Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử với 21 mẫu phân tích đi kèm với 3 dàn ý viết rất tỉ mỉ. Với 21 mẫu phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ được trình bày rõ ràng, sẽ giúp các bạn học sinh hiểu biết nhanh hơn và tiết kiệm thời gian tìm kiếm.
Top 21 mẫu phân tích Đây thôn Vĩ Dạ đã được biên soạn rất cẩn thận, chất lượng. Điều này sẽ giúp học sinh hiểu rõ về nội dung và thông điệp mà nhà thơ muốn truyền đạt. Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là một bức tranh tuyệt vời về miền quê đất nước và lòng đam mê của một con người yêu đời, yêu thiên nhiên. Dưới đây là 21 mẫu phân tích Đây thôn Vĩ Dạ tốt nhất, mời các bạn tham khảo. Đồng thời, bạn cũng có thể xem thêm các bài văn mẫu: cảm nhận bài thơ Vội vàng, cảm nhận bài thơ Tràng giang.
Kế hoạch phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ
I. Khởi đầu
Thông tin về tác giả và tác phẩm:
Hàn Mặc Tử có lẽ là một trong những người không thể nào quên được khi nhắc đến phong trào thơ mới. Một trong những tác phẩm có sức ảnh hưởng mạnh mẽ nhất của ông là bài thơ Đây thôn vĩ dạ. Bài thơ này giống như một lá thư tâm hồn tiết lộ những tâm tư sâu sắc và khao khát mãnh liệt của nhà thơ
II. Phần chính:
1. Phân tích cấu trúc thơ thứ nhất:
- Bài thơ mở đầu với một câu hỏi quan trọng: 'tại sao anh không trở về làng Vĩ?'
- Cảm nhận như thể đây là lời trách yêu của một cô gái, trong đó ẩn chứa sự tức giận và chờ đợi
- Trong thực tế, không có cô gái nào đang đứng trước mặt Hàn Mặc Tử, vì vậy có thể lời trách yêu này được khơi lên từ những bức ảnh, những lá thư, nó sống động, nó sôi động trong tâm hồn nhà thơ, đưa trái tim của ông trở về với quê hương Huế yêu dấu. Câu thơ thứ hai khiến chúng ta ngạc nhiên vì bất ngờ về cảnh thiên nhiên của Huế, cảnh vật ở thôn Vĩ Dạ được khai mở
- Rõ ràng, câu hỏi ban đầu của nhà thơ là về không gian của thôn Vĩ Dạ, đây là một cuộc hành trình trong tâm trí
- Ánh nắng hiện ra trong quan sát của nhà thơ, một ánh nắng hiện ra với vẻ tươi mới, không phải là ánh nắng rực rỡ của mùa hè, cũng không phải là ánh nắng dịu dàng của mùa thu, mà đó là 'ánh nắng mới bắt đầu', tức là ánh nắng của bình minh
- Câu thơ với hai từ 'nắng' khiến không gian trở nên rực rỡ ánh sáng, không cần miêu tả về màu sắc, nhưng ánh nắng hiện ra vẫn trong trẻo và tinh khiết không bàn cãi
- Góc nhìn của Hàn Mặc Tử dường như đến từ một vị trí cao, từ xa đến gần, đôi mắt của ông xuyên thấu bầu trời để nhìn thấy ánh bình minh và ánh nắng tuyệt vời từ những ngọn cây cao vút, tạo ra cái nhìn rộng lớn với màu xanh phủ khắp khu vườn
- 'Vườn ai mướt quá xanh như ngọc', câu thơ là một lời ngạc nhiên trước vẻ đẹp của khu vườn
- Từ lượt nhìn ra hình ảnh so sánh với màu xanh như ngọc đã làm nổi bật vẻ đẹp tuyệt vời của khu vườn ở thôn Vĩ
- Câu thơ không chỉ mang lại cho chúng ta cảm giác về thị giác mà còn kích thích cảm giác như được chạm vào những lá xanh mượt mà, đây là một trong những đặc điểm của các nhà thơ mới, chịu ảnh hưởng từ trường phái tượng trưng siêu thực Pháp khi cảm nhận về mọi thứ bằng nhiều giác quan.
- Hình ảnh so sánh 'xanh như ngọc' là một hình ảnh so sánh độc đáo, màu xanh của lá cây được ví với màu xanh của ngọc, mang lại cho chúng ta một cảm giác tươi mới, tất cả mọi thứ đều non tươi và tràn đầy sức sống
- Đến câu thơ thứ tư, hình ảnh con người mới hiện ra 'Lá trúc che ngang mặt chữ điền'
- Câu thơ cuối khổ thứ nhất có nhiều cách hiểu khác nhau. Một số người cho rằng 'mặt chữ điền' là khuôn mặt của người con gái mời Hàn Mặc Tử về thôn Vĩ. Bởi 'vườn ai' chính là vườn của cô ấy, thấy khuôn mặt của cô ấy trong vườn đó là điều hợp lý
- Tuy nhiên, cũng có người nghĩ rằng đó chính là tác giả trong hành trình tâm linh, Hàn Mặc Tử đã gặp lại bản thân mình với khuôn mặt chữ điền khi còn là chàng trai tài năng nổi tiếng tại Huế
- Dường như, nhà thơ muốn tìm lại một tình yêu trong sạch, thanh thản, đắm chìm chỉ có thể qua việc quay về làm lại con người của quá khứ, trở thành một nhà thơ phong lưu đa tình như ngày xưa ở Huế. Nói đúng hơn, nhà thơ muốn quên bản thân trong hiện tại, với căn bệnh hiểm nghèo, để được yêu
- Hình tượng 'lá trúc che ngang' cung cấp cho khuôn mặt chữ điền những nét mạnh mẽ, phóng khoáng của người đàn ông vì trong quan niệm cổ xưa, lá trúc thường được xem là biểu hiện của người quân tử.
