Bộ sưu tập các bài văn mẫu số 5 lớp 12 được các bạn học sinh biểu diễn rất xuất sắc, hầu hết đã nhận được những giải thưởng quan trọng như các cuộc thi học sinh giỏi cấp tỉnh hoặc quốc gia. Hy vọng đây sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích để các bạn học sinh có thêm nhiều ý tưởng mới cho bài viết của mình. Mời quý thầy cô giáo và các bạn học sinh cùng tham khảo.
Bài mẫu viết lớp 12 bài số 5 - Đề 1
Đề 1: Trong một bức thư luận về văn chương, Nguyễn Văn Siêu đã viết: 'Văn chương [...] có loại đáng kính trọng. Có loại không đáng kính trọng. Loại đáng kính trọng là loại chỉ quan tâm đến văn chương. Loại không đáng kính trọng là loại chỉ quan tâm đến con người'. Hãy phát biểu ý kiến về quan điểm này:
Bài 5 lớp 12 đề 1 - Mẫu 1
Không cần đợi đến thế kỷ XX, từ thế kỷ XIX, Nguyễn Văn Siêu, một danh sĩ thời Nguyễn đã có nhận định về văn chương: “Văn chương có loại đáng thờ và không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chỉ quan tâm đến văn chương. Loại đáng thờ là loại quan tâm đến con người”. Tuy nhiên, như Lê Quý Đôn đã nói: “Văn chương thuộc về công chúng, mỗi người có ý kiến riêng, có thể phê phán nhưng không nên chỉ trích quá mức”. Do đó, quan điểm của Nguyễn Văn Siêu cần được hiểu lại và đánh giá một cách chính xác.
Nguyễn Văn Siêu, một văn sĩ nổi tiếng, là bạn thân của Cao Bá Quát, được đời sau tôn vinh là “Thần Siêu, Thánh Quát”. Quan điểm của ông không phải là dễ hiểu, điều quan trọng là chúng ta cần hiểu rõ ý nghĩa của câu “Văn chương chuyên chú ở văn chương”, “văn chương chuyên chú ở con người” là gì.
'Văn chương chuyên chú ở văn chương' là loại văn chương tập trung vào việc sắp xếp câu từ, chọn lựa từ ngữ, khám phá những bi kịch cổ điển... Tóm lại, đó là loại văn chương thuần túy, không cần quan tâm đến nội dung, tư tưởng, chỉ quan tâm đến hình thức.
'Văn chuyên chú ở con người' là loại văn chương xuất phát từ cuộc sống con người, dành cho con người, làm cho con người hiểu nhau hơn (Đời thừa – Nam Cao). Ở đây, yếu tố hình thức tự nhiên, không cố ý. 'Nước chảy từ suối, máu chảy từ tim người' (Lỗ Tấn).
Vậy ý của họ Nguyễn là: Văn chương có giá trị khi lấy đề tài từ con người và vì con người.
Ban đầu, Nguyễn Văn Siêu nói rằng 'Văn chương có loại đáng thờ và loại không đáng thờ'. Ông rõ ràng phủ nhận loại văn chương không mang lại điều tốt lành cho con người, văn chương như thế là loại 'không đáng thờ' không xứng đáng để đọc, để học hỏi. Văn chương không gì nếu không nói về con người, về nhân sinh? Văn chương cần những người thợ cơ bản mà văn chương chỉ cần những trí óc của những 'kỹ sư tâm hồn'. Văn chương nếu chỉ như những đoá hoa đẹp mà không có hương thơm, thì nó không còn là văn chương nữa. Quan điểm của Nguyễn Văn Siêu tương tự như Cao Bá Quát của cùng thời kỳ:
'Đáng phản đối khi chúng ta phải cải tử mà lặp lại từng câu từng chữ
Đùa giỡn với từng câu, từng chữ
Có khác gì con sâu cần đo lường cả vũ trụ không?'
(Từ Đề thi viện Bùi Công, nhà văn anh ngữ thế kỷ sau)
Không đồng cảm với cuộc sống, văn chương không phát triển từ lòng nhân ái sâu sắc mà vì cuộc sống chỉ là văn chương 'một phần từ trái đất tới trời', chỉ là một con sâu nhỏ bé tự phụ tự mãn, thể hiện những ý kiến tự phong ba, tự đắc, muốn đo lường cả vũ trụ. Những lời văn viết ra bằng sự cần cù mà không có sự mở lòng đón nhận những biến động của cuộc sống, thiếu sự hòa hợp với năng lượng của cuộc sống thì chỉ là nhạt nhẽo, bỗng dưng có vẻ ngoài mới mẻ! Họ Cao gọi đó là 'đồ trẻ con' là sản phẩm của một bộ não thông minh nhưng lòng trống vắng và giả dối. Anh đóng cửa để viết gì? Trong khi văn chương của anh, đó là bầu trời xanh, là nắng ban mai tươi sáng. Anh đóng cửa để tạo ra nghệ thuật, để bắt kịp nghệ thuật khi nghệ thuật của anh nằm ở bên ngoài, trong cuộc sống đầy năng lượng: Anh có biết rằng:
Bài thơ của anh chỉ là một phần nhỏ thôi
Còn một phần còn lại do mùa thu tạo nên
(Chế Lan Viên)
Nếu văn chương chỉ hướng đến chủ nghĩa duy mĩ thì liệu có xứng đáng không? 'Văn chương phải kết nối với cuộc sống' (Ngô Thi Sĩ) và 'Cuộc sống là nguồn cảm hứng cũng như là điểm xuất phát của văn chương' (Tố Hữu). Nếu L.Tônxtôi trở nên vĩ đại nhờ tác phẩm 'Chiến tranh và hoà bình', thì cũng chính là nhờ vào những lần ông tham gia chiến trường để nghiên cứu, ghi chép. Nếu chỉ đóng cửa lại viết trong phòng thì liệu 'Chiến tranh và hoà bình' có ra đời không? Nếu không trải qua những đau đớn, gắn bó với cuộc sống, liệu Nguyễn Du có sáng tác 'Truyện Kiều' không?
Văn chương không thể như vậy, văn chương phải làm cho người ta cảm thấy gần gũi và tôn trọng, chứ không phải là văn chương mà người ta chỉ coi như là một 'món đồ' mà có thể 'kính nể từ xa'. Loại văn chương như vậy tuyệt đối không xứng đáng. Khổng Tử đã dạy học trò rằng 'Từ ngữ cần phải đạt được mục đích, dễ hiểu' điều quan trọng là 'tâm' của người viết, nghĩa là phải sống trong thực tế, trong cuộc sống. Quan điểm của Nguyễn Văn Siêu gần giống như những văn học hiện thực Việt Nam vào giai đoạn 1930-1945, tập trung vào con người làm chủ thể sáng tạo, ngòi bút đẩy mạnh về con người.
Cuộc sống vốn đầy biến động, đau khổ, là 'lương tâm của mọi thời đại' (Balzac). 'Văn phải mang theo đạo lý', phải làm cho con người tốt hơn, hoàn thiện hơn hoặc ít nhất cũng phải thấy mình trong đó thì đó mới là 'văn đáng thờ'.
Bùi Huy Bích, học trò của Lê Quý Đôn đã đưa ra ý kiến rằng: 'Người quân tử thời sau biết chăm chỉ học hỏi để tự cải thiện bản thân, từ đó trở thành người có văn chương mới là người xuất sắc nhất. Những người luyện viết văn sau khi nhận ra ý nghĩa sâu xa trong đó, đạt được hạng thứ hai. Còn những người không có gì ngoài việc biết viết văn thôi, thì chỉ là người hạng dưới'.
Khi nói đến 'Văn chương đáng thờ', Nguyễn Văn Siêu muốn nói về giá trị của văn chương. Văn chương nếu muốn đi sâu vào tâm hồn con người, phải vì con người, vì cuộc sống của con người, là công cụ giúp khai mở trong tâm hồn con người những điều tốt đẹp và triệt tiêu điều xấu xa, có hại. Văn chương phải hướng đến Chân - Thiện - Mĩ, phải làm cho lòng người tràn đầy tình yêu thương, phải mang lại cho con người một cách nhìn mới. Có ai không từng thấy một kẻ say sưa chửi đời, nhưng có ai nhìn thấy một người như anh Chí ao ước một thiên đường lương thiện như Nam Cao chưa? Có ai đã từng nhìn thấy thế giới tâm hồn của A.Q chưa? Và có ai đã nhìn thấy tình yêu cao quý của một 'thằng gù' cực kỳ xấu xí như Quazimôđô dành cho Extiranđa chưa? Đọc về số phận của chàng Quazimôđô hay Chí Phèo, ai mà không cảm thấy động lòng, đầy xúc động... Và ta khẳng định rằng: Vâng, chỉ có những hình ảnh xúc động lòng người mới là văn chương, còn việc chỉ dùng kỹ thuật trang trí câu từ phức tạp, làm cho từ ngữ trở nên rườm rà để người ta coi như một trò giải trí, 'đọc và quên ngay lập tức sau khi đọc' đó chỉ là 'thợ' chạm trổ với những cụm từ, chứ không phải là nhà văn, nhà thơ. Thường người ta truyền miệng về cách mà cụ Nguyễn Công Trứ chỉ trích lối sống hồn hậu. Ông gặp các quan quân trên đường, theo yêu cầu của họ, ông ngồi trên lưng con bò vàng vẫn vẹo đọc
'Sông Nhị Hà sâu ba mươi sáu thước.
Chim ăn chưa no, cá không ăn bay về núi Hồng Sơn.
Nhớ thời vua Thần Nông giá sắt, vua Đế Thuấn canh vấn.
Cùng quăng, cùng vứt, cùng giải phóng, mọi thứ rốt cục chỉ là bò vàng liếm lá'.
Một đoạn văn như vậy, ai cũng cho là ý hay và lạ. Sự sâu sắc của Tồn Chất hay thay đổi.
Quan điểm của Nguyễn Văn Siêu là chính xác nhưng nếu so sánh với quan điểm nghệ thuật của Thạch Lam - một trong những người kế nhiệm của 'Thần Siêu' – thì có thể nhận thấy nhà văn trẻ này có quan điểm toàn diện hơn: 'Đối với tôi, văn chương không chỉ là một cách để đem lại cho người đọc sự giải thoát hoặc quên đi, ngược lại, văn chương là một công cụ của những người đang trong tầm cao và ảnh hưởng, để vừa tố cáo và thay đổi một thế giới giả dối và tàn bạo, vừa làm cho trái tim của người đọc trở nên trong sáng và phong phú hơn'.
Không phải ngẫu nhiên hay vô tình mà cụ Nguyễn Du đã viết:
Thiện căn ở tại lòng ta
Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài
(Truyện Kiều)
Rõ ràng, thi sĩ Tiên Điền không phủ nhận chữ 'tài'. Nhưng nếu coi văn học là một cây cỏ thì chữ 'tài' chỉ là những lá cành, còn chữ 'tâm' mới là gốc, là ngọn. Vậy nếu 'văn chương' chỉ tập trung vào 'chuyên chú ở con người' mà không 'chuyên chú ở văn chương', liệu đó có còn là nghệ thuật nữa không?
Có văn chương nào lại không xoay quanh con người? M.Gorki đã nói: 'Văn học là về nhân loại', điều này cho thấy không thể tách rời văn chương và con người, cũng như không thể tách rời nội dung và hình thức biểu đạt. Cho nên nếu cả nội dung và hình thức đều tốt thì tốt hơn!
Ở trên ta đã thảo luận về việc kết hợp 'văn chương chuyên chú ở văn chương' và 'văn chương chuyên chú ở con người'. Nếu ai đó đưa bạn hai sản phẩm và yêu cầu lựa chọn 'Đây tốt gỗ' và 'Đây tốt nước sơn', bạn sẽ chọn cái nào?
Câu hỏi có vẻ dễ trả lời. Vậy nếu 'văn chương chuyên chú ở con người' có giá trị hơn, nhưng 'văn chương chuyên chú ở văn chương' thì không chắc đã tốt vì người ta thường quên sau khi đọc.
'Tâm' là nguồn gốc để phát triển tài năng. Nhưng nếu thiếu tâm, dù có tài cũng khó tạo ra văn chương có ý nghĩa. Vì tâm hồn con người không chỉ hấp thụ cái đẹp mà còn chứa đựng nhân văn và tình yêu.
Vẫn là 'chất' quyết định. 'Tâm' là yếu tố quan trọng nhất. Lịch sử văn học ghi nhận những người không dự kiến trở thành nghệ sĩ nhưng lại trở thành những người vĩ đại, cũng như những nhà văn không viết nên tác phẩm nào đáng giá mặc dù cố gắng.
Bài viết số 5 lớp 12 đề 1 - Mẫu 2
Từ xa xưa, văn chương đã hiện hữu và tiến triển song song với lịch sử xã hội con người. Trong kho tàng văn học của nhân loại, có bao nhiêu kiệt tác đã vượt qua giới hạn không gian, thời gian để trở nên bất hủ. Tuy nhiên, nhiều thế hệ vẫn suy nghĩ về ý nghĩa và giá trị thực sự của văn chương.
Đầu thế kỷ XX, trên bục văn nghệ nước ta đã diễn ra những cuộc tranh luận sôi nổi về văn chương, đặc biệt là giữa hai trường phái: Nghệ thuật vị nghệ thuật và Nghệ thuật vị nhân sinh. Từ cuối thế kỷ XIX, danh sĩ Nguyễn Văn Siêu đã khẳng định: Văn chương... có loại đáng thờ. Có loại không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chỉ chú tâm vào văn chương. Loại đáng thờ là loại chú tâm vào con người. Quan điểm này gần gũi với quan niệm: Mục đích cao cả của văn học là phục vụ con người, phục vụ nhân sinh.
Loại văn chương chỉ chú trọng vào nghệ thuật, xem nghệ thuật là trên hết, thậm chí tôn sùng nghệ thuật như một tôn giáo kì bí. Người viết chỉ quan tâm đến vẻ đẹp hình thức của tác phẩm mà không quan tâm tới nội dung tư tưởng liên quan đến vận mệnh con người và trách nhiệm xã hội của nhà văn, nhà thơ.
Loại văn chương đó thường ưa chuộng hình thức cổ điển hoặc thiên về vẻ đẹp lộng lẫy của ngôn từ; còn nội dung thì xa rời, không tiếp xúc với hiện thực... Những sáng tác như thế không thể đối phó với thời gian và dư luận. Bài thơ Mùa thu sau đây của Ngô Chỉ Lan thế kỷ XV chủ yếu là hình ảnh tượng trưng, ước lệ mượn từ thơ Đường, thơ Tống:
Gió vàng buồn bã cảnh trời gió,
Lồ tổ gió đầy mây nhạn rời,
Giếng ngọc bước chân về dấu hoa héo,
Rừng phong lá vàng khoe nét mưa.
Nguyễn Gia Thiều, tác giả của Cung oán ngâm khúc đã quá sử dụng điển tích, điển cố trong văn chương, từ sử sách Trung Hoa, khiến nhiều câu thơ trở nên rườm rà, khó hiểu:
Câu cẩm tú đàn anh họ Lý,
Nét văn đan thanh bậc chị chàng vương.
hoặc:
Cầu thệ thủy ngồi trơ cổ độ,
Quản thu phong đứng rũ tà huy.
Cho đến khi phong trào Thơ mới xuất hiện và phát triển, làm chủ thi đàn Việt Nam vào những năm ba mươi, bốn mươi của thế kỉ XX, vẫn có không ít thi sĩ vẫn nắm giữ quan điểm rằng văn chương chỉ là văn chương. Thế Lữ ban đầu khẳng định mình chỉ tôn sùng Cái Đẹp:
Tôi chỉ là một du khách cuồng mộ vẻ đẹp
Phải lòng vẻ đẹp của muôn hình muôn thể
Mượn bút của Ly Tao, tôi vẽ
Và với cây đàn nghìn phím, tôi hát
Vẻ đẹp u buồn, say mê hoặc ngây thơ
Cũng như vẻ đẹp cao quý, hùng vĩ,
Của non nước, của văn chương, tư tưởng...
(Cây đàn với vô vàn điệu)
Trong bài thơ trên, Thế Lữ cho rằng thi nhân, nghệ sĩ là những du khách cuồng mộ Cái Đẹp. Thiên chức duy nhất và cao quý nhất của nghệ sĩ là tìm kiếm Cái Đẹp, phục vụ Cái Đẹp mà không để ý đến những vấn đề thực tiễn của con người và xã hội, không để ý đến trách nhiệm công dân của bản thân họ. Thi sĩ muốn sống trên thiên đường để tránh xa cuộc sống trần tục và coi đó như là biểu hiện của thái độ thoát ly thực tại. Thơ văn ấy tuy đẹp, tuy hay nhưng nó xa lạ với dân tộc đang phải chịu đựng đói khổ, nhục nhã dưới ách nô lệ của thực dân, phong kiến.
Cực đoan hơn nữa, một số nhà thơ, nhà văn theo quan niệm văn chương chỉ nên tập trung vào văn chương đã từ chối nội dung tư tưởng và giá trị nhân sinh trong tác phẩm. Họ cho rằng sáng tác nghệ thuật không nên đề cập đến các vấn đề chính trị, tư tưởng, đạo đức... và chỉ khi có điều đó mới xứng đáng được gọi là văn chương. Hoặc họ khẳng định thơ không cần phải có nội dung, ý nghĩa cụ thể mà thơ là nghệ thuật của âm thanh, hình ảnh; thậm chí chỉ là ảo thuật của ngôn từ mà thôi.
Vào giai đoạn cuối của trào lưu lãng mạn, các trường phái thơ bí ẩn, thơ loạn, thơ điên... là biểu hiện rõ ràng của quan niệm sai lầm trên. Không ít những tác phẩm loại này đã bị dư luận chỉ trích, phê phán.
Văn chương chuyên chú ở con người là loại văn chương quan tâm đầu tiên đến số phận và cuộc sống của con người, luôn hướng tới mục đích phục vụ con người. Các nhà văn, nhà thơ theo quan điểm này cho rằng giá trị của văn chương không chỉ là việc sử dụng từ ngữ hay, hình ảnh đẹp, điển tích cầu kì, nội dung dẫn dắt người đọc xa rời thực tế hoặc có ảo tưởng về cuộc sống trước mắt..., mà là ở chỗ nó có ích cho cuộc đời nhiều hay ít, gần hay xa. Đây chính là quan điểm nghệ thuật vị nhân sinh. Các tác phẩm thuộc trào lưu hiện thực và cách mạng, kể cả một số tác phẩm thuộc trào lưu lãng mạn có nội dung tích cực cũng được viết theo quan điểm đúng đắn này.
Văn chương chân chính phải phục vụ con người, phải phản ánh được đời sống vật chất, tinh thần của con người với những niềm vui, nỗi đau muôn thuở. Nhà thơ Tố Hữu khẳng định: Văn học không chỉ là văn chương mà thực chất là cuộc đời. Văn học sẽ không là gì cả nếu không vì cuộc đời mà có. Cuộc đời là nơi xuất phát, cũng là nơi đi tới của văn học.
Hơn một thế kỷ trước, nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu cũng đã nêu rõ chức năng của văn học và trách nhiệm xã hội của người cầm bút:
Một thuyền với nhiều đạo đức không bị vùi sâu,
Một cây bút sắc bén không bị mờ đi vẻ uy nghi.
Đạo là nhân nghĩa, là yêu nước, thương dân. Văn chương là con thuyền mang theo đạo (đạo lí làm người) và ngòi bút là vũ khí sắc bén để trừ gian, diệt ác, cứu đời, cứu người.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thấu hiểu, phát triển và nâng cao ý nghĩa của quan niệm tích cực đó trong bài cảm tưởng đọc Thiên gia thi:
Nay ở trong thơ cần có bản lĩnh,
Người thơ cũng cần phải biết cùng chiến đấu.
Theo Bác, văn chương phải là vũ khí chiến đấu để cải tổ, xây dựng xã hội và nhà văn là chiến sĩ đứng trong hàng ngũ cách mạng, hiến dâng, hy sinh để bảo vệ chủ quyền độc lập tự do của đất nước, hạnh phúc của nhân dân.
Loại văn chương đáng trân trọng mà danh sĩ Nguyễn Văn Siêu nhắc đến chính là văn chương viết về con người, phục vụ con người. Ý kiến này của ông xuất phát từ thực tế của văn học nước nhà nên hoàn toàn có cơ sở.
Nhưng nếu văn chương chỉ chuyên chú ở con người mà coi thường hình thức nghệ thuật thì liệu tác phẩm có thể thu hút được độc giả, có thể vững bước trước thử thách của thời gian không? Có người cho rằng: Văn học không chỉ cần phải chân thực, sâu sắc, nhân văn mà còn phải hay, phải đẹp. Vậy hai quan điểm này có trái ngược nhau không?
Như đã nói trước đó, con người là trung tâm của cuộc sống và văn chương là tấm gương phản chiếu cuộc sống. Nếu văn chương không nói về con người thì nó sẽ không có giá trị; Hơn nữa, giá trị nghệ thuật và nội dung của văn chương luôn liên kết chặt chẽ. Nội dung quyết định và lựa chọn hình thức thể hiện. Do đó, không có nội dung thì không thể có hình thức. Cuối cùng, chất lượng nghệ thuật của tác phẩm chủ yếu là về cách nó thể hiện nội dung. Văn chương tạo ra Cái Đẹp và Cái Đẹp chính là sự sống. Không có Cái Đẹp thuần túy, trừu tượng nào không liên quan đến cuộc sống đa dạng. Phản ánh con người là cách duy nhất để văn chương thể hiện Chân, Thiện, Mĩ của cuộc đời.
Một tác phẩm có giá trị lâu dài phải vừa hay, vừa đẹp. Nhà văn sáng tạo nên nó phải có tài năng và tâm huyết thực sự. Tâm hồn chính là tấm lòng là tình yêu, tình người của người viết. Tâm hồn mới là gốc rễ bền vững làm nên mọi giá trị thực sự của văn chương chân chính.
Tình yêu và sự kính trọng đối với người nông dân yêu nước đã giúp nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu xây dựng một tượng đài hùng vĩ về người nông dân tốt trong lịch sử văn học Việt Nam. Sự thương xót chân thành trước số phận bi thảm của con người lương thiện; thái độ bất bình, căm phẫn trước xã hội phong kiến thối nát, bất công là cơ sở để thi hào Nguyễn Du viết nên một Truyện Kiều bất hủ. Nhà văn Nam Cao lạnh lùng, tỉnh táo phân tích cội nguồn mọi điều xấu, điều ác đều xuất phát từ giai cấp thống trị đương thời. Đạo đức tối ác của xã hội đã lấy đi quyền sống, quyền trở thành con người và bước lên danh dự, nhân phẩm. Những tác phẩm như Đời thừa, Trăng sáng, Sống mòn, Vợ chồng A Phủ, Vợ nhặt... và đặc biệt là Chí Phèo của Nam Cao là tiếng gọi hãy bảo vệ con người, hãy dừng tay tội ác khỏi làm hại con người.
Trong hàng trăm năm qua, con người vẫn cảm động sâu sắc trước tiếng than xé lòng: Đau đớn cho số phận của phụ nữ trong Truyện Kiều của thi hào Nguyễn Du, vẫn yêu thích cái hay cái đẹp của tác phẩm về con người. Phần tích cực, sáng sủa của Thơ mới cũng được xem là giọng nói trẻ trung, yêu đời, yêu tiếng Việt sâu xa. Thế hệ trẻ sẽ không bao giờ quên thơ của Xuân Diệu, Nguyễn Bính, Huy Cận, Thế Lữ, Lưu Trọng Lư... Những tác phẩm như vậy chính là loại văn chương đáng trân trọng.
Văn chương là nghệ thuật, vì vậy người viết phải chú ý đến tính nghệ thuật của văn chương, danh sĩ Nguyễn Văn Siêu và Cao Bá Quát đã được đánh giá cao là Thần Siêu, thánh Quát. Vì vậy, chắc chắn nghệ thuật văn chương của hai ông phải tài tình, điêu luyện. Nhưng tài nghệ văn chương dù có tài tình, điêu luyện đến đâu thì cũng phải chuyên chú ở con người mới xứng đáng được ca ngợi.
Quan điểm của danh sĩ Nguyễn Văn Siêu là minh chứng cho truyền thống nghệ thuật của dân tộc ta. Với quan điểm chú trọng vào con người, tiên bậc đã tạo nên một văn học sống động, giàu nhân văn. Nền văn học ấy là cơ sở vững chắc cho sự phát triển của văn chương hiện đại.
Bài viết số 5 lớp 12 đề 1 - Mẫu 3
Mục đích và ý nghĩa của việc sáng tác văn chương là gì? Giá trị thực sự của văn chương nằm ở đâu? Những câu hỏi này luôn đặt ra cho người viết văn từ xưa đến nay.
Trong những năm ba mươi của thế kỉ XX, văn học nước ta đã chứng kiến một cuộc tranh luận sôi nổi về vấn đề: 'nghệ thuật vị nghệ thuật' hay 'nghệ thuật vị nhân sinh'? Đây là vấn đề quan trọng đã được các danh sĩ từ xa xưa đã suy ngẫm và đưa ra quan điểm. Nguyễn Văn Siêu đã nói rõ quan điểm của mình: 'Văn chương đáng thờ là văn chương chuyên chú ở con người.'
Văn chương 'chỉ chuyên chú ở văn chương' là loại văn chương chỉ biết tập trung vào bề ngoài, chỉ coi trọng hình thức mà quên đi nội dung, không quan tâm đến cuộc sống và trách nhiệm xã hội.
Biểu hiện của xu hướng này thường đa dạng, có thể nhẹ nhàng hoặc nặng nề, tuân thủ mức độ tự do khác nhau, tùy thuộc vào thời đại và trào lưu văn học cụ thể.
Đối với những văn nhân, thi nhân thời xưa, 'chuyên chú ở văn chương' thường chỉ việc tìm kiếm vẻ đẹp ngôn ngữ, sắp xếp từ ngữ một cách tỉ mỉ, hoàn thiện âm điệu của văn bản. Hồ Chí Minh từng phê bình loại thơ 'xưa' tập trung vào thiên nhiên mà ít chú trọng đến cuộc sống, vận mệnh con người.
Quan điểm 'nghệ thuật vì nghệ thuật' của văn học lãng mạn Việt Nam trước 1945 thể hiện sự tự giác của loại văn chương 'chỉ chuyên chú ở văn chương'. Các nghệ sĩ lãng mạn tuyên bố 'văn chương là văn chương' tức là không liên quan đến cuộc sống, xã hội, chỉ đơn thuần là tìm kiếm và thể hiện cái đẹp.
Dù nói tính cách của tôi đã thay đổi
Không cần chuyên tâm, không cần chủ nghĩa, tôi cần gì?
Tôi chỉ là một kẻ tình si
Mê mải với vẻ đẹp có muôn hình muôn vẻ.
(Li tao – Thế Lữ)
Đoạn thơ đã định nghĩa một người nghệ sĩ là kẻ tình si, mê mải với cái đẹp, chỉ có một trách nhiệm: tìm kiếm cái đẹp và phục vụ nghệ thuật, không quan tâm đến trách nhiệm xã hội. Tuy nhiên, các nhà văn lãng mạn không chỉ tập trung vào việc tìm kiếm cái đẹp mà còn quan tâm đến niềm vui, nỗi buồn của con người, điều này tạo ra các yếu tố tích cực trong văn học lãng mạn 1930 - 1945.
Thái độ 'chuyên chú ở văn chương' không chỉ dừng lại ở đó. Nó còn tiến xa hơn, trở thành chủ nghĩa duy mĩ, chủ nghĩa hình thức. Đây là loại văn chương coi trọng hình thức hơn tất cả, hoàn toàn bỏ qua nội dung. Chẳng hạn, nó coi thơ không cần phải mang tính đạo đức, chính trị, xã hội; chỉ cần tạo ra hình ảnh mà không cần nói về bất cứ điều gì. Thứ thơ này trở thành bí ẩn, không ai hiểu được.
Loại văn chương 'chuyên chú ở con người' là loại văn chương quan tâm đến con người, hướng tới cuộc sống và lợi ích của con người, xem giá trị chính của văn chương không chỉ là về từ ngữ hay hình thức mà còn là sự hữu ích cho cuộc sống. Đây là quan điểm 'nghệ thuật vị nhân sinh', như đã được Gorki và Tố Hữu đề cập.
Quan niệm về văn chương 'chuyên chú ở con người' có những biểu hiện đa dạng. Khi Nguyễn Đình Chiểu viết về 'chở đạo và đâm gian', ông nói về trách nhiệm xã hội của văn chương trong việc chống lại tà ác và bảo vệ nhân sinh.
Các nhà văn cách mạng khẳng định rằng văn chương phải là vũ khí chiến đấu để cải thiện xã hội, và nghệ sĩ phải là chiến sĩ trong hàng ngũ cách mạng. Đây là biểu hiện cao nhất của quan điểm văn chương 'chuyên chú ở con người'.
Theo quan điểm của Nguyễn Văn Siêu, loại văn chương 'đáng thờ' là loại 'chuyên chú ở con người' thay vì 'chuyên chú ở văn chương'. Ông muốn nói về giá trị cao quý của văn chương, nhấn mạnh rằng chỉ có loại văn chương 'chuyên chú ở con người' mới thực sự đáng kính. Điều này được chứng minh không chỉ trong lý thuyết mà còn trong thực tiễn văn học.
Để giải đáp câu hỏi này, chỉ cần nhớ mệnh đề nổi tiếng của Gorki: 'Văn học là nhân học'. Con người là trung tâm của văn học, không phải những thứ bên ngoài văn học.
Trong văn chương nghệ thuật, hình thức luôn kết hợp với nội dung. Chất lượng nghệ thuật của một tác phẩm văn chương chủ yếu phản ánh cách nó thể hiện nội dung một cách nghệ thuật. Cái đẹp thực sự không hoàn toàn trừu tượng, mà phản ánh cuộc sống đa dạng của con người.
'Chuyên chú ở con người' không có nghĩa là bỏ qua cái đẹp hoặc đi lệch hướng khỏi văn chương. Một tác phẩm văn học giá trị phải là một tác phẩm nghệ thuật xuất sắc, nhưng tâm hồn của người viết mới là nguồn gốc của giá trị nghệ thuật đó.
'Chuyên chú ở văn chương' không đảm bảo tác phẩm sẽ hay, trong khi 'chuyên chú ở con người' thường tạo ra những tác phẩm đáng kính. Tâm huyết của người viết là yếu tố quan trọng nhất làm nên sức hút của tác phẩm văn chương.
Trong lịch sử văn học, đã có những nhà văn lớn tuyên bố những điều phủ nhận văn chương, nhưng vẫn để lại những tác phẩm bất hủ; và cũng có những cây bút tôn trọng văn chương hơn hết nhưng không tạo ra những tác phẩm có giá trị. Hồ Chí Minh từng thấu hiểu câu thơ cổ 'Lập thân tối hạ thị văn chương', nhưng Người vẫn trở thành một nhà văn lớn.
Những nhà văn lớn đó không coi thường văn chương, mà họ đơn giản là cảm thấy nỗi đau của con người quá to lớn và sâu sắc, và họ thất vọng khi thấy văn chương không thể trực tiếp giúp đỡ thay đổi số phận của họ.
Quan điểm của Nguyễn Văn Siêu về hai loại văn chương “đáng thờ” và “không đáng thờ” rất tiêu biểu cho quan điểm về nghệ thuật đẹp đẽ, trở thành truyền thống từ cha ông. Với quan điểm văn chương “chuyên chú ở con người”, họ đã tạo ra một nền văn học sống động và thấm đượm tinh thần nhân văn, được kế thừa và phát triển trong thời đại mới.
Bài văn mẫu lớp 12 bài viết số 5 - Đề 2
Đề 2: Buy-phông, một nhà văn Pháp nổi tiếng, đã viết: 'Phong cách chính là con người'. Anh (chị) hiểu ý kiến trên như thế nào?
Tóm tắt ý chính của Bài viết số 5 lớp 12 đề 2
I. Giới thiệu:
- Phong cách không chỉ là đặc điểm riêng và sáng tạo của mỗi nhà văn trong văn học mà còn là cách họ đóng góp vào sự phong phú của văn chương.
- Phong cách văn học thường được thể hiện qua cả nội dung và kỹ thuật sáng tác.
II. Nội dung chính:
- Trong văn chương, không chỉ cần những người thợ khéo tay sao chép theo mẫu mực...
+ Đối với nhà văn Nam Cao, văn chương chỉ chào đón những ai có khả năng đào sâu suy nghĩ, mở ra những nguồn cảm hứng mới và sáng tạo những điều chưa từng có. Mỗi tác giả cần mang đến văn học một phong cách riêng, để lại dấu ấn độc đáo của bản thân.
+ Buy-phông, một nhà văn Pháp, cho rằng “Phong cách chính là người”.
- Phong cách văn học bao gồm cả phương diện nội dung và kỹ thuật sáng tác:
+ Theo Buy-phông, “Phong cách” là biểu hiện của đặc trưng riêng của mỗi nhà văn trong văn chương. Đó là những ý tưởng mới mẻ chưa từng được khám phá, nhưng tác giả đã tìm thấy và biến chúng thành hiện thực trong tác phẩm của mình.
+ Phải hiểu rằng, phong cách của mỗi nhà văn thường được thể hiện qua cả hai khía cạnh: nội dung và nghệ thuật. Trên phương diện nội dung, phong cách của nhà văn thường được thể hiện rõ trong cách nhìn nhận về cuộc sống con người, sự chọn lựa đề tài, cách xây dựng chủ đề và cách diễn đạt vấn đề về cuộc sống con người...
- Sự độc đáo trong nội dung thường được thể hiện qua cách nhìn nhận về cuộc sống và con người thông qua việc chọn đề tài, xác định chủ đề và cách giải thích các vấn đề về cuộc sống và con người...
Phong cách của mỗi nhà văn thường được thể hiện rõ ràng qua từng câu chữ. Mỗi tác giả mang đến văn học một phong cách riêng, tạo ra một liên kết sâu sắc giữa tác giả và người đọc.
- Sự độc đáo về mặt nghệ thuật thường được thể hiện qua cách thức diễn đạt, việc sử dụng các kỹ thuật nghệ thuật, cách tổ chức cấu trúc và việc sử dụng ngôn ngữ...
- Một điều thú vị khi đọc văn học là phát hiện những đặc điểm độc đáo trong phong cách của từng nhà văn.
III. Kết luận:
- Buy-phông nhấn mạnh về việc mỗi nhà văn cần phải có một phong cách riêng biệt, làm sao để độc giả có thể nhận biết được tác phẩm của họ chỉ với một cái nhìn. Tương tự, mỗi độc giả cũng cần phải là một người đọc thông minh, sẵn lòng khám phá và nhận thức được nét độc đáo trong phong cách của từng nhà văn.
Bài viết mẫu số 1 đề 2 lớp 12
L. Tolstoy đã từng nói: “Khi một tác giả mới bước vào giới văn học, điều đầu tiên tôi sẽ hỏi anh ta là anh ta sẽ mang lại điều gì mới cho văn học”. Quy luật lọc lõi của văn chương thường rất khắc nghiệt. Bởi vì “văn chương không cần đến những người thợ giỏi chỉ làm theo một vài mẫu đưa cho. Văn chương chỉ đánh giá cao những ai biết đào sâu suy nghĩ, khơi dậy những nguồn chưa từng được khơi và sáng tạo những điều chưa từng tồn tại”. Cũng như nhấn mạnh vai trò của phong cách đối với người nghệ sĩ, Buy-phông từng nói: “Phong cách chính là con người”.
Phong cách là bản sắc riêng, độc đáo của mỗi tác giả trong cách hiểu và tái hiện cuộc sống, được thể hiện qua các yếu tố nội dung và kỹ thuật nghệ thuật cụ thể. Theo quan điểm của Buy-phông, thông qua phong cách, chúng ta có thể nhận biết được những đặc điểm của người nghệ sĩ, cả tư duy và thế giới cảm xúc của họ.
“Phong cách chính là bản thể của người” vì phong cách thể hiện cách nhìn nhận cuộc sống của nghệ sĩ. Hoài Thanh từng nói: “Nhà văn không có sức mạnh siêu nhiên để vượt ra khỏi thế giới này nhưng thế giới trong tâm trí nhà văn phải có một hình dạng riêng”. Vì sáng tạo là bản chất của văn học, anh ta không thể nhìn thấy người khác ăn khoai mà đi săn. Sao chép quan điểm, cách nhìn, nghệ sĩ sẽ biến tác phẩm của mình thành hàng loạt sản phẩm, biến văn học thành trang trại hàng loạt. Dù viết về cùng một chủ đề, Nam Cao và Kim Lân đều có cách tiếp cận khác nhau vì “cuộc thám hiểm thực sự không nằm ở vùng đất mới mà ở đôi mắt mới”. Nam Cao coi cái đói như một thử thách về phẩm giá, nhân cách con người. Trong khi đó, Kim Lân từ cái đói thấy hạt mầm của sự sống, khao khát sống đang bừng tỉnh ở những người nông dân nghèo khổ. Từ đó, Nam Cao tỏ ra sắc sảo, lạnh lùng bề ngoài nhưng ấm áp bên trong, Kim Lân lại thể hiện một tấm lòng nhân hậu, “một tâm hồn thuần khiết, với đất và với con người, với bản năng nguyên thủy của làng quê Việt Nam”.
Phong cách cũng thể hiện nhu cầu sáng tạo nghệ thuật, khẳng định bản sắc, đồng thời khám phá điều mới của nhà văn để tạo ra sự hấp dẫn và sức sống cho tác phẩm. Người nghệ sĩ không thể chỉ đi theo con đường quen thuộc, bước vào vết đường đã được người khác đi qua. Trong khu rừng có rất nhiều con đường, họ phải tìm “con đường chưa có dấu chân người”. “Văn học sẽ không ai giống ai và không ai muốn giống ai cả”. Nếu không có sự khám phá, đổi mới, liệu mai này hậu thế sẽ nhớ đến họ, hay bụi thời gian đã xóa tên tuổi của họ khỏi tượng đài văn học. Không chỉ vì động lực từ bên trong, việc khám phá, đổi mới còn là cách để chứng tỏ họ luôn bám sát với dòng chảy của thời đại, không bị bỏ lại phía sau của cuộc sống. Sau năm 1975, văn học đã bắt đầu bước vào giai đoạn biến đổi mạnh mẽ. Sự xuất hiện của sử thi, lãng mạn hóa với những anh hùng được lý tưởng hóa không còn phù hợp với cuộc sống hậu chiến phức tạp và đầy rẫy thách thức. Trước sự thay đổi đó, Nguyễn Minh Châu đã trở thành “người dẫn dắt sáng tạo và tài năng” của văn học Việt Nam. Vẫn là sự can đảm nhưng điềm tĩnh trong tư duy, cách viết, ông từng bước thay đổi đề tài cũng như phong cách sáng tác. Những biểu tượng có nhiều ý nghĩa trong tác phẩm của ông là minh chứng cho một Nguyễn Minh Châu suy tư và giàu triết lí. Chiếc thuyền xa xăm không chỉ là biểu tượng của vẻ đẹp thiên nhiên lãng mạn, mà còn là những bài học, sự thật về cuộc sống đầy chông gai, đắng cay. Chiếc thuyền xa xăm vì thế là một lời mời gọi người nghệ sĩ hãy dấn thân vào hiện thực sâu thẳm để khám phá cuộc sống đa dạng, phong phú.
“Qua giọng hát ta biết đến người hát
Qua nét khắc ta nhận ra người thợ bạc”
Và qua phong cách, ta nhận ra người nghệ sĩ. Đúng như M. Proust đã nói: “Thế giới không chỉ được tạo lập một lần mà mỗi khi một nghệ sĩ độc đáo xuất hiện là một lần thế giới lại được tạo lập một lần”.
Bài viết mẫu số 2 đề 2 lớp 12
Có một nghệ sĩ đã từng nói: “Làm thơ mà không có giọng riêng, chả khác này nhảy xuống dòng sông cuồn cuộn chảy mà không biết bơi”. Phong cách của người nghệ sĩ là vô cùng quan trọng. Buy-phông, nhà văn Pháp nổi tiếng Buy-phông, nhà văn Pháp nổi tiếng, có viết: 'Phong cách chính là người'. Phong cách của một nghệ sĩ sẽ thể hiện hết thảy con người anh ta và là dấu ấn để độc giả nhận ra sự hiện diện của nghệ sĩ.
Phong cách nghệ thuật của một nhà văn là tài năng của người nghệ sĩ ngôn từ trong việc mang đến cho người đọc một cái nhìn mới mẻ, chưa từng có về cuộc sống và con người thông qua những hình tượng nghệ thuật độc đáo và phương thức, phương tiện đặc thù, in đậm dấu ấn cá nhân của chủ thể sáng tạo. Cái nhìn và phương thức độc đáo phải được lập đi lập lại, ổn định trong phong cách nghệ thuật qua các tác phẩm. Phong cách nghệ thuật có thể được biểu hiện qua 3 cái nhìn, cách cảm thụ đầy tính khám phá, qua giọng điệu, cách lựa chọn, xử lý đề tài, xây dựng chủ đề, xây dựng đối tượng miêu tả.
Hoài Thanh từng nói 'Thích một bài thơ là thích một cách nhìn, một con người'. Bởi khi làm thơ, người nghệ sĩ gửi gắm tâm tư nguyện vọng của mình trong từng câu thơ, cũng chính là gửi gắm tâm hồn mình vào bài thơ. Thơ ca là công cụ để bộc lộ một con người. Phong cách nghệ thuật mà người nghệ sĩ bộc lộ trong tác phẩm của mình không đâu khác chính là tâm hồn mình, là con người mình. Khi ta đọc một tác phẩm văn học tức là gặp gỡ một tâm hồn người. Khi ta nhận ra một phong cách, tao đang nhận ra một con người. Phong cách chính là người.
Đó là lý giải cho việc tại sao người dễ dàng nhận ra Xuân Quỳnh thông qua “Sóng” và dễ dàng nhận ra Nguyễn Tuân thông qua người lái đò sông Đà. Đọc “Sóng”, người đọc thấy ở đó toát lên sự nữ tính, sự khát khao hạnh phúc đời thường, một vẻ đẹp truyền thống kết hợp với hiện đại. Đó là phong cách thơ Xuân Quỳnh. Đọc những đoạn văn dữ dội sóng nước Đà giang trong “Người lái đò sông Đà”, người đọc cũng nhận ra cái tài hoa uyên bác trong văn Nguyễn Tuân với một đôi mắt luôn kiếm tìm những vẻ đẹp hùng vĩ, dữ dội và bậc nhất. Điều này hoàn toàn dễ phân biệt với sự tài hoa lịch lãm, trữ tình đằm thắm trong văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường thể hiện qua “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”.
Vậy nên mới nói, điều quan trọng đối với nhà văn là giọng nói của riêng mình. Phong cách chính là yếu tố đầu tiên và duy nhất để độc giả nhớ đến nghệ sĩ, là thứ mà người nghệ sĩ ghi dấu trong lòng độc giả. Phong cách cũng chính là hóa thân của tâm hồn nhà văn, là bộc lộ một phần con người của người nghệ sĩ. Có thể nói tất cả phong cách của người nghệ sĩ đều xuất phát từ chính con người nghệ sĩ. Một Xuân Diệu với tình yêu mãnh liệt luôn thường trực, với khát khao cháy bỏng về tuổi trẻ và tình yêu mới có được những câu thơ: “Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi”. Một Quang Dũng lãng mạn hào hoa mới viết được những câu thơ: “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm” ngay bên cạnh những câu thơ của khói bom, bệnh tật. Phong cách chính là con người của nghệ sĩ. Nghệ sĩ có tâm hồn ra sao, trên trang văn, trang thơ đều biểu hiện như vậy.
Văn cũng giống như con người. Vì vậy, phong cách trong văn chương là điều vô cùng quan trọng. “Khi một nhà văn mới xuất hiện, điều cần hỏi anh ta là anh ta đã mang lại điều gì mới mẻ cho cuộc sống”. (Macxen Prut). Từ đây, bài học rút ra cho nhà sáng tạo đó là cần đưa phong cách riêng của mình vào tác phẩm. Và người đọc khi thưởng thức một tác phẩm văn học cũng cần chú ý đến phong cách thể hiện qua tác phẩm đó.
“Phong cách chính là người”. Trở thành người cần có phong cách, trở thành nghệ sĩ càng cần phải có phong cách. Nếu không có phong cách, nghệ sĩ chỉ như đom đóm sáng lên rồi lại vụt tắt.
Bài viết số 5 lớp 12 đề 2 - Mẫu 3
Con người sinh ra không ai giống nhau, mỗi người đều có những khác biệt tạo nên cá tính riêng. Điều này thường được gọi là phong cách. Như nhà văn Pháp nổi tiếng Buy-phông đã viết: 'phong cách chính là người'
Chính xác! Phong cách là bản thân con người, phản ánh chính con người đó. Vậy phong cách là gì? Theo nghĩa hẹp, phong cách là cách thức riêng của một tác giả, một nghệ sĩ thể hiện trong việc sáng tạo một tác phẩm, công trình văn hóa, nghệ thuật. Đó là những biểu hiện mang tính chất hệ thống về tư duy nghệ thuật, các đặc điểm thẩm mỹ, ổn định về nội dung và hình thức thể hiện tạo nên giá trị độc đáo của tác giả. Theo nghĩa rộng, phong cách là phong thái, phong độ và phẩm cách đã trở thành thói quen ổn định của một người hoặc một nhóm người được thể hiện trong tất cả các hoạt động sống của họ, tạo nên những giá trị riêng, đặc trưng của họ. Phong cách được hiểu như một nguyên tắc điều chỉnh hành vi con người và trở thành thói quen ổn định trong suy nghĩ, diễn đạt và hành động thực tế. Đối với mỗi người, phong cách của họ gần với đặc điểm truyền thống, thói quen, hoàn cảnh sống quy định, đồng thời mang dấu ấn cá nhân rất rõ. Mỗi người, từ khi còn nhỏ, đã có phong cách của riêng mình. Mọi phong cách đều tự tin với bản thân của mình.
Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta thường nghe nói về phong cách, từ phong cách thời trang, phong cách sống, đến phong cách nghệ thuật,... Khi nói về trang phục, chúng ta thường nghe đến việc đánh giá phong cách ăn mặc của một người, như phong cách baby doll, phong cách bánh bèo,... Từ những nhận xét đó, ta có thể nhận thấy mỗi người hoặc mỗi nhóm người đều chọn cho mình một phong cách ăn mặc riêng mà họ yêu thích. Có người chọn phong cách gợi cảm, có người lại thích phong cách dễ thương, giản dị... Không chỉ trong trang phục hàng ngày, ta còn thường gặp phong cách của các ca sĩ. Phong cách của họ thường được thể hiện qua âm nhạc của họ. Người hát nhạc ballad trữ tình sẽ khác với người hát nhạc rock hay nhạc cách mạng... Mỗi ca sĩ có gu ăn mặc và dòng nhạc riêng của họ. Chính những điều đó tạo nên phong cách riêng của mỗi ca sĩ.
Trong văn học cũng vậy, phong cách của nhà văn được thể hiện qua cả hai phương diện: nội dung và nghệ thuật. Trong nội dung, phong cách của nhà văn thường được thể hiện qua quan điểm về cuộc sống con người, việc chọn đề tài, xây dựng chủ đề, cách giải thích vấn đề về cuộc sống con người... Điều này rất rõ ở nhiều nhà văn như Nguyễn Tuân, Nam Cao, Hồ Chí Minh... Nguyễn Tuân thường nhìn mọi sự vật, sự việc dưới góc độ của sự tài hoa. Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, nhà văn tìm thấy sự tài hoa của những người Nho hết thời trong những thú chơi tao nhã của họ: thả thơ, uống trà, ngâm vịnh... Sau Cách mạng, nhà văn lại say mê với sự tài hoa của những con người Việt Nam trong lao động, sản xuất... Nam Cao có cách khác. Trước Cách mạng, ông tập trung vào đề tài về những người nông dân Việt Nam nô lệ bị tha hóa về tinh thần, nhân phẩm hoặc những nhà trí thức Việt Nam quằn quại trong nỗi đau vì bị “áo cơm ghì sát đất”... Về mặt nghệ thuật, phong cách của nhà văn được thể hiện đa dạng ở nhiều phương diện: phương thức biểu hiện, lựa chọn thủ pháp nghệ thuật, cách tổ chức kết cấu, ngôn ngữ... Điều này rất dễ nhận biết đặc biệt ở những tác giả lớn. Nhà thơ Tố Hữu thường chọn thể thơ lục bát, giọng điệu tâm tình ngọt ngào để thể hiện tình cảm của nhân vật trữ tình. Nhà văn Nam Cao rất giỏi trong việc thay đổi trình tự câu chuyện hiện đại hay kết nối đoạn văn một cách tài tình... Mỗi nhà văn đều có ý tưởng riêng về cách thể hiện tác phẩm của mình. Và với độc giả, khi đọc một truyện ngắn, thưởng thức một bài thơ... không gì thú vị hơn là phát hiện ra những đặc điểm về phong cách của các tác giả. Những nhà văn, nhà thơ có tài năng thực sự mới có thể xây dựng phong cách riêng của mình. Và giữa phong cách của mỗi tác giả lại có mối liên kết chặt chẽ với cá tính của họ. Trong văn học, phong cách được thể hiện sinh động như một thực thể thể hiện quan điểm cá nhân về văn học. Trong truyện ngắn của mình, Nam Cao luôn thể hiện sự khách quan, hời hợt đối với nhân vật. Ông gọi họ là “y”, là “thị”, mô tả họ với hình ảnh xấu xa, thậm chí là ghê rợn (đặc biệt là những người nông dân). Nhưng sau những đoạn văn tưởng như lạnh lùng, khinh thường đó là tấm lòng đồng cảm, tình thương đầy đau đớn của một tấm lòng đồng ái, đồng chủng. Ngoài đời, con người Nam Cao cũng giống như giọng điệu văn chương của ông trong truyện ngắn. Khi nhắc đến Nam Cao, bạn đọc văn sẽ nhớ đến một hình ảnh trầm lặng, ít lời, nhưng thực sự, sau vẻ ngoài trầm lặng, im lặng ấy là một tinh thần mạnh mẽ, quyết liệt. Chỉ có những tính cách mạnh mẽ mới có thể nói ra điều này: “Sống đã rồi hãy viết”! Phong cách của nhà văn được thể hiện rõ ràng từng trang viết. Đến lượt mình, phong cách văn học của mỗi tác giả lại in sâu vào lòng người đọc tạo nên mối liên kết sâu sắc giữa những nhà văn, nhà thơ và những độc giả chân thành.
Tất cả những phong cách trong các lĩnh vực, khía cạnh của cuộc sống con người đều cho thấy một điều, đó là phong cách chính là con người. Phong cách phản ánh con người, tạo ra sự đa dạng, sự khác biệt giữa con người, tạo nên sự phong phú của cuộc sống. Điều này một lần nữa khẳng định quan điểm của nhà văn Pháp Buy - phông là chính xác và có ý nghĩa.
Bài viết số 5 lớp 12 đề 2 - Mẫu 4
Mỗi khi một con người bước chân vào thế giới này, họ giống như một tờ giấy trắng tinh khôi, sáng bóng, dù không phải ai cũng có cơ hội bắt đầu từ điểm xuất phát công bằng, vì xã hội luôn tồn tại sự phân biệt. Tuy nhiên, trong quá trình trưởng thành và tiến vào thế giới đa dạng này, tôi tin rằng mỗi người đều tự nhận biết và xác định cho mình một phong cách riêng, sử dụng bút mực và cây bút của bản thân để biến mình thành một phần khác biệt và có vị trí đặc biệt trong cuộc sống. Vì không ai muốn sống nhạt nhẽo, mỗi người đều mang trong mình một cá nhân tự do và khao khát được tỏa sáng. Trong thuyết phong cách của nhà văn nổi tiếng người Pháp, Buy-phông, đã đưa ra một định nghĩa trừu tượng nhưng rõ ràng về nhân loại: “Phong cách chính là bản thân con người”.
Như vậy, phong cách là gì? Một định nghĩa phổ quát cho rằng phong cách là sự kết hợp của những đặc điểm cá nhân trong cách sống, làm việc, và giao tiếp, tạo nên bản ngã của một cá nhân hoặc một nhóm nhất định, có sự khác biệt so với những người khác. Khi làm việc hoặc sống, mọi người có nhiều khái niệm phong cách khác nhau, ví dụ như phong cách ăn mặc, phong cách trang điểm, phong cách sống,... Đôi khi, người ta thường thay vì sử dụng thuật ngữ “phong cách” mà thay vào đó là “lối”, như lối sống, lối ăn mặc, lối trang điểm, lối nói,... Trong lĩnh vực văn học và nghệ thuật, người nghệ sĩ thường được nhận biết thông qua các tác phẩm với phong cách nghệ thuật, ngôn ngữ, sáng tác, biểu đạt,... Tóm lại, trong mọi lĩnh vực, phong cách đều có thể xuất hiện và dường như chính phong cách đã tạo nên cuộc sống, làm cho cuộc sống trở nên đa dạng và phong phú. Vì vậy, câu nói của Buy-phông “Phong cách chính là người” là một quan điểm đúng, mỗi người sẽ có nhiều phong cách trong các lĩnh vực khác nhau, kết hợp với nhau tạo thành cá nhân của họ, và ngược lại chính phong cách đã góp phần xây dựng mỗi cá thể hoàn chỉnh trong xã hội. Mỗi người đều có phong cách riêng, quan trọng là họ có nhận ra và nhận thức được điều đó hay không.
Đầu tiên, hãy thảo luận về phong cách của những người thông thường trong xã hội, liệu chúng ta có cần phải xây dựng một phong cách cho bản thân hay không? Bởi đôi khi tôi nghe thấy một số ý kiến rằng phong cách là điều quá xa xỉ, người bình thường chỉ cần sống một cách bình thường, không cần phải theo đuổi các phong cách này kia, lúc nào cũng màu mè và lố bịch. Tuy nhiên, quan điểm đó là hoàn toàn sai lầm, sai lầm ở điểm chính là hầu hết chúng ta vẫn chưa hiểu rõ về ý nghĩa của phong cách, chúng ta thường hiểu lầm rằng phong cách chỉ dành cho những người nổi tiếng, người làm nghệ thuật với những từ ngữ như “phong cách sexy”, “phong cách thiếu nữ”, “phong cách thời trang”,... hoặc trong giới văn chương, học sinh thường quen thuộc nhất với thuật ngữ “phong cách nghệ thuật”. Điều này dần dần khiến chúng ta trở nên xa lạ với việc xác định bản thân thông qua việc phát triển phong cách, và thường dẫn đến những hành động không thật sự tự tin và hài hước. Mỗi người cần nhận ra rằng, phong cách cá nhân là rất quan trọng, nó làm cho chúng ta trở nên quyến rũ và thu hút. Và quan trọng nhất, cuộc sống thiếu phong cách sẽ làm cho chúng ta trở nên chán nản và thiếu sự hứng thú. Bởi vì, có một phong cách riêng cho bạn là cách để thỏa mãn cái tôi của bạn một cách thầm lặng, khiến bạn cảm thấy hài lòng với bản thân vì ít nhất là bạn đã khẳng định được mình theo một hướng nào đó.
Tôi sẽ minh chứng cho bạn thấy sự quan trọng của phong cách trong một số lĩnh vực, trong đó văn chương có lẽ là điển hình nhất. Tác phẩm văn chương thường được coi là kho tàng tâm huyết của các nghệ sĩ, với hai yếu tố chính là nội dung và nghệ thuật. Mặc dù có nhiều tác giả viết về cùng một chủ đề, một lĩnh vực, nhưng mỗi người vẫn để lại ấn tượng riêng trong lòng độc giả nhờ vào phong cách sáng tạo và cách nhìn nhận độc đáo mà họ đã phát triển trong quá trình viết. Ví dụ, Thạch Lam không cần cốt truyện trong việc viết truyện, nhưng mỗi tác phẩm của ông luôn mang một vẻ lãng mạn, man mác buồn và đặc biệt là sự chú ý đến những chi tiết nhỏ nhặt, tầm thường nhưng ẩn chứa những ý nghĩa lớn. Nguyễn Công Hoan viết về những số phận khốn khổ dưới chế độ thực dân bằng một giọng văn hóm hỉnh, nhưng sâu trong đó lại chứa đựng nỗi đau xót cho con người dưới đáy xã hội. Vũ Trọng Phụng thì lại thể hiện sự trào phúng mạnh mẽ hơn, thậm chí gây sốc với lối văn 'trần truồng'. Còn Nam Cao lại sử dụng một giọng văn bình dị, cảm động và chứa đựng nhiều triết lý về cuộc sống và cách làm văn,... Tóm lại, mỗi nhà văn đều cần có phong cách riêng, là cách thể hiện suy nghĩ, quan điểm sống và đồng thời thu hút độc giả, xây dựng vị trí trong giới nghệ thuật.
Nay tôi sẽ nói về những người làm việc trong lĩnh vực nghệ thuật khác như ca sĩ, diễn viên, người mẫu. Đặc biệt là đối với giới trẻ, chúng ta không còn xa lạ gì với ngành công nghiệp giải trí của Hàn Quốc, với hàng trăm nhóm nhạc ra đời mỗi năm, nhưng chỉ có một số ít trong số đó trở thành ngôi sao. Vậy họ đã làm gì để nổi tiếng? Chỉ có một cách duy nhất đó là khẳng định phong cách âm nhạc và phong cách của thần tượng. Nhạc có thể là pop, ballad, dance, rock,... và phong cách của thần tượng có thể là trẻ trung, ngây thơ, mạnh mẽ nam tính hoặc ấm áp như chàng trai nhà bên,... Hai yếu tố này kết hợp với nhau để tạo ra ấn tượng đặc biệt trong lòng khán giả, giúp họ dễ nhận ra và nhớ đến một ca sĩ hoặc nhóm nhạc cụ thể, điều này giúp họ khẳng định tên tuổi của mình.
Nhìn vào ví dụ trên, bạn có thể hiểu được sức ảnh hưởng của phong cách trong việc xác định danh tính của một người, và những điều này đã được thể hiện rõ qua những tác phẩm của Buy-phông. Trong cuộc sống hàng ngày, bạn có muốn tự mình khẳng định và thể hiện bản thân không? Phần lớn chúng ta cũng muốn điều đó, và thường thì chúng ta không phải là nghệ sĩ, vì thế phong cách của chúng ta thường được thể hiện thông qua cách chúng ta giao tiếp, hành xử hàng ngày. Bạn có thể trở thành một nghệ sĩ của cuộc sống bằng cách tạo ra phong cách sống của riêng mình, từ cách bạn giao tiếp với người khác đến cách bạn làm việc, thậm chí là cách bạn ăn mặc, trang điểm, hoặc thậm chí là quan điểm của bạn về các vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội, và nghệ thuật. Tất cả những điều này kết hợp lại sẽ tạo nên một phong cách sống độc đáo cho bạn, như một tác phẩm nghệ thuật đa màu sắc, đặc biệt và dễ nhận biết.
Sau khi đọc về phân tích của tôi về phong cách con người, bạn có thể nhận ra rằng mình cũng có phong cách riêng. Tuy nhiên, bạn có thể cảm thấy mình vẫn không được chú ý trong xã hội. Điều này thực sự phổ biến, vì bộ não con người thường chỉ nhớ những điều tạo ra ấn tượng sâu sắc, như ngoại hình, năng lực và quan điểm nổi bật của một người. Đừng tự ti về bản thân mình, hãy cố gắng cải thiện và nhấn mạnh phong cách cá nhân của bạn ở một số khía cạnh, như tư duy, phong cách làm việc và gu thời trang. Nhưng hãy nhớ không nên bắt chước người khác, hãy sử dụng màu sắc và cọ của riêng bạn để tạo ra một phong cách độc đáo và dễ nhận diện.
Như Buy-phông đã nói, 'Phong cách chính là con người', và điều này đúng không chỉ trong giới văn học và nghệ thuật mà còn trong mọi khía cạnh của cuộc sống. Dù bạn muốn cuộc sống yên bình hay đầy màu sắc, bạn đều có thể xây dựng một phong cách sống đẹp để để lại ấn tượng tích cực. Mỗi người trên đời này đều là một kỳ tích của tạo hóa, và chúng ta nên sống để thể hiện điều đó thay vì tồn tại một cách vô nghĩa.
Bài viết số 5 lớp 12 đề 2 - Mẫu 5
Phát biểu của Buy-phông 'Phong cách chính là con người' đúng không chỉ trong lĩnh vực văn học mà còn trong mọi khía cạnh của cuộc sống. Mỗi người đều có thể tự tạo nên phong cách sống độc đáo của mình, từ cách giao tiếp, ứng xử hàng ngày đến quan điểm về thế giới và giá trị cuộc sống. Hãy tự mình xây dựng phong cách của bạn, không bắt chước người khác, để bạn có thể tự hào về bản thân và để lại ấn tượng sâu sắc cho người khác.
Đầu tiên, ta cần hiểu rõ phong cách là gì? Tóm gọn, phong cách là biểu hiện của con người, cách họ tỏ ra bên ngoài và tạo dựng nét đặc trưng của bản thân. Phong cách là cách mà mỗi người thể hiện tính cách, bản sắc và sở thích cá nhân.
Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta thấy rất nhiều biểu hiện của phong cách. Về trang phục, mỗi người đều chọn cho mình phong cách ăn mặc yêu thích như sexy, dễ thương, giản dị, hay trong sáng. Mỗi người đều tự do lựa chọn phong cách của mình.
Không chỉ trong trang phục, phong cách của các ca sĩ cũng được thể hiện qua những bài hát của họ. Mỗi ca sĩ có một dáng vẻ và một dòng nhạc riêng, điều này tạo nên phong cách độc đáo cho họ.
Trong văn chương, phong cách của các nhà văn cũng đa dạng. Ví dụ, nếu Xuân Diệu thể hiện tình yêu cuồng nhiệt trong thơ, thì Nguyễn Khoa Điềm lại chú trọng vào thơ trữ tình chính luận. Mỗi nhà văn mang đến một phong cách thơ riêng biệt.
Tất cả các lĩnh vực trong cuộc sống con người đều minh chứng cho lời Buy-phông: phong cách chính là con người. Chỉ con người mới có phong cách, điều này phân biệt họ với loài vật. Vì vậy, nhận định của Buy-phông hoàn toàn chính xác.
Một nghệ sĩ nghệ thuật đối với phong cách cũng giống như màu sắc đối với họa sĩ, không chỉ là vấn đề kỹ thuật mà còn là cách nhìn của họ. Đó là một phát hiện, không thể thu được bằng cách trực tiếp hay hữu thức, về sự đa dạng của cách thế giới hiện hữu với mỗi người, một sự đa dạng mà nếu không có nghệ thuật thì sẽ mãi là bí mật vĩnh cửu của từng con người.
Phong cách của tác giả không chỉ là vấn đề kỹ thuật hay chỉ là lớp vỏ ngoài trang trí cho tác phẩm văn học, mà đó là cách nhìn rất riêng của mỗi người về thế giới, khác biệt với cách nhìn của người khác.
Mỗi người sinh ra và trưởng thành đều có trong mình một cá tính, năng lực và kinh nghiệm để tiếp thu những điều tốt đẹp và loại bỏ những điều xấu xa. Quá trình này dần dần tạo nên một vốn cá nhân đặc biệt, được gọi là phong cách. Buy-phông từng nói rằng: 'Phong cách chính là con người'. Điều này đúng trong cùng một tình huống, nhưng phong cách của mỗi người không hoàn toàn giống nhau, mà chính là bản thân của họ. Hãy suy ngẫm về câu nói của Buy-phông để hiểu thêm và hình thành phong cách riêng của mình.
Phong cách thường được xác định bằng hai cách. Một là phong cách nghệ thuật, như của nhà văn, nhà thơ, kiến trúc sư... hoặc là phong cách của một thời kỳ nào đó. Hai là, tác phong, tính cách của một người hoặc một nhóm người trong xã hội, tạo nên phong cách đặc trưng của họ.
Tóm lại, phong cách không chỉ là cách thể hiện cá nhân mà còn là cái nhìn sâu sắc và đặc biệt về thế giới của từng người.
Mặc dù có nhiều loại phong cách, nhưng khi nói đến phong cách, ta thường nghĩ đến đặc điểm riêng của cá nhân. Mọi phong cách đều phản ánh sự ảnh hưởng sâu sắc của môi trường sống, bao gồm truyền thống văn hóa, đạo đức và tâm lý nghề nghiệp. Trên phương diện văn học, phong cách cũng rất đa dạng nhưng không kém phần sâu sắc.
Buy-phông đã sáng suốt khi nhận thấy rằng 'Phong cách chính là con người'. Trong văn học, phong cách là yếu tố không thể thiếu trong việc hình thành tác phẩm. Khi đánh giá một tác phẩm, độc giả thường chú ý đến hai khía cạnh quan trọng của phong cách văn học: nội dung và nghệ thuật. Phong cách phản ánh cách nhìn nhận của tác giả về cuộc sống và con người, cũng như cách sử dụng các kỹ thuật nghệ thuật.
Trong văn học Việt Nam, phong cách của nhà văn thường được gắn liền với cá tính của họ. Phong cách là kết quả của năng khiếu, tài năng và cá tính riêng biệt. Nhưng đôi khi, việc xác định phong cách của một tác giả cũng phụ thuộc vào thói quen tâm lý và sở trường cá nhân của họ.
Phong cách đa dạng và sâu sắc ở mọi phương diện. Trong văn học, phong cách không chỉ là yếu tố quan trọng trong việc đánh giá tác phẩm mà còn là nơi thể hiện cá tính và tâm hồn của tác giả. Câu nói 'Phong cách chính là con người' của Buy-phông chứng minh sự phong phú và sáng tạo trong cách nhìn nhận của ông.
Không phải tác phẩm nào cũng có phong cách. Phong cách chỉ xuất hiện khi tác phẩm có sự thống nhất hữu cơ của các yếu tố trong nó. Đây là một phần của chất lượng nghệ thuật và rất quý giá. Không phải tác giả nào cũng có phong cách, không phải thể loại nào cũng có phong cách và không phải thời đại nào cũng có phong cách.
Từ câu nói của Buy-phông, mỗi học sinh cần phát triển khả năng nhìn nhận và đánh giá mọi vấn đề trong cuộc sống một cách rõ ràng và tinh tế. Việc này đòi hỏi chúng ta phải không ngừng trau dồi kiến thức và linh hoạt trong việc sử dụng nó.
'Phong cách chính là con người' - Bài học sâu sắc từ Buy-phông giúp tôi có động lực để phát triển phong cách và cá tính riêng của mình, vượt qua mọi thách thức trong cuộc sống!
Mẫu văn số 5 lớp 12 đề 3
Anh (chị) hãy chia sẻ quan điểm của mình về ý kiến của nhà văn Pháp La Bơ-ruy-e: 'Khi một tác phẩm nâng cao tinh thần và gợi lên những tình cảm cao quý và can đảm, không cần phải áp dụng bất kỳ nguyên tắc nào để đánh giá nó: đó chính là một cuốn sách hay và do một nghệ sĩ viết ra'.
Mẫu văn số 5 lớp 12 đề 3 - Mẫu 1
Giá trị của một tác phẩm văn học không chỉ là lý do tồn tại của nó mà còn là cơ sở để khẳng định tài năng và tâm huyết của người sáng tạo. Đánh giá giá trị của tác phẩm thường dựa vào khả năng nâng cao tinh thần và gợi lên những tình cảm cao quý và can đảm.
Văn học là một sản phẩm nghệ thuật phản ánh hiện thực qua góc nhìn chủ quan của tác giả. Dù được tiếp nhận khác nhau ở từng thời điểm, tất cả tác phẩm đều mang lại những giá trị cốt lõi.
Để hiểu ý kiến của La Bơ-ruy-e, trước hết cần tìm hiểu khái niệm một cuốn sách hay. Đây là một tiêu chuẩn quan trọng trong việc đánh giá tác phẩm văn học, thường dựa vào sự sáng tạo của người nghệ sĩ và khả năng thể hiện cuộc sống và con người.
Quan điểm của La Bơ-ruy-e phản ánh đúng hiện thực sáng tác. Khi một tác phẩm đạt được những giá trị mà ông nói, nó được xem là một tác phẩm xuất sắc, và người tạo ra nó được coi là một nghệ sĩ thực thụ.
Tác phẩm văn học có khả năng nâng cao tinh thần và cung cấp hiểu biết về thế giới vật chất và tinh thần. Bằng cách này, văn học không chỉ nâng cao tri thức mà còn làm phong phú thêm thế giới tinh thần của con người.
Thụ hưởng văn học không chỉ là sự thưởng thức mà còn là cách để bồi dưỡng tinh thần và phát triển phẩm chất thẩm mỹ của con người, từ đó giúp họ trở nên hoàn thiện hơn. Trong một thế giới hiện đại bận rộn và xa lạ, văn học đóng vai trò ngày càng quan trọng, giúp con người trở nên nhân ái hơn, tốt đẹp hơn.
Văn học dân gian Việt Nam từ lâu đã được xem như một phần của di sản văn hóa, là một nguồn gốc văn hóa tinh thần phong phú và đa dạng. Các tác phẩm dân gian như ca dao, dân ca, tục ngữ không chỉ là những biểu hiện của truyền thống văn hóa mà còn là bài học về lòng yêu thương, lòng tin và sức mạnh để vượt qua khó khăn.
'Con diều tha, con quạ bắt, con mắt cắt xơi'
Câu chuyện 'Mười cái trứng' dù đối mặt với khó khăn vẫn giúp con người trở nên mạnh mẽ hơn, tin tưởng hơn vào bản thân và cuộc sống.
Ca dao dạy cho chúng ta biết ơn công lao lao động và khí công một cách trân trọng:
“Hãy bưng bát cơm đầy ra
Thơm ngọt như một hạt, đắng cay như muôn phần”
Ca dao cũng là những bài ca ca ngợi tình bạn, tình yêu thương chân thành giữa con người với nhau. Trong đó, tình yêu đầy mãnh liệt nhưng cũng thấm thiết và thực tế:
“Hôm qua rửa đầu dòng nước
Quên chiếc áo trên cành sen
Em nhận thì anh xin em
Chẳng lẽ em để tàn phai trong nhà?”
Thấy tình cảm vợ chồng thủy chung bền vững:
“Cùng nhau lên núi chặt củi
Chồng vác đòn, vợ cõng quang
Củi rừng góp với tình yêu
Ghi lời vàng đá, đừng quên nhé”
Yêu thương gia đình sâu đậm:
“Cha như núi Thái Sơn cao
Mẹ như dòng nước vẫn chảy trong veo”
Những bài ca dao đó thắp sáng trong lòng ta những tình cảm thuần khiết, tình bạn và tình yêu thương giữa con người. Đọc ca dao, ta được truyền động lực và niềm tin vào cuộc sống, từ đó nuôi dưỡng và phát triển tinh thần và tình cảm của bản thân mình.
Trong thơ trung đại, những bài học giáo dục thường được thể hiện qua hình thức văn học đã được quy định sẵn, do đó thường mang một nội dung nhất định. Ví dụ, trong thơ ca dạy bảo, chia sẻ cảm xúc, bài học giáo dục thường được truyền đạt một cách trực tiếp. Thơ ca tưng bừng như 'Bình Ngô đại cáo' là biểu tượng cho sự tuyên bố độc lập tự do của dân tộc, khích lệ tinh thần tự hào trong mỗi người dân Việt Nam:
“Như dòng Đại Việt từ xưa
Đã tồn tại nền văn hiến lâu đời
Núi sông và biển cõi đã chia cắt
Văn hóa Bắc – Nam cũng khác biệt”
Số phận bi thảm của Kiều (Truyện Kiều – Nguyễn Du) không chỉ giúp ta hiểu sâu hơn về xã hội thời phong kiến mà còn giáo dục và làm giàu thêm những tình cảm cao quý của con người: sự đồng cảm, lòng trọng trách, lòng xót thương…
“Nỗi đau cho phận của phụ nữ
Chứng tỏ bạc mệnh chung của con người”
Trong tác phẩm “Lục Vân Tiên” (Nguyễn Đình Chiểu), hai nhân vật Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga được xây dựng với hình tượng đẹp, lý tưởng. Tình yêu thủy chung của Kiều Nguyệt Nga làm phong phú thêm cho thế giới hình tượng về phụ nữ. Tính cách dũng mãnh và không chịu bất kỳ bất công nào của Lục Vân Tiên cũng là điều chúng ta cần học hỏi.
Các nhà thơ trung đại như Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Nguyễn Đình Chiểu… đã để lại những tác phẩm có giá trị, xứng đáng với danh hiệu nghệ sĩ vĩ đại. Sang thời kỳ hiện đại, văn học không chỉ bám sát vào những mẫu mực cũ mà còn mở rộng và gần gũi hơn với cuộc sống hàng ngày của con người, nhưng vẫn giữ vững tính chất giáo dục và thẩm mỹ. Tô Hoài, thông qua các tác phẩm như 'Dế Mèn phiêu lưu kí', đã truyền đạt những bài học sâu sắc về đạo đức, lòng đoàn kết và tình thương đồng loại. Cuộc hành trình của Dế Mèn là một quãng đường tiến tới sự hoàn thiện cả trong tư duy và tình cảm, cách sống.
“Mùa lạc” (Nguyễn Khải) kể về sự biến đổi cuộc đời qua công việc, nơi mà con người trải qua. Đào, một người phụ nữ với nhiều bi kịch, cuối cùng lại tìm thấy hạnh phúc tại Điện Biên. Từ khó khăn, cô trở thành một người hoàn toàn mới. Cô chỉ cười vui vẻ trước những trò đùa, vì họ đã trở thành gia đình của cô. Điều này cho chúng ta thấy rằng nghị lực có thể giúp chúng ta vượt qua mọi thách thức.
“Chiếc thuyền ngoài xa” (Nguyễn Minh Châu) mang thông điệp về cái đẹp thực sự. Nghệ thuật không chỉ là khám phá bề ngoài mà còn phải thấu hiểu sâu bên trong. Đó là cuộc sống tạo nên giá trị của tác phẩm. Đẹp không chỉ nằm trong những người đang chiến đấu để sống. Đối với người vợ chài, điều quan trọng nhất là hạnh phúc và tương lai của con cái. Chị chấp nhận đau đớn mà không ly hôn vì cô hiểu rằng chồng cô cũng gặp phải nhiều khó khăn. Cô chia sẻ nỗi đau để những người xung quanh cô được hạnh phúc. Điều này làm cho cuộc sống của chúng ta trở nên phong phú và hoàn thiện hơn.
Giá trị của một tác phẩm và tài năng của người tác giả thường được đánh giá thông qua việc tác phẩm ấy góp phần thế nào vào cuộc sống con người và ảnh hưởng như thế nào đến tư tưởng, tình cảm thẩm mĩ của độc giả trong các thời đại khác nhau. Nhận thức sâu sắc về điều này quan trọng với cả người sáng tác (làm sao để tạo ra một tác phẩm được coi là “hay”) và độc giả (làm sao để tác phẩm làm cho cuộc sống tinh thần của họ phong phú hơn).
Khi Đan-cô (Trái tim Đan-cô – M.Gorki) cắt ra trái tim mình để dẫn dắt đoàn người qua rừng tối đến miền đất sáng sủa và sống, anh ta đã đảm đương sứ mệnh cao cả nhưng cũng đầy đau khổ của một người hướng dẫn. Trái tim Đan-cô trở thành biểu tượng cho những phẩm chất cao quý của con người.
Văn học đã thể hiện những giá trị vĩnh cửu của mình, như La Bơ-ruy-e nói, nó đã “nâng cao tinh thần, gợi lên những tình cảm cao quý và can đảm…”
Bài viết số 5 lớp 12 đề 3 - Mẫu 2
Quan điểm của một nhà văn Pháp có thể hiểu như sau: Một tác phẩm có giá trị và thực sự hay khi làm cho tâm hồn và tinh thần con người trở nên cao đẹp hơn, rèn luyện những phẩm chất có sẵn và xây dựng những phẩm chất mới, cũng như tạo nguồn cảm hứng cho những phẩm chất tốt đẹp nhất sâu thẳm trong con người. Quan điểm này cũng được nhiều nhà văn khác đồng tình, vậy hãy cùng khám phá sự đồng cảm với ý kiến này nhé!
'Văn chương có thể thay đổi một thế giới đen tối và làm cho tâm hồn con người trở nên trong sạch hơn' (Thạch Lam). Văn chương có 3 chức năng, trong đó một trong những chức năng quan trọng nhất là chức năng nhận thức. Một tác phẩm hay sẽ giúp con người nhận thức được bản thân, nhìn nhận qua góc nhìn của tác giả hoặc chính các nhân vật trong tác phẩm. Từ việc nhận thức này, con người có thể thay đổi cách sống, cách đối nhân xử thế và, dĩ nhiên, hoàn thiện bản thân. Chức năng thứ hai của văn chương là giáo dục, mọi tác phẩm đều hướng tới mục đích giáo dục con người, và vì thế M.Gorki mới nói 'văn học là nhân học'. Cũng như La Bury-e nói, 'một tác phẩm nâng cao tinh thần ta lên và gợi lên những tình cảm cao quý và can đảm ...đó là một cuốn sách hay'. Tất nhiên, ông cũng muốn nói về giá trị của một tác phẩm và những yếu tố làm nên giá trị của nó, đó chính là nội dung và hình thức, cũng như tấm lòng của tác giả đã gợi lên trong lòng người đọc một sự đồng cảm sâu sắc, nếu làm được điều đó thì đó mới là một tác phẩm hay. Một tác phẩm văn học thực sự có giá trị khi nó hoàn mỹ về cả nội dung và nghệ thuật, và thực hiện đầy đủ các chức năng của nó, đó là 'nâng cao tinh thần' và 'thanh lọc tâm hồn'.
Theo Nam Cao, một tác phẩm thực sự có giá trị phải vượt lên trên mọi giới hạn, phải là một tác phẩm dành cho tất cả mọi người. Nó phải chứa đựng cái gì đó lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn vừa phấn khởi. Nó ca ngợi lòng thương, tình bác ái, sự công bằng... Điều này cho thấy rằng một tác phẩm xuất sắc là một tác phẩm mang lại nhiều lợi ích cho con người và cuộc sống, phải có tính 'nhân đạo hóa' sâu sắc, và nếu nó hoàn hảo, nó sẽ được thời gian công nhận giá trị và tồn tại mãi mãi. Điều này được chứng minh trong thực tế với các tác phẩm như Truyện Kiều của Nguyễn Du, Chí Phèo của Nam Cao, Số Đỏ của Vũ Trọng Phụng ... tất cả đều gây ấn tượng với độc giả từ thế hệ này sang thế hệ khác, mang lại giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc, không ai có thể phủ nhận. Những nhân vật trong truyện cũng trở thành mẫu mực, tồn tại trong cuộc sống hàng ngày và các tư tưởng đạo lý trong tác phẩm trở thành chân lý cho cuộc sống.
Bài viết số 5 lớp 12 đề 3 - Mẫu 3
Từ lâu, trên thế giới đã có nhiều quan điểm khác nhau về cách đánh giá giá trị của một tác phẩm văn chương. Có người đề cao nghệ thuật, có người đề cao nội dung. La Bơ-ruy-e, một nhà văn Pháp đã thể hiện quan điểm của mình như sau: Khi một tác phẩm nâng cao tinh thần ta lên và gợi cho ta những tình cảm cao quý và can đảm, không cần phải tìm kiếm nguyên tắc nào để đánh giá nó: đó là một cuốn sách hay và do một nghệ sĩ viết ra.
Xét về ý nghĩa, quan điểm trên gần giống với quan điểm của nhà văn hiện thực nổi tiếng Nga, Mác-xim Gorơ-ki: Văn học là nhân học. La Bơ-ruy-e nhấn mạnh đến chức năng giáo dục của văn học. Văn học nuôi dưỡng tâm hồn, tư tưởng, tình cảm của con người. Văn chương có khả năng đặc biệt trong việc phát hiện và diễn đạt sự bí ẩn, huyền diệu của con người. Đặc điểm của văn học là thông qua các sự kiện, các hình tượng nghệ thuật trong tác phẩm để giáo dục cho con người tình cầm trong sáng, đạo lí làm người. Mặt khác, văn học giúp con người hoàn thiện nhân cách, nâng cao tinh thần và gợi cho con người những tình cảm cao quý và can đảm.
Văn học tiếp cận con người thông qua cảm xúc, tình cảm. Nó đem lại cho con người những rung cảm sâu xa trước vẻ đẹp của quê hương, đất nước, trước cuộc sống đa dạng và phong phú và đặc biệt là trước chiều sâu của thế giới tâm hồn. Mục đích chính của văn học là giúp con người tự suy ngẫm về cuộc sống và bản thân mình, nâng cao niềm tin vào bản thân để có nhận thức đúng đắn hơn, có động lực hướng tới chân lí, dám đấu tranh chống lại cái xấu, cái ác; tìm kiếm và hướng tới cái Đẹp, cái Thiện trong cuộc sống. Đó là văn học thật sự có khả năng cảm hóa, nhân đạo hóa, xứng đáng là bạn đồng hành của con người.
Nhà văn La Bơ-ruy-e cũng có quan điểm về cách đánh giá một tác phẩm văn chương và một nghệ sĩ đích thực. Theo ông, tác phẩm nào có ảnh hưởng lớn tới đời sống tinh thần của con người theo hướng tích cực thì đó là một cuốn sách hay, đích thực là văn chương và người viết nó xứng đáng được gọi là nghệ sĩ.
Hai nhà văn nổi tiếng của Việt Nam là Thạch Lam và Nam Cao cũng có quan điểm gần giống với La Bơ-ruy-e. Thạch Lam cho rằng: Đối với tôi, văn chương không chỉ đem lại cho người đọc sự thoải mái hay sự lãng quên; ngược lại, văn chương là một công cụ mạnh mẽ mà chúng ta có, để vừa kêu gọi và thay đổi một thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho tâm hồn con người trở nên trong sạch và phong phú hơn. Còn Nam Cao đã thông qua nhân vật Hộ trong truyện ngắn Đời thừa để bày tỏ quan điểm của mình về tác phẩm văn chương, về nhà văn đích thực. Là một nhà văn, Hộ từng ấp ủ một hoài bão lớn về sự nghiệp văn chương của mình. Anh mong muốn tạo ra những tác phẩm thật sự có giá trị, vượt lên trên mọi giới hạn và bờ cõi. Quan điểm về văn chương của Hộ cũng rất tiên tiến: Một tác phẩm văn chương đích thực phải chứa đựng được một cái gì đó lớn lao, mạnh mẽ vừa đau đớn, lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình… Nó làm cho người gần người hơn. Nhà văn là những người nghệ sĩ có tâm hồn và tài năng, trong sáng tác họ phải tạo ra một phong cách riêng, một dấu ấn riêng không thể lẫn với bất cứ ai khác; vì: Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ cần những người biết đào sâu, biết tìm kiếm, khơi dậy những nguồn chưa được khai phá, và sáng tạo ra những điều chưa từng có (Nam Cao).
Có thể dùng một số tác phẩm kinh điển của các nhà văn nổi tiếng thế giới để minh chứng ý kiến của La Bơ-ruy-e là đúng.
Bộ tiểu thuyết Những người khốn khổ của Vích-to Huy-gô là một tác phẩm tuyệt vời về tình yêu thương con người, về lòng vị tha và sự hi sinh. Nhân vật Giăng Van-giăng là biểu tượng của chủ nghĩa nhân đạo của nhà văn. Ông là một người thợ làm vườn nghèo khổ, vì thương đàn cháu mồ côi, đói khát nên đã liều mình đập vỡ cửa kính tiệm bán bánh mì để lấy cắp một ổ bánh. Bị kết án oan sai, ông nhiều lần cố gắng vượt ngục nhưng không thành, thời gian ngồi tù kéo dài. Sau khi được trả tự do, vì hoàn cảnh khó khăn, ông lại phạm tội cướp đồng xu của một đứa trẻ và lấy cắp bộ đồ ăn bằng bạc của giám mục Mi-ri-en. Sự nhân từ và lòng từ bi của giám mục đã cứu Giăng Van-giăng thoát khỏi vòng luẩn quẩn của tội ác và ảnh hưởng lớn tới tư tưởng, tình cảm của ông.
Đoạn trích từ Người cầm quyền khôi phục uy quyền là một ví dụ tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Vích-to Huy-gô và mang dấu ấn của chủ nghĩa lãng mạn trong văn chương Pháp thế kỉ XIX. Nội dung của đoạn trích phản ánh sự đối lập giữa cái ác và cái thiện, giữa bạo lực cường quyền và nạn nhân của nó. Nhà văn phê phán cường quyền, gợi lên sự đồng cảm với những người khốn khổ và khẳng định lí tưởng nhân đạo.
Từ một người tù oan, sau nhiều năm làm việc cật lực, Giăng Van-giăng đã trở thành ông chủ nhà máy uy tín và được dân chúng tín nhiệm bầu làm thị trưởng. Ông quan tâm và có những hành động cao đẹp đối với người phụ nữ bất hạnh Phăng-tin. Bị tên mật thám Gia-ve phát hiện và bắt, Giăng Van-giăng (tức thị trưởng Ma-đơ-len) không hề run sợ. Trước thái độ hung hãn của Gia-ve, ông vẫn cố gắng an ủi Phăng-tin để níu kéo sự sống cho chị. Phăng-tin qua đời vì sốc trước sự thực phũ phàng (tên mật thám Gia-ve túm cổ áo ngài thị trưởng đáng kính). Giăng Van-giăng hứa sẽ tìm lại được bé Cô-dét – đứa con gái yêu quý của chị. Một điều kỳ diệu không ai ngờ tới là bà xơ Xem-pli-xơ, người chứng kiến cảnh ấy, kể lại rằng lúc Giăng Van-giăng thì thầm bên tai Phăng-tin, bà thấy rõ một nụ cười không thể diễn tả được hiện lên trên đôi môi nhợt nhạt và trong đôi mắt xa xăm, đầy ngạc nhiên của chị khi bước vào cõi chết. Đây là một hình ảnh cảm động trước một sự thật cao cả làm rung động tâm hồn người đọc.
Truyện ngắn Số phận con người của nhà văn Sô-lô-khốp không ngần ngại đề cập đến cái giá đắt của chiến thắng, những đau khổ mà con người phải gánh chịu do chiến tranh ; đồng thời ca ngợi lòng nhân hậu, lòng vị tha của người lính Hồng quân và của nhân dân Nga. Tác phẩm này gây chấn động nền văn học Xô viết và Sô-lô-khốp được đánh giá là nhà văn vĩ đại của nước Nga thế kỉ XX.
Nhân vật chính của câu chuyện là An-đrây Xô-cô-lốp, một chiến sĩ Hồng quân tham gia cuộc chiến tranh vệ quốc của Liên bang Xô viết chống phát xít Đức xâm lược. Bị bắt làm tù binh, anh phải chịu đựng sự tra tấn tàn bạo của kẻ thù. Trong cuộc trốn chạy để trở về với Hồng quân, anh đã sử dụng trí tuệ mạnh mẽ để bắt sống một tên thiếu tá Đức và cướp một xe vận tải. Chiến tranh kết thúc, thay vì hạnh phúc vô biên là được đoàn tụ với gia đình trên quê hương thân yêu, Xô-cô-lốp lại phải đối diện với số phận đau lòng: Vợ và hai con gái nhỏ bị thương trong vụ bom của phát xít; con trai lớn của anh, một chiến sĩ Hồng quân, hy sinh tại cửa ngõ Béc-lin trong ngày chiến thắng. Mặc dù đất nước hòa bình, nhưng Xô-cô-lốp không thể tìm thấy sự bình yên vì anh mang trong lòng nỗi đau vô tận. Anh nhận nuôi chú bé mồ côi Va-ni-a, từ đó cuộc sống của anh có sự thay đổi to lớn. Mặc dù gian khổ và vất vả, nhưng Xô-cô-lốp cảm thấy hạnh phúc trở lại và thấy cuộc sống đáng sống. Tình thương thực sự là một sức mạnh phi thường giúp con người vượt qua khó khăn, chiến thắng số phận đau khổ. Nhân vật Xô-cô-lốp là biểu tượng của tính cách Nga mạnh mẽ, dũng cảm và nhân từ. Nhà văn Sô-lô-khốp đã trình bày một vấn đề quan trọng - số phận con người - thông qua cuộc đời của một nhân vật với nhiều thử thách và mất mát, nhưng cuối cùng vượt qua để chiến thắng số phận bất hạnh. Đọc truyện ngắn Số phận con người của Sô-lô-khốp, người đọc sẽ nhận ra rất nhiều điều và học được nhiều bài học quý giá từ nhân vật Xô-cô-lốp. Đó là thành công của tác phẩm và là niềm tự hào của nghệ sĩ.
Trong tiểu thuyết ông già và biển cả của Mĩ Hê-minh-uê, hình ảnh ông lão đánh cá dũng cảm và kiên cường săn đuổi con cá lớn nhất cuộc đời mình là một biểu tượng về vẻ đẹp của ước mơ và hành trình gian khổ của con người để biến ước mơ thành hiện thực. Tác phẩm này là một bài học sâu sắc và ý nghĩa về khao khát, ý chí và lòng kiên trì của con người. Nhà văn đặt nhân vật vào một tình huống đặc biệt, một mình giữa biển khơi bao la, đầy thách thức; một mình đối mặt với con cá kiếm khổng lồ và đàn cá mập hung dữ để bảo vệ thành quả của lao động. Ông lão đánh cá Xan-ti-a-gô đã làm việc chăm chỉ, kiên trì suốt đời, mặc cho những khó khăn và vất vả. Tuy không có được ước mơ của mình cho đến khi đã già, nhưng ông vẫn kiên trì và cuối cùng thành công. Trong tình trạng kiệt sức, ông vẫn đấu tranh để bắt được con cá mơ ước, nhưng cuối cùng chỉ còn lại một bộ xương.
Mặc dù cốt truyện giản dị nhưng Hê-minh-uê đã viết nên một câu chuyện giản dị và chân thực về con người. Mặc dù không phải là một truyện anh hùng ca, nhưng câu chuyện về ông lão đánh cá thực sự là một bài ca tôn vinh sức mạnh, kiên cường của người lao động. Tác phẩm còn chứa đựng một tầng ý nghĩa sâu xa hơn trong hình tượng con cá kiếm và ông già đánh cá. Vẻ đẹp vĩ đại của con cá kiếm tự do trên biển cả tượng trưng cho ước mơ và lý tưởng của con người. Ông lão đánh cá với ý chí mạnh mẽ là biểu tượng cho quyết tâm biến ước mơ thành hiện thực của con người. Tiểu thuyết ông già và biển cả, mặc dù khiêm tốn về số trang, nhưng thực sự là một tác phẩm mà mọi nhà văn đều mong muốn viết một lần (Phôn-cơ-ne), bởi nó để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả trên toàn thế giới và mang lại danh tiếng cho Mĩ Hê-minh-uê - một nghệ sĩ vĩ đại của loài người.
Ý kiến của La Bơ-ruy-e đã góp phần củng cố vai trò quan trọng của giáo dục trong văn chương và đề xuất cách đánh giá chính xác về tài năng của nghệ sĩ. Văn chương mang lại cho con người những giá trị tinh thần cao quý, giúp con người hướng tới sự Chân, Thiện, Mĩ trong cuộc sống. Những tác phẩm văn học có giá trị nội dung, tư tưởng và nghệ thuật sẽ vượt qua được thách thức của thời gian và không gian để trở thành kiệt tác của nhân loại. Đúng như La Bơ-ruy-e khẳng định: “… đó là một cuốn sách hay và người viết ra nó xứng đáng là một nghệ sĩ đích thực.