món quà đặc biệt này, một phần của văn hóa ẩm thực, là điều không thể thiếu khi đặt chân đến quê hương Thái Bình.
Thuyết minh về làng gốm Bát Tràng
Nằm trong mảnh đất thủ đô Hà Nội, làng gốm Bát Tràng không chỉ nổi tiếng với danh lam thắng cảnh mà còn là điểm đến của nhiều người yêu thích nghề gốm.
Làng gốm Bát Tràng bao gồm hai thôn Bát Tràng và Giang Cao, thuộc xã Bát Tràng, huyện Gia Lâm. Cách trung tâm Hà Nội khoảng 30km về phía Đông Nam, tên gọi của làng có thể hiểu theo nghĩa Hán Việt. Lịch sử hình thành của làng gốm này khá lâu đời, bắt đầu từ thời nhà Lý.
Làng gốm Bát Tràng có lịch sử hình thành từ thời nhà Lý, khi một số dòng họ từ vùng đất Ninh Bình di cư đến và lập nghiệp. Chính năm dòng họ này đã kết hợp để hình thành nên làng gốm Bát Tràng. Bên cạnh đó, cũng có nhiều câu chuyện khác xoay quanh nguồn gốc của làng gốm này, nhưng không thể phủ nhận sự lâu đời và truyền thống của làng gốm Bát Tràng trong nền văn hóa Việt Nam.
Làng gốm Bát Tràng nổi tiếng với nghề làm gốm truyền thống. Quá trình sản xuất gốm tại đây luôn mang những đặc điểm riêng độc đáo. Điều quan trọng nhất để tạo ra sản phẩm gốm chất lượng là lựa chọn nguyên liệu đất sét trắng. Ngày nay, đất sét trắng có thể lấy từ trong làng hoặc từ các vùng khác như Hồ Lao, Trúc Thôn... Sau khi được lựa chọn, đất sét trắng được xử lý và tạo dáng bằng tay trên bàn xoay. Nhờ đôi bàn tay khéo léo của nghệ nhân, đã tạo ra nhiều sản phẩm gốm đa dạng về hình dáng và chủng loại. Sản phẩm sau đó được phơi sấy và trang trí, sau đó nung trong lò để hoàn thiện.
Ở Bát Tràng, việc phơi sấy thường được thực hiện bằng cách hong khô trên giá và để ở nơi thoáng mát. Tuy nhiên, hiện nay cũng có người sử dụng các lò sấy và tăng nhiệt độ từ từ. Khi đã tạo ra sản phẩm gốm mong muốn, nghệ nhân sẽ trang trí và nung trong lò. Nhờ vào những công đoạn này, những nghệ nhân đã tạo ra những sản phẩm gốm độc đáo.
Làng gốm Bát Tràng, một trong những làng nghề nổi tiếng từ ngàn xưa. Sản phẩm gốm từ đây luôn được người dùng đánh giá cao về chất lượng và đa dạng về mẫu mã. Hiện nay, đồ gốm Bát Tràng không chỉ phổ biến trong nước mà còn được xuất khẩu ra các thị trường quốc tế như châu Âu, Mỹ, Hàn Quốc... Ngoài ra, làng gốm Bát Tràng còn là điểm đến thu hút du khách đến tham quan và trải nghiệm làm gốm.
Làng gốm Bát Tràng - một làng nghề nổi tiếng của Việt Nam, là nơi lưu giữ và phát triển văn hóa truyền thống của dân tộc.
Thuyết minh về làng nước mắm Nam Ô
Trong thế giới hiện đại với nhiều ngành nghề mang lại lợi nhuận cao và yêu cầu ít lao động, nghề làm nước mắm Nam Ô vẫn giữ được sức hút và giá trị riêng. Đối với người Nam Ô, nghề làm mắm không chỉ là cách kiếm sống mà còn là di sản văn hoá và tinh thần quý giá. Năm 2019, nghề làm mắm Nam Ô đã được công nhận là Di sản văn hoá phi vật thể quốc gia.
Nam Ô, một làng chài nhỏ nằm tại cửa sông Cu Đê, dưới chân đèo Hải Vân, đã tồn tại từ đầu thế kỷ 20. Du khách đến thăm Nam Ô không chỉ được chứng kiến quá trình sản xuất nước mắm truyền thống mà còn có cơ hội chọn lựa những sản phẩm đặc biệt để làm quà hoặc sử dụng trong gia đình. Làng nghề nước mắm Nam Ô có niên đại hàng trăm năm và đã nổi tiếng từ thế kỷ 19.
Với chất lượng thơm ngon, nước mắm Nam Ô luôn được ưa chuộng. Để sản xuất nước mắm nguyên chất, người dân địa phương phải cực kỳ cẩn thận trong việc chọn lựa nguyên liệu và chế biến. Mỗi mẻ nước mắm có màu đỏ thẫm và hương vị ngọt ngào. Công đoạn chế biến mắm Nam Ô đòi hỏi sự cầu kỳ và chuẩn bị kỹ lưỡng, từ việc ướp cá, ủ cá trong muối cho đến quá trình lọc và ủ nước mắm.
Bước ủ cá vào muối cực kỳ quan trọng. Cá được ủ trong hũ sành tại những nơi khô ráo và thoáng đãng, với việc ghi chú rõ ràng về ngày tháng ủ cá. Sau đó, nước mắm được lọc bằng phương pháp thủ công, tạo ra một sản phẩm nguyên chất và đậm đà.
Cuối cùng là quá trình ủ nước mắm để tạo ra hương vị thơm ngon, dịu nhẹ hơn. Sau khi lọc, nước mắm được ủ trong các chum sành với vải sạch phủ lại. Nước mắm Nam Ô không chỉ là một trong những thực phẩm truyền thống của Đà Nẵng mà còn là quà biếu đặc biệt mà du khách nên mang về sau chuyến đi của mình.
Nghề làm mắm Nam Ô đã mang lại cho cư dân ở đây một nguồn thu nhập ổn định hơn so với việc làm nông. Mặc dù công việc khá vất vả và phức tạp, không như quá trình ủ công nghiệp, nhưng người dân Nam Ô vẫn tự hào và kiên trì với nghề để bảo tồn những giá trị văn hoá truyền thống của quê hương.
Nghề làm mắm Nam Ô là một phần của nét đẹp văn hoá tại địa phương này. Hiện nay, có rất ít hộ gia đình duy trì nghề cổ truyền này. Hy vọng rằng, với các dự án mở rộng sản xuất và các biện pháp hướng tới thị trường tốt hơn, nghề làm mắm ở đây sẽ tiếp tục phát triển, được bảo tồn và trở thành một địa chỉ tin cậy cho người tiêu dùng khi muốn thưởng thức đặc sản truyền thống.
Thuyết minh về làng nghề làm nước mắm ở tỉnh Bình Thuận
Ai đã từng đặt chân đến Bình Thuận không thể quên hương vị mặn mà, thơm phức của nước mắm Phan Thiết.
Nghề làm nước mắm đã tồn tại từ lâu đời và trở thành một phần không thể thiếu trong văn hoá của Bình Thuận. Nước mắm Bình Thuận không chỉ nổi tiếng trong nước mà còn được biết đến rộng rãi ở nước ngoài với hương vị đặc biệt thơm ngon. Đời sống của ngư dân Bình Thuận phát triển nhờ vào nghề làm nước mắm, một nghề cổ truyền đòi hỏi kinh nghiệm và sự tận tâm. Nguyên liệu chính để làm nước mắm là cá cơm, cá nục nhỏ, tươi ngon, được ủ trong lu khạp và phơi ngoài trời. Có thể nói, cái nắng gió của Bình Thuận đã góp phần tạo nên hương vị đậm đà của nước mắm Phan Thiết, một hương vị nổi tiếng đã tồn tại hàng thế kỷ.
Nước mắm Phan Thiết chủ yếu được làm từ cá cơm. Có nhiều loại cá cơm như cá cơm sọc tiêu, cơm than, cơm đỏ, sọc phấn, phấn chì, cơm lép... nhưng ngon nhất là cá cơm than và sọc tiêu. Cá cơm xuất hiện từ tháng tư đến tháng tám âm lịch, là loại cá nhỏ, con to chỉ bằng ngón tay út hay bằng chiếc đũa nhưng phân rã thành mắm nhanh, nên thời gian thành nước mắm cũng ngắn. Tuy nhiên, nhiều nhà làm nước mắm lâu năm cho biết chất lượng còn phụ thuộc vào thời gian đánh bắt cá, nhất là cá tháng tám, con nào cũng đều béo mập thì nước mắm mới ngon và đạt độ đạm cao nhất. Dụng cụ sản xuất nước mắm rất đơn giản. Người ta dùng 3 loại thùng gỗ: thùng trổ, thùng phơi, thùng chứa. Các loại thùng này có kích thước khác nhau. Thùng nhỏ hơn gọi là thùng ba có sức chứa khoảng 4 tấn cá, thùng lớn hơn gọi là thùng tư có sức chứa từ 5 – 6 tấn cá, đường kính thùng khoảng 2,5m, chiều cao từ 2,5 – 3 m. Thùng muối cá, xuống ngang mặt đáy thùng có một lỗ lù để rút nước mắm.
Trước khi muối cá phải dọn thùng thật sạch, để khô ráo, lấy vỏ ốc, vỏ ken ken hay đá bạc để phía trong lỗ lù, đặt lên trên một chổi dành dành hình quạt, đắp sau là một lớp trấu đựng trong bao tải; sau cùng đắp một lớp muối hạt lên trên. Công việc này gọi là đắp lù. Nước mắm có thể phân loại thành: “nước bổi”, “nước đục” và “nước nhỉ”. Nước bổi là nước muối, rửa cá lúc cá còn tươi. Nước đục là nước bổi đã đi qua lớp cá đã muối, màu nước đục nhưng vị đã ngon. Nước ép, hay nước nhỉ, là nước đục đưa vào thùng mắm cái, đóng lù lại vài ba hôm rồi cho mắm rỉ ra từng giọt, phải mất mươi hôm mới lấy hết nước.
Cá mua về, tùy theo loại cá, có loại muối cá tươi, có loại phải để ươn mới muối cho nước mắm thơm ngon. Tùy loại cá mà cho muối nhiều hay ít, thông thường 3 phần cá, 1 phần muối. Sau khi muối cá, đế ít nhất 3 ngày, mới rút lù, tháo nước. Nước này gọi là nước bổi. Lấy nước bổi ra, người ta trải lên mặt cá một lớp lá dừa, bên trên là một tấm vỉ tre có hai cây đòn buộc lại cùng đáy thùng cho thật chặt. Cá muối bị ép xuống, nước bổi chảy xuống lỗ trổ phía dưới. Khi thùng hứng đầy, người ta lại múc nước bổi đổ lên thùng cá, mỗi ngày ít nhất 2 lần. Chờ cá chín và thấm muối, thời gian này lâu hay mau còn tùy theo loại cá.
Khi cá đã đến kỳ chín, người ta rút lù cho nước mắm chảy ra với một lỗ nhỏ, chỉ bằng chiếc đũa. Hứng dưới là một thùng trổ. Thùng đầy, múc đổ lên lại nhiều lần cho đến khi nước mắm chảy ra trong và “cẩn” (không vẩn đục) là có thể dùng được. Nước này gọi là nước mắm nhất. Một thùng cá 4 tấn cho trung bình 800 - 1.000 lít nước mắm này, sau khi lấy hết nước mắm nhất, lại qua một quá trình kéo nước long (đổ nước bổi vào thùng cá muối) để lấy nước nước mắm trong cá đã muối. Rút nước trong lần đầu gọi là long 1, rồi đổ nước long vào, rút nước long ra, cứ thế kéo đến lần thứ 4 gọi là long tư. Lần này nếu nước bổi không đủ, thì người ta cho một lượng muối đổ vào thùng chứa, pha trộn để chế biến thành một loại nước mắm ăn 110 đạm.
Một thùng cá chượp 4 tấn có thể cho trung bình khoảng 2.500 lít; nếu cho ra loại đạm cao thì lượng nước mắm sẽ ít đi. Mỗi lần rút, độ đạm càng giảm, nên để có sản phẩm có độ đạm đồng nhất bán ra thị trường, người ta phải đấu trộn các loại nước mắm có độ đạm khác nhau. Nước mắm lấy được cho vào thùng chứa để phân chất. Sau đó cho vào tĩn, chai, thùng để tiêu thụ. Thời kỳ vàng son của nước mắm Phan Thiết không phải đóng chai như bây giờ mà được vô trong những cái tĩn hình bánh ú. Thoạt đầu, tĩn có dung tích từ 2,7 - 4 lít. Về sau cánh thợ lò thống nhất nung tĩn có dung tích 3,5 lít.
Theo các cụ già lớn tuổi thì nước mắm vô tĩn hợp vệ sinh, hương vị và màu sắc được giữ nguyên vẹn ở bất kỳ thời tiết nào. Nước mắm vô tĩn để càng lâu lại càng ngon. Nước mắm tĩn được chất lên những chiếc ghe bầu theo cánh thương lái vào Nam ra Bắc với nhiều thương hiệu khác nhau, tạo nên danh tiếng của nước mắm Phan Thiết. Người ta đánh giá chất lượng nước mắm bằng cách ngửi, nếm hay ăn thử. Khác biệt chung nhất, dễ nhận thấy nhất của nước mắm Phan Thiết so với nước mắm Phú Quốc và các vùng khác là màu vàng rơm (nếu nguyên liệu là cá cơm) hay màu nâu nhạt (cá nục), trong sánh, có mùi thơm nồng và vị ngọt đậm do đạm cao. Khác biệt đó của nước mắm Phan Thiết được giải thích vì quá trình ủ chượp dưới trời nắng và gió - nhiệt độ trung bình cao, độ ẩm thấp tác động tích cực đến cơ chế lên men - điều mà khó có địa phương nào được ưu đãi như vùng cực Nam Trung bộ.
Nghề làm nước mắm ở Bình Thuận là một nghề truyền thống, có kỹ thuật riêng đặc biệt mà không phải nơi nào cũng sản xuất được, và đã từ lâu, nước mắm Bình Thuận được sếp loại nhất nhì trong cả nước về chất lượng. Người Việt không thể nào thiếu nước mắm trong bữa ăn hàng ngày. Tại Phan Thiết hiện nay có những khu vực sản xuất nước mắm nổi tiếng như: Thanh Hải, Hàm Tiến, Mũi Né. Ngoài nước mắm, các loại mắm nêm, mắm tôm, mắm ruốc cũng không kém phần thơm ngon, mặn mà của vùng biển Phan Thiết - Bình Thuận. Nước mắm và nghề làm nước mắm gắn bó với người dân Phan Thiết từ những ngày đầu lập địa và đến tận bây giờ nó vẫn là một trong những nghề thủ công lâu đời nhất tại đây. Phổ biến đến độ, bạn có thể dễ dàng bắt gặp những sân mắm, những thùng lều cao nghều trải dài… cảm nhận vị mặn chát của muối, hương đặc trưng của cá, mắm khi vừa bước đến ngưỡng cửa Phan Thiết, đặc biệt là những ngày mùa.
Sau mỗi chuyến ghé thăm Phan Thiết, những chai nước mắm sóng sánh, thơm nức là món quà không thể thiếu mà bạn bè gần xa mang về. Tuy vậy, có một điều mà không phải du khách nào cũng biết đó là sẽ rất thú vị nếu bạn dành ít thời gian để tận mắt chứng kiến những sân mắm trải dài miên man, được quan sát, nghe lý giải về quy trình làm mắm và đương nhiên là nếm “tận gốc” hương vị ngon tuyệt.
Mách nhỏ với bạn là người dân địa phương vô cùng thân thiện và hiếu khách vì vậy ngoài những xưởng sản xuất nước mắm được quy hoạch bài bản như Con cá vàng, Hiệp Thành, Minh Hoa, Yến Nhi… bạn đừng ngần ngại nếu muốn vào thăm sân mắm của các cơ sở sản xuất tư nhân, hay nhà dân.
Thuyết minh làng lụa Hà Đông
'Em trở về Vạn Phúc bên anh
Áo lụa ấm vương trên vai em”.
Khi nhắc đến các làng nghề truyền thống tại Hà Nội, không thể không nhắc đến làng Lụa Vạn Phúc, một trong những trung tâm thủ công mỹ nghệ nổi tiếng không chỉ ở Hà Nội mà còn ở cả Việt Nam. Đây không chỉ là nơi lưu giữ tinh hoa văn hóa dân tộc mà còn là điểm đến du lịch hấp dẫn. Hãy cùng khám phá vẻ đẹp truyền thống của làng nghề này.
Làng lụa Hà Đông, hay Làng Lụa Vạn Phúc, nằm bên bờ sông Nhuệ, thuộc phường Vạn Phúc, quận Hà Đông, cách trung tâm Hà Nội khoảng 10km. Đây là một trong những địa điểm nổi tiếng về làm vải lụa tại Hà Nội.
Nơi này vẫn giữ được nét cổ kính của làng quê xưa, với hình ảnh giếng làng, bên cạnh đó là những cây đa cổ thụ và phiên chợ trước mái đình. Lụa Hà Đông đã trở thành tên tuổi với sự xuất hiện trong thơ ca và các tác phẩm nghệ thuật như “Áo lụa Hà Đông”… Hiện nay, các khung dệt cổ truyền vẫn được bảo tồn song song với các khung dệt hiện đại như một lời nhắc nhở về truyền thống của dân tộc.
Làng nghề Vạn Phúc đã xuất hiện từ khoảng 1200 năm trước, do bà A Lã Thị Nương, một cô gái xinh đẹp và giỏi dệt lụa gốc Cao Bằng, kết hôn và đến làm dâu ở làng Vạn Phúc. Bà đã truyền lại ngón nghề cho cư dân làng và sau khi qua đời, bà được tôn làm Thành Hoàng Làng.
Hiện tại, trong làng Vạn Phúc, có khoảng 800 hộ dân đang làm nghề dệt, chiếm 60% dân số sinh sống tại đây. Mỗi năm, làng sản xuất từ 2.5 đến 3 triệu mét vuông vải, đóng góp tới 63% doanh thu của làng.
Lụa Vạn Phúc không chỉ nổi tiếng trong nước mà còn được xuất khẩu ra nhiều quốc gia trên thế giới. Nó không chỉ góp phần giữ gìn giá trị văn hóa truyền thống mà còn giúp giải quyết việc làm và đóng góp vào ngân sách quốc gia.
Các miếng vải lụa được tạo ra dưới bàn tay của những nghệ nhân tài ba và trải qua nhiều công đoạn như khâu tơ, khâu sợi, khâu dệt, khâu nhuộm... Mỗi quy trình đều phải tuân thủ nghiêm ngặt. Ngày nay, khi đến với làng nghề, bạn có thể yêu cầu nghệ nhân thêu tay bất kỳ hình nào theo ý thích của mình, thể hiện sự sáng tạo độc đáo của làng nghề này.
Qua nhiều thế hệ và bàn tay của các thợ dệt, làng nghề Vạn Phúc đã trải qua nhiều thay đổi. Các miếng vải lụa không chỉ có chất lượng tốt và hình thức đẹp mắt mà còn hoàn mỹ đến từng chi tiết. Hoa văn trên vải không chỉ tinh tế và độc đáo mà còn đối xứng, mềm mại và hài hòa.
Làng nghề Vạn Phúc vẫn giữ nguyên những giá trị truyền thống vượt thời gian. Nó không chỉ là một phần của văn hóa và tâm hồn dân tộc mà còn là cầu nối giữa văn hóa Việt Nam và thế giới.