2. Phân tích khổ thơ thứ hai:
- Bốn câu thơ thứ hai như những bức tranh buồn trước mắt chúng ta, mô tả về quê hương xứ Huế trong buổi chiều tối với những gam màu trầm lắng. Mỗi câu thơ đều làm phong phú thêm bức tranh phong cảnh, nhưng nếu nhìn kỹ hơn, chúng ta sẽ thấy những nghịch lý, những điều trái tự nhiên ẩn trong từng sự vật
- 'Gió theo lối gió, mây theo đường mây', câu thơ không chỉ là nghịch lý mà còn chứa đựng sự trớ trêu, sự không biệt ly
- 'Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay', thông thường gió thổi làm hoa bắp lay thì sóng nước cũng phải gợn mà lay động theo. Nhưng dòng nước lại đứng im, giống như một cặp đôi gần gũi nhưng không đồng điệu, có mùi của sự chia xa
- Có lẽ đây là cảm xúc của nhà thơ trong cảnh xa cách, nhớ thương. Đó cũng là cảm xúc của những con người xưa, nỗi buồn về sự chia xa, tiễn biệt ẩn sâu trong lòng, mang theo nỗi niềm xao xuyến
- Nếu trong khổ thơ đầu chúng ta cảm nhận một tình yêu sắp nảy nở tuyệt vời, thì đến khổ thơ sau, chúng ta lại gặp một cuộc tình tan nát, chia ly.
- Có lẽ thông qua cách diễn đạt hình tượng, Hàn Mặc Tử đã đầy chất chứa phủ định lời mời mình về thăm thôn Vĩ. 'Thuyền ai đậu bên bến sông trăng đó,/ Có chở trăng về kịp tối nay?'
- Hình tượng của trăng trong thơ Hàn Mặc Tử được sử dụng rất nhiều. Trăng muôn đời là biểu tượng của hạnh phúc, đặc biệt là hạnh phúc của đôi lứa. Do khao khát hạnh phúc, nên hai câu thơ của Hàn Mặc Tử rất đầy ánh trăng: bến trăng, sông trăng, thuyền trăng, chở trăng.
- Tác giả đã truyền đạt một tình yêu khát khao, nỗi mong chờ, nhớ nhung vào con thuyền trăng, vào dòng sông trăng.
- Vầng trăng trong hai câu thơ này là vầng trăng nguyên vẹn của thi nhân trước tình yêu chưa bị phai mờ.
- Câu hỏi đặt ra như một nhịp thơ, lộ ra niềm lo lắng của một số phận không biết tương lai.
- Hàn Mặc Tử hiểu rõ căn bệnh của mình nên ông mang trong lòng một cảm giác mất mát về sự ngắn ngủi của cuộc đời, vầng trăng không kịp trở lại và ông cũng không chờ đợi thêm cho hạnh phúc ấy nữa, một năm sau ông nói lời tạm biệt với cuộc đời.
3. Phân tích khổ thơ thứ ba:
- Thi sĩ cảm thấy tiếc nuối cho số phận ngắn ngủi, cho những ước mơ vẫn còn dang dở, nhưng rồi người nghệ sĩ lại tiếp tục sống với khát vọng của mình.
- Hình ảnh 'khách từ xa' nhấn mạnh hai lần đã thể hiện phần nào sự trông chờ, nhớ mong của tác giả đối với người thân.
- Màu áo trắng cũng chính là ánh nắng của Vĩ Dạ mà khi nhìn vào đó, tác giả bị ấn tượng, cảm thấy ngẩn ngơ trước sự trong trắng, thanh khiết và cao quý của người yêu.
'Ở đây, sương khói mờ nhòa hình bóng / Ai biết tình yêu của ai có sâu sắc?'
- Câu thơ đã miêu tả chân thực cảnh Huế - thành phố sương khói. Trong lớp sương khói ấy, con người trở nên mờ nhạt và có thể tình cảm cũng phai nhạt.
- Câu hỏi cuối cùng được đặt ra như một lời than phiền, tự trăn trở qua trái tim khao khát tình yêu nhưng lại đối mặt với quá nhiều gian truân và trở ngại.
- Hai từ 'ai' trong câu thơ này mở ra nhiều khả năng hiểu: liệu em có hiểu được rằng tình yêu của mình có đậm đà như thế nào không? Liệu anh có biết được rằng tình yêu của mình đậm đà như thế nào không? Liệu em có biết về tình yêu của anh đậm đà không? Liệu anh có hiểu rằng tình yêu của em có đậm đà không?
- Một câu hỏi trong thơ nhưng ẩn chứa biết bao nhiêu dạng câu hỏi khác phía sau, càng cố gắng tìm kiếm càng thấy mọi thứ 'mờ nhạt', càng trở nên tuyệt vọng.
- Càng say mê một tình yêu sâu đậm, Hàn Mặc Tử càng chứng kiến sự vỡ vụn tuyệt vọng trong tình yêu. Do đó, tinh thần chính của 'Đây thôn Vĩ Dạ' chính là tinh thần đau buồn về một tình yêu không hy vọng.
III. Kết bài:
Mọi điều bi quan đều lan truyền nhưng tình yêu tuyệt vọng của Hàn Mặc Tử lại thúc đẩy chúng ta tìm kiếm ánh sáng trong niềm mong cháy bỏng. Đó chính là tình yêu đã thêm sức mạnh cho nhà thơ trong những thời khắc khó khăn, chiến đấu với căn bệnh. Đó cũng là giá trị nhân văn đã làm nên danh tiếng của Hàn Mặc Tử trong thế giới thơ Việt và giữ cho tác phẩm mãi mãi sống động trong lòng độc giả qua các thế hệ.
Sơ đồ tư duy phân tích Đây thôn Vĩ Dạ
Phân tích về bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ - Mẫu 1
Khi nhắc đến Hàn Mặc Tử, không ai có thể quên bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ - một trong những tác phẩm bất hủ của ông. Bài thơ này chính là nguồn cảm hứng từ bức ảnh của Hoàng Thị Kim Cúc - người mà ông đã dành trọn tình yêu. Viết bài khi ông đang điều trị bệnh tại Quy Hòa, mỗi dòng thơ mang theo niềm khát khao sâu thẳm của nhà thơ.
'Sao anh không về chơi thôn Vĩ?'
Câu hỏi nhẹ nhàng mở đầu bài thơ thể hiện sự chờ đợi, mong chờ của người con gái tại thôn Vĩ. Đó là lời mời gọi, nhưng cũng chứa đựng một chút oán trách, một chút phẩn nộ. Thơ êm đềm nhưng lại đầy ý nghĩa, như là tiếng thở dài của người con gái Huế, dịu dàng mà cay đắng.
Sau câu hỏi dịu dàng là hình ảnh sinh động của thôn Vĩ, tươi sáng và trong lành:
“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Có lẽ vì lời mời chân thành ấy, dù không thể trở về Huế, Hàn Mặc Tử vẫn nguyện ý trở về trong tâm trí để chiêm ngưỡng vẻ đẹp của quê nhà, người thương. Hình ảnh đầu tiên là “nắng hàng cau” - một loại ánh nắng đặc biệt trong thơ ca, là nắng của buổi sớm tinh mơ ở Huế - “nắng mới lên”, những hàng cây cau vừa tỉnh giấc dưới tia sương mai. Khi gần hơn, ta cảm nhận được vẻ đẹp tươi mới của cảnh vật. Màu xanh ngọc bích tươi tắn, lộng lẫy được tái hiện từ vẻ đẹp của vườn cây. Từ “mướt” như một lời khen ngợi về sự tươi mới, mềm mại của lá cây. Có lẽ, vườn cây được tưới tắm bởi vẻ đẹp tự nhiên, được chăm sóc bởi bàn tay khéo léo của con người, khiến cho vẻ đẹp của nó càng trở nên tuyệt vời. Bóng dáng của một cô gái kín đáo, e ấp, hiện ra từ khu vườn cổ tích, che ngang bởi lá trúc xanh, làm nổi bật hơn vẻ đẹp của không gian và con người Huế. Trong từng dòng thơ trong sáng, trong trẻo ấy là tâm hồn khát khao mãnh liệt, khao khát được gặp lại người yêu sau những tháng ngày xa cách. Tuy nhiên, điều đó có lẽ là một điều khó có thể thực hiện.
Nếu khổ thơ đầu gợi lên hình ảnh buổi sáng dịu dàng, thì khổ thơ thứ hai đưa chúng ta vào không gian của thuyền nước, sông trăng vào buổi chiều tà - đêm tối:
“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay
Gió và mây thể hiện sự lang thang, phiêu bạt, với cách nói “gió theo lối gió, mây đường mây” nhấn mạnh sự tách biệt, chia lìa. Có lẽ đó là biểu hiện của sự xa cách giữa nhà thơ với người mà ông yêu thầm, dù yêu thương nhưng không thể cùng nhau bước đi trong quãng đời ngắn ngủi còn lại của cuộc đời con người. Việc nhân hóa “Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay” càng làm nổi bật nỗi buồn trong lòng nhà thơ, nỗi buồn thấm vào cảnh vật, hoặc chính tâm hồn của nhà thơ đang trong trạng thái buồn bã, và cảm nhận thiên nhiên cũng đang thống khổ, buồn thương, vì thế bởi vốn dĩ:
“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”
Nếu khổ thơ đầu, nỗi buồn nhẹ nhàng, cảnh vật còn mang sự tươi tắn thì đến với khổ thơ hai, cảnh vật nhuốm màu buồn hơn, nỗi buồn và cô đơn cũng vì thế mà thấm đẫm hơn:
'Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?'
Chữ 'kịp' trong câu hỏi tu từ “Có chở trăng về kịp tối nay?” làm nổi bật nỗi hoài vọng của tác giả về một hạnh phúc, về một người có thể cùng thi nhân giao cảm. Trong câu thơ này, ta cảm nhận được sự bất lực trước thời gian của tác giả. Dường như, nhà thơ đã chứa đựng nỗi mặc cảm về căn bệnh khó chữa của mình vào trong từng dòng thơ của mình.
“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra.”
“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà.”
Từ “mơ” ở đầu câu nhấn mạnh giấc mộng của tác giả về một điều đẹp đẽ, có vị khách đường xa tới thăm, cùng đồng điệu, tâm sự với kẻ cô đơn trong cảnh bệnh tật. Điệp từ “khách đường xa” được lặp lại khẳng định khao khát gặp gỡ của Hàn Mặc Tử nhưng có lẽ giấc mộng ấy không thành vì vị khách đã xa lại càng xa.
Bằng ngòi bút tài năng và nội tâm phong phú, Hàn Mặc Tử mang đến cho độc giả những vần thơ đẹp đẽ. Trong chữ có tình, trong tình có chữ, những cảm quan tinh tế gợi cho người đọc dư vị về tình đời qua bài thơ.
Phân tích và đánh giá bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ - Mẫu 2
Hàn Mặc Tử là một nhà thơ sáng tạo nhất trong phong trào thơ mới. Ông để lại cho văn học Việt Nam nhiều tác phẩm có giá trị. Đặc biệt và gây xúc động nhất là bài “Đây thôn Vĩ Dạ”. Bức tranh tuyệt đẹp về miền quê đất nước và tâm hồn của một con người yêu đời, yêu người.
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên.
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
Gió theo lối gió, mây đường mây,
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay…
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó,
Có chở trăng về kịp tối nay?
Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra…
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”
Bài thơ mở đầu bằng một kỷ niệm sâu sắc về cảnh và người thôn Vĩ. Bức tranh thơ đẹp, đầy tình cảm nhớ mong.
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên.
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.”
Mở đầu bài thơ là một lời trách móc nhẹ nhàng, lời mời gọi chân thành và là lời tự hỏi chính mình của nhân vật trữ tình. “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”. Câu hỏi tự đặt nổi bật nhiều màu sắc, thể hiện niềm đau xót, tiếc nuối ngọt ngào. Nhà thơ sử dụng từ “chơi” thay vì “thăm”, từ này gợi lên sự thân mật, gần gũi, thắm thiết. Đó cũng là một câu hỏi đau lòng vì trở về Huế là điều không thể do nhà thơ đang trong giai đoạn cuối của căn bệnh.
Ba câu thơ tiếp theo là hình ảnh thôn Vĩ hiện lên qua cái nhìn tha thiết, mang vẻ đẹp của “hàng cau”, “nắng mới”. Câu thơ với điệp từ “nắng” và cách ngắt nhịp 4/3 gợi ra trong mắt người đọc một không gian đầy ánh sáng. Một vẻ đẹp mượt mà, tươi tốt, đầy sức sống, “vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. Tác giả dùng màu xanh ngọc để diễn tả sức sống, vẻ đẹp thiên nhiên ở thôn Vĩ, một màu sắc cao quý, trong trẻo. Nếu không có một tình yêu sâu sắc nồng nàn đối với Vĩ Dạ thì Hàn Mặc Tử không thể có được những vần thơ trong trẻo như vậy.
Và cảnh đẹp thôn Vĩ càng hấp dẫn hơn bởi sự xuất hiện hình bóng con người “lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Trong thôn Vĩ Dạ kia, nhành lá trúc và khuôn mặt chữ điền sao lại có mối liên quan bất ngờ và đẹp thế: những lá trúc thanh mảnh, thon thả che ngang mặt chữ điền, khuôn mặt ấy chỉ hiện ra thấp thoáng sau lá trúc mơ màng, hư hư thực thực. Trong tâm trí người thi nhân vì thế mà bất chợt hiện về khuôn mặt chữ điền ấy lấp ló sau hàng trúc. Tất cả tạo nên một vẻ đẹp hài hòa giữa con người và cảnh vật và đồng thời thông qua đó, tác giả cho người đọc nhìn thấy được vẻ đẹp phúc hậu, duyên dáng của con người xứ Huế.
Nếu khổ thơ đầu, nhà thơ ngắm cảnh vật với tinh thần lạc quan, yêu đời, thì khi sang khổ thứ hai, tâm trạng của thi nhân dần thay đổi, từ niềm vui chuyển sang lo âu, đau buồn khi tác giả nhận thức về thân phận của mình, ta cảm nhận được sự mong chờ, hy vọng với tuyệt vọng.
“Gió theo lối gió, mây đường mây,
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay…
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó,
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Thôn Vĩ Dạ nằm bên bờ sông Hương yên bình. So với việc mô tả cảnh làng quê ở khổ thơ đầu với tình yêu, tác giả chuyển sang mô tả cảnh sông với sự bàng khuâng, nỗi nhớ mong.
Hàn Mặc Tử đã sử dụng phép nhân hóa để biến dòng sông thành biểu tượng của nỗi buồn sầu của nhà thơ. Nỗi buồn của thi nhân trở nên rộng lớn đến mức lan tỏa khắp cảnh vật, “Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”. Gió và mây, hai hiện tượng luôn đi cùng nhau nhưng ở đây, Hàn Mặc Tử miêu tả chúng như hai đường thẳng, xa cách: “gió theo lối gió, mây đường mây”. Hình ảnh thiên nhiên không hòa hợp do nhận thức về thân phận của người viết.
Hai câu thơ tiếp theo, nhà thơ đưa người đọc vào thế giới mơ màng, đưa vào không gian rực rỡ dưới ánh trăng. Hình ảnh “bến sông trăng” gợi lên vẻ đẹp lãng mạn, huyền bí không có thật.
Câu hỏi “Có chở trăng về kịp tối nay?” là biểu hiện của nỗi lo sợ của tác giả, lo sợ về sự ngắn ngủi của thời gian mà mong muốn giao cảm với cuộc sống vẫn dồn dập, đầy tâm hồn.
Mặc dù sống trong mơ, nhưng thi nhân không mất đi hy vọng, vẫn ước ao:
Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra…
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”
Câu thơ “mơ khách đường xa, khách đường xa” thể hiện sự xa xôi, cách biệt với thời gian và không gian. Màu trắng đại diện cho vẻ đẹp trong trắng, tinh khôi của cô gái Huế, màu trắng ở đây cũng đã trở thành màu của ảo ảnh “áo em trắng quá nhìn không ra” thể hiện sự hư ảo, mơ hồ về hình ảnh người xưa khiến tác giả cảm thấy hụt hẫng, xót xa.
“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh”, nơi mà Hàn Mặc Tử phải dưỡng bệnh, ông luôn coi như là tù ngục giam lỏng mình. Vì vậy, câu thơ như mơ, kỉ niệm chìm vào nơi xứ Huế, nơi mà giai nhân trong mơ vẫn lẻn trong màu khói xương của quá khứ.
Câu hỏi cuối khổ thơ vang lên đầy hoài nghi, đầy khắc khoải về một mối tình vô vọng: “Ai biết tình ai có đậm đà?”, đây là sự hoài nghi của người yêu đời tha thiết. Nhà thơ bộc lộ nỗi cô đơn, trống vắng khi nhớ về quá khứ hay ước vọng không thể, nhà thơ càng thêm đau đơn, điều đó chứng tỏ tình yêu tha thiết cuộc sống của một con người, khát khao yêu thương và gắn bó cuộc đời.
Với những hình ảnh biểu hiện nội tâm, bút pháp gợi tả ngôn ngữ tinh tế, giàu liên tưởng. Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” là bức tranh vẽ đẹp về miền quê đất nước, là một tác phẩm nói lên mối tình đơn phương vô vọng nhưng cũng rất đỗi thiết tha, yêu đời.
Phân tích Đây thôn Vĩ Dạ - Mẫu 3
Ai mua trăng tôi bán trăng cho
Trăng nằm yên trên cành liễu đợi chờ
Ai mua trăng tôi bán trăng cho
Chẳng bán tình duyên ước hẹn thề”.
Ai đã từng sinh ra và lớn lên trên cõi đời này mà không biết đến “lời rao trăng” của Hàn Mặc Tử - một tên tuổi đã in sâu trong lòng độc giả. Tử được biết đến là “một hồn thơ mãnh liệt nhưng luôn quằn quại, đau đớn, dường như có một cuộc vật lộn và giằng xé dữ dội giữa linh hồn và xác thịt”. Tử “đã tạo ra cho thơ của mình một thế giới nghệ thuật điên loạn, ma quái và xa lạ với cuộc đời thực. Có lẽ vì thế mà trong “Thi nhân Việt Nam”, Hoài Thanh và Hoài Chân đã xếp Hàn Mặc Tử vào nhóm thơ “kỳ dị” cùng với Chế Lan Viên. Tuy nhiên, bên những dòng thơ điên loạn ấy, vẫn có những vần thơ trong trẻo đến lạ thường. “Đây thôn Vĩ Dạ” là một bài thơ như thế! Vĩ Dạ được ví như là lời tỏ tình với cuộc đời của một tình yêu tuyệt vọng, yêu một mình nhưng ẩn sâu bên trong đó lại là cả một khối u hoài của tác giả.
Theo nhà thơ Quách Tấn – bạn của Hàn Mặc Tử, bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” được lấy cảm hứng từ một bức ảnh của người con gái tên Hoàng Cúc - một cô gái dịu dàng của xứ Huế. Đây là một kiệt tác của cuộc đời thơ của Hàn, một bài thơ trong trẻo hiếm hoi được viết trong những ngày đau thương, tăm tối nhất của cuộc đời. Đó là thời điểm Hàn đang phải tự cách ly khỏi cộng đồng, sống đơn côi trong một xóm vắng vẻ ở Bình Định để điều trị căn bệnh “quái ác” như người xưa thường gọi.
Xứ Huế từ lâu đã là nguồn cảm hứng sáng tạo cho nghệ sĩ. Từ âm nhạc, hội họa, đến văn chương... mọi thể loại đều để lại “dấu ấn” riêng. Không ít người đã phải thốt lên rằng: “Đã bao lần đến với Huế mộng mơ, tôi ôm ấp một tình yêu dịu ngọt” hoặc “Trở lại Huế, nhớ bài thơ khắc trên chiếc nón, em cầm trên tay ra đứng bên bờ sông... ”, Huế tồn tại trong những câu hát, vần thơ, trong lòng mọi người và nay lại tồn tại trong thơ của Hàn Mặc Tử. Câu hỏi mở đầu đa chiều:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”
Câu hỏi này không chỉ là sự trách móc, mà còn là một lời mời gọi, một sự giới thiệu. Dù chỉ có bảy chữ, nhưng chứa đựng sáu thanh, tạo ra một âm điệu trách móc nhẹ nhàng, thổn thức. Ai đang trách móc, ai đang hỏi? Có lẽ là Hoàng Cúc - cô gái thôn Vĩ mà Tử đã âm thầm yêu trộm nhớ từ lâu. Không, không phải Hoàng Cúc. Câu hỏi đó là của chính Hàn Mặc Tử, từ lòng da diết với Huế để rồi câu hỏi khắc khoải vụt lên. Tử tự hỏi về một việc nên làm từ lâu - quay lại thôn Vĩ, thăm lại kí ức người xưa nhưng lại chưa thực hiện được, và giờ đây Tử không biết liệu có cơ hội đó nữa không. Khát khao, nhớ mong, đầy hoài nghi về khả năng thực hiện ước mơ của mình. Vậy làm sao để thỏa ước mong? Cơ hội quay lại Vĩ Dạ có lẽ không còn. Tử tự cách ly, tuyệt giao với cuộc đời nhưng không tuyệt tình, nhà thơ đã trở về Vĩ Dạ qua ký ức và tưởng tượng, giữ cho tình yêu mãi mãi. Những hình ảnh đẹp nhất về Vĩ Dạ, về Huế lại hiện lên trong trí nhớ của nhà thơ:
“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn xanh mát như ngọc
Lá trúc che kín mặt chữ điền”
Vĩ Dạ hiện lên trong kí ức của Hàn Mặc Tử rất giản dị nhưng cực kỳ đẹp đẽ! Tử đã sử dụng tình yêu thiên nhiên của mình để tạo ra một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp. Thôn Vĩ cũng như Huế chung quanh được mô tả bằng ánh sáng của buổi bình minh và một khu vườn cây quen thuộc. Đây chính là ánh nắng xuất hiện trong bài thơ “Mùa xuân chín” của tác giả:
“Trong làn nắng ửng khói mơ tan
Những mái nhà tranh lấm tấm vàng”.
Ánh nắng trong thơ của Hàn Mặc Tử thường mang một vẻ đẹp đặc biệt, với những “nắng tươi”, “nắng ửng”, và ở thôn Vĩ là “nắng mới lên”. Đây là ánh nắng trong trẻo, tươi mới, làm cho thiên nhiên trở nên ấm áp, đầy sức sống. Những người sống gần cây cau chắc chắn đã biết rằng cau là loại cây cao, thậm chí có thể là cao nhất trong khu vườn. Vì thế, cau là loại cây đầu tiên nhận được ánh nắng sớm mai đầu tiên. Ánh nắng sớm mai rót vào khu vườn, từng bước bao phủ cau, biến khu vườn xanh ngát thành viên ngọc lớn. Khu vườn xanh tươi, đầy sức sống được miêu tả tỉ mỉ, như thể được chăm sóc cẩn thận từng chiếc lá. Trong cảnh đẹp đó, con người xuất hiện làm cho thiên nhiên trở nên sống động hơn. Đó chính là hình ảnh của con người Huế, với gương mặt kín đáo sau những hàng lá trúc. Nhà thơ không mô tả trực tiếp mà thay vào đó là gợi lên bằng ấn tượng để lộ ra vẻ đẹp và tinh tế của con người nơi đây. Cảnh vườn quen thuộc hàng ngày lại trở nên mới mẻ, sôi động hơn khi được tái hiện qua ngòi bút của Hàn Mặc Tử, làm cho nó trở nên đầy hấp dẫn và sôi động! Có lẽ, ở đây không chỉ là về góc nhìn, kỹ thuật mô tả cảnh quan và con người mà hơn hết là về tình yêu tha thiết của thi sĩ đối với cảnh vật và con người Huế.
Dù vẫn là tình yêu đời, nhưng trong khổ thơ thứ hai, nó đã biến thành một hình thức khác với những hình ảnh không còn đẹp đẽ, ấm áp mà tan tác, chia ly:
“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”
Hai câu thơ này nói về một thực tại phiêu lưu. Tất cả đều dường như đang mất đi, gió thổi đi theo một hướng, mây trôi đi theo một đường ... Hình ảnh trong thơ mang lại cảm giác không logic nếu nhìn từ góc độ tự nhiên, vì thường thì gió thổi mây bay, gió và mây di chuyển cùng một hướng, nhưng ở đây, chúng bỗng chia ly. “Gió” và “mây” được đẩy ra hai phía cực kỳ xa của câu thơ, tạo ra cảm giác cô lập mênh mông và cảm giác trống rỗng lan tỏa khắp câu thơ. Sử dụng hình ảnh của gió và mây, tác giả muốn diễn đạt tâm trạng của bản thân, sự cô lập với cuộc sống đầy màu sắc và có thể sự cô lập đó sẽ kéo dài mãi mãi vì Hàn Mặc Tử hiện giờ đã trở thành một người vô gia cư, đang chờ đợi cái chết. Dòng sông (mà chúng ta có thể hiểu là sông Hương) mang một diện mạo ủ ẹo, “buồn thiu”, gần như không còn một gợn sóng nào. Hàn Mặc Tử đã thông minh biến dòng sông thành một hiện thân con người, khiến cho “dòng nước buồn thiu”. “Dòng nước buồn” mang trong mình một tâm trạng buồn hoặc nỗi buồn chia ly của gió - mây đã trao cho dòng sông? Không chỉ riêng dòng sông mà cả hình ảnh “hoa bắp lay” cũng gợi lên một nỗi buồn lẻ loi - một nỗi buồn tràn ngập từ bầu trời đến mặt đất. Và phía sau gió, mây, đất, nước chính là tâm trạng của một con người mang nặng một nỗi buồn xa cách, một mối tình vô vọng, tất cả chỉ còn lại trong giấc mơ.
Trên dòng thời gian đang trôi đi, bay đi, chảy đi, phiêu lưu ấy, Hàn Mặc Tử mong ước có một điều có thể chống lại dòng chảy đó là trăng:
“Thuyền nào đã đậu bến sông trăng kia
Có chở trăng về kịp tối nay không?”
Trong thơ ca từ xưa đến nay, hình ảnh thuyền và dòng sông luôn là quen thuộc, đặc biệt là trong thơ về Huế. Nhưng điều mới lạ, đặc biệt trong thơ của Hàn, là hình ảnh con thuyền “chở trăng” trôi trên dòng “sông trăng”. Sự liên tưởng phong phú, tinh tế của thi sĩ đã tạo ra hình ảnh trôi giữa thực - ảo. Không rõ liệu dòng nước đang biến thành dòng trăng hay ánh trăng đang tan thành nước, chỉ biết rằng dòng sông đã trở thành một dòng ánh sáng từ lúc nào đó, bến sông trở thành “bến trăng” và con thuyền cũng chở đầy trăng. Hình ảnh thực biến thành hình ảnh mộng mơ, đẹp lung linh, huyền diệu. Nhưng Hàn Mặc Tử vẫn mong muốn có được trăng, mong con thuyền chở trăng kia có thể về “đúng giờ” với mình vào “tối nay”. Tất cả hy vọng của Hàn đặt hết vào con thuyền kia, một hy vọng mà dường như không có gì chắc chắn, không có gì an tâm. Từ “kịp” trong câu thơ mang lại cảm giác lo lắng, phấn đấu. Nó đặt ra vấn đề của thời gian. Nó mở ra cảm giác về một hiện tại ngắn ngủi. Có vẻ như Hàn Mặc Tử đã chờ đợi trăng từ lâu, và cảm nhận rằng không thể chờ đợi nữa, con người có thể bị tách rời khỏi cuộc sống bất cứ lúc nào, thậm chí khi chưa thể tận hưởng vẻ đẹp của trăng, sự mơ mộng của cuộc sống. Do đó, cùng với nhận thức về sự ngắn ngủi của cuộc đời, từ “kịp” cũng mở ra cho người đọc thấy một tâm trạng sống của Hàn Mặc Tử: sống là chạy đua với thời gian, tận hưởng từng khoảnh khắc của cuộc đời vì một sự chia ly vĩnh viễn đang đến gần ... Sống là đấu tranh không ngừng với thời gian, điều này Hàn Mặc Tử cảm nhận và Xuân Diệu gặp nhau, bởi cả hai nhà thơ đều yêu cuộc sống đến điên dại, đều trân trọng từng khoảnh khắc sống ở trần gian. Nhưng tâm trạng sống của mỗi người một khác. Cái tôi của Xuân Diệu cảm nhận về “cái chết” luôn chờ đợi ở “cuối con đường”, nên cố gắng tận hưởng “tối đa” hạnh phúc trần thế. Trong khi đó, cái tôi của Hàn Mặc Tử cảm nhận rằng “cái chết” đã “gần kề”, nên “được sống” là một niềm hạnh phúc.
Tiếp nối dòng thơ trước đó, khổ thơ thứ ba thể hiện một niềm hy vọng không ngừng của thi sĩ trong sự mênh mông, rộng lớn của đất trời. Đó là hy vọng, đợi chờ, mong mỏi và niềm khắc khoải không nguôi.
“Trong mơ khách xa xứ, khách đường xa xứ
Áo em quá trắng, trắng không thể nhận ra
Ở đây, sương khói mờ nhạt hình bóng
Chỉ có ai biết tình yêu của ai đã sâu đậm?”
Nếu tình yêu trong đời ở hai khổ thơ trước chủ yếu đề cập đến cảnh đẹp, thì khổ thơ cuối cùng khép lại bài thơ bằng tình yêu dành cho con người, nếu trước đó là vườn đẹp, trăng đẹp thì ở đây là người đẹp. Dễ dàng nhận ra hình ảnh “khách đường xa” ở đây chính là đối tượng mà cái tôi muốn nắm bắt. Có thể là Hoàng Cúc (người gửi ảnh, người Hàn thầm nhớ), hoặc là cô gái xứ Huế (nữ sinh Đồng Khánh với chiếc áo trắng tinh khôi), hoặc cũng có thể là mọi người nói chung. Dù là ai thì khoảng cách giữa thi sĩ và họ vẫn rất xa. Xa vì họ là “khách”, xa hơn nữa vì ở “đường xa”, lại xa hơn nữa vì sắc áo “quá trắng”, trắng đến không thực, đến hư ảo, đến nao lòng, và xa vời vợi đến mức không thể nắm bắt, không thể hiểu được khi lạc trong “sương khói”. Những hình ảnh đó không phải là thực, chỉ là “mơ màng”.
Tất cả lúc này chỉ còn lại mơ màng, không thực tế. Tử cố níu kéo, cố bám víu nhưng không thành công vì cảnh và cuộc sống chỉ là “sương” và “khói”. Cảm giác như đang trượt dài, trống trải nên đôi khi thi sĩ rơi vào hoài nghi:
“Ai biết tình yêu của ai đã sâu đậm?”
Hai từ “ai” ở đây chỉ vào hai đối tượng: chủ thể trữ tình và đối tượng mà chủ thể trữ tình muốn diễn đạt, dù hiểu thế nào đi nữa, dù “ai” là “ai” đi nữa thì cuối cùng vẫn là tình yêu ấy, của cái tôi ấy – Hàn Mặc Tử, trên hành trình không mong muốn đã gần đến cõi “thượng thanh khí”, vẫn còn đau đáu, mong chờ, khắc khoải nhìn lại cuộc sống để yêu, để gắn bó. Yêu cuộc sống đã là quý, yêu trong tuyệt vọng, càng tuyệt vọng lại càng yêu, một loại tình yêu được thử thách và vượt qua cái chết, liệu tình yêu đó có đáng quý hơn?
“Đây là thôn Vĩ Dạ” một tấm tranh tuyệt đẹp về cảnh sắc và con người của miền quê Việt Nam, được thể hiện qua trái tim mộng mơ, giàu tưởng tượng và tràn đầy tình yêu của một nhà thơ đa cảm, đa tình. Sử dụng kỹ thuật nghệ thuật liên tưởng kết hợp với những câu hỏi sâu sắc, tác giả Hàn Mặc Tử đã vẽ nên một bức tranh nên thơ, tràn đầy sức sống, và ẩn chứa trong đó là nỗi lòng của chính ông: nỗi đau trước sự cô đơn, nhàm chán của cuộc sống, và đau thương cho số phận ngắn ngủi của mình. Mặc dù vậy, ta vẫn cảm nhận được sau nỗi đau ấy là một Hàn Mặc Tử với tình yêu mãnh liệt đối với thiên nhiên, nồng nàn, và khát khao một cuộc sống ấm áp bởi ông mang trong lòng mình một trái tim luôn rung động với tình yêu.
Bài thơ “Đây là thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử khiến người đọc đầy xúc động, đọng lại trong tâm hồn và kết thúc trên kệ sách của độc giả. Tuy nhiên, những cảm xúc về nó có lẽ vẫn đang chạm vào lòng người. Sự đau đớn, không nguôi ngủ khiến ta nhận ra một tình yêu trong nỗi đau. Đó là tình yêu sâu đậm của một thi sĩ với cuộc sống trong bản thân cảm giác buồn bã, đau đớn khi sắp phải chia lìa, tách biệt với cuộc sống.
Phân tích Đây là thôn Vĩ Dạ cho học sinh giỏi - Mẫu 4
Trong phong trào thơ Mới, Hàn Mặc Tử là một trong những cái tên nổi bật nhất với lối thơ độc đáo vừa lãng mạn, trẻ trung, vừa đau đáu, day dứt, tất cả đều đến từ cuộc đời với quá nhiều đắng cay, đau khổ của người nghệ sĩ trẻ. Đây là thôn Vĩ Dạ là một trong những tác phẩm nổi bật và xuất sắc nhất trong sự nghiệp sáng tác của Hàn Mặc Tử, đồng thời cũng là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của phong trào thơ Mới. Bài thơ này mang đậm dấu ấn của tác giả với những nội dung trong sáng, tươi mới, bộc lộ tấm lòng yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống, đồng thời cũng bộc lộ những nỗi ám ảnh, tiếc nuối của tác giả trước số phận khắc nghiệt của mình qua những vần thơ phức tạp, kỳ dị, xen kẽ giữa cảnh thực và cảnh mơ.
Hàn Mặc Tử là một nhà thơ tài năng, nhưng số phận ông lại nhiều bi kịch khi bị mắc phải căn bệnh phong quái ác khi còn trẻ, khi sự nghiệp của ông đang ở thời kỳ phát triển mạnh mẽ nhất. Trong tình yêu, Hàn Mặc Tử cũng gặp nhiều bi kịch, những tổn thương, đau đớn. Trong những năm cuối đời, ông trở về Quy Nhơn để chữa trị, bỗng nhận được một bức thiếp in hình phong cảnh Huế, trên đó là những dòng chữ của nàng Kim Cúc, người mà Hàn Mặc Tử vẫn thường nhớ. Chỉ những điều đó đã đủ để đánh thức trong trái tim cô đơn của ông những cảm xúc hạnh phúc, vui vẻ, lòng ông dạt dào nhớ về Huế, nhớ về một xứ Huế đẹp tươi, và cũng bộc lộ mong muốn sống, mong muốn hạnh phúc tột cùng thông qua những vần thơ đẹp, trong trẻo.
“Tại sao anh không về thăm thôn Vĩ?
Chiêm ngưỡng ánh nắng rọi lên hàng cây cau mới mọc
Vườn nào mà màu mỡ quá, xanh như ngọc
Lá trúc mát dịu che chắn bóng nằm của chữ điền”
Khúc đầu bài thơ mang một lời hỏi dễ thương, hồn Huế “Tại sao anh không về thăm thôn Vĩ?”, có thể là lời trách móc thương tình của một người con gái mong chờ người yêu về thăm Huế, hoặc là một lời mời thân mật từ người bạn xa, muốn tác giả trở lại Huế, thăm lại cố đô yên bình. Trong lời hỏi ấy, ta cảm nhận được tâm trạng của Hàn Mặc Tử, liệu ông có đang tự hỏi tại sao mình không thể trở về quê cũ, thể hiện sự bất lực trước bệnh tật, khó khăn của bản thân.
Trong ký ức, thôn Vĩ hiện ra với hình ảnh đặc trưng, những hàng cây cau thẳng tắp dưới ánh nắng sớm. Hình ảnh “nắng hàng cau” đặc biệt, có tính tổng quát và ấn tượng, nắng sớm tức là nắng đã lên, mặt trời cao, ấm áp, không gắt như ban trưa. Giữa không gian đó, ánh nắng chiếu rọi, phủ lên cây cau xanh mướt, mở ra một không gian tràn đầy sức sống, cũng như bình yên nơi làng quê. “Vườn nào mà màu mỡ quá, xanh như ngọc”, từ “vườn nào” mang sự ấm áp của tình người, làm cho khung cảnh trở nên hài hòa hơn, khi con người hòa quyện với thiên nhiên.
Những từ “mướt quá”, “xanh như ngọc” tài tình, tinh tế của Hàn Mặc Tử khi nhớ lại thôn Vĩ Dạ. Chúng mở ra một bức tranh thiên nhiên tươi mới, trong trẻo, tinh khiết, đầy sức sống. Đó là cảnh non xanh mướt của lá cây, là sự mát dịu của sương sớm, ánh nắng sưởi ấm làm cho chúng trở nên đẹp như ngọc bích, khiến người ta trầm trồ. Cuối cùng, bút pháp của Hàn Mặc Tử đã làm rõ vẻ đẹp của người phụ nữ Huế, “Lá trúc mát dịu che chắn bóng nằm của chữ điền”, với vẻ đẹp dịu dàng, mềm mại, thông minh của người con gái Huế.
Ở khổ thơ đầu tiên, Hàn Mặc Tử nhìn đời, nhìn con người với tinh thần lạc quan, tràn đầy hy vọng, bằng bức tranh thiên nhiên tươi sáng, trong trẻo. Đến khổ thơ tiếp theo, tâm trạng của tác giả đã thay đổi khi thấy sự biến đổi giữa ngày và đêm, giữa hai bức tranh thiên nhiên khác nhau.
“Gió theo dòng mây, mây theo dòng gió
Dòng nước buồn bã, hoa bắp uốn lượn
Thuyền ai neo bến, sông trăng nguyên vẹn
Có mang trăng về, dẫu mờ mịt cũng được”
Từ bức tranh thiên nhiên sáng sủa, Hàn Mặc Tử chuyển sang cảnh đêm tối với bức tranh sông nước u tối, hiện lên cảm giác trống trải, cô độc của tác giả. Hình ảnh “Gió theo dòng mây, mây theo dòng gió” buồn bã, gợi cảm giác chia ly, tan rã. Trong thơ, gió và mây thường liên kết, nhưng ở đây chúng tách biệt, có thể tượng trưng cho tình yêu tan vỡ của Hàn Mặc Tử. Câu hỏi cuối cùng gợi nhớ đến nỗi lo lắng, hy vọng mong manh của tác giả.
Tiếp theo, “Dòng nước buồn bã, hoa bắp uốn lượn” thể hiện sự u tối của số phận. Hình ảnh “hoa bắp uốn lượn” mờ nhạt, thể hiện sự mất mát, lụi tàn. Điều này gợi nhớ đến những nỗi đau mà Hàn Mặc Tử phải đối mặt.
Trong cảnh bến sông, ánh trăng sáng, câu hỏi “Thuyền ai neo bến, sông trăng nguyên vẹn” thể hiện sự mong đợi, lo lắng của tác giả. Hình ảnh này đậm chất lãng mạn và nỗi lo sợ của Hàn Mặc Tử.
“Mơ về du khách xa xứ, áo em trắng xóa
Ở đây sương khói phủ kín, tình yêu ai còn đọng lại
Đang sống trong thế giới hiện thực, Hàn Mặc Tử bước vào thế giới của ảo mộng, thể hiện sâu sắc sự phức tạp và khó hiểu nhất trong thơ Việt hiện đại. “Mơ về du khách xa, du khách xa”, đó là một câu thơ huyền bí, không rõ ý, lặp lại “du khách xa” nhấn mạnh sự xuất hiện của nhân vật này, tuy nhiên càng lặp lại càng làm mờ đi. Khách du kia đến từ trong giấc mơ, không rõ danh tính, không rõ diện mạo, chỉ biết rằng họ đang ngày càng xa vời, xa mãi không quay trở lại, tượng trưng cho sự bất khả trở lại của Hàn Mặc Tử trong tình yêu với Kim Cúc xứ Huế, cũng như sự tồn tại của ông trên thế giới ngày càng trở nên mong manh, mờ mịt. Tác giả đã cách biệt với thế gian, trở thành một du khách xa lạ, đi qua một đoạn đường ngắn ngủi chỉ khoảng 28 năm, rồi rời đi không dấu vết, đi vào bóng tối vô hình, tưởng nhớ đó khiến người ta vừa đầy ám ảnh, vừa đau lòng cho cuộc đời thi sĩ.
Tiếp theo, “Áo em trắng quá nhìn không ra”, là bóng dáng mờ nhạt của người con gái ông yêu trong tiềm thức, thể hiện khoảng cách ngày càng xa cách giữa ông và nàng, không chỉ về vị trí địa lý, mà còn về tâm hồn, sự chia lìa không thể khắc phục. Chính những khoảng cách đó, đã làm cho Hàn Mặc Tử ngày càng tuyệt vọng, và hình bóng cô gái xưa ngày càng trở nên mơ hồ, ông không thể nhìn rõ, chạm không được, muốn mà không thể đạt được đầy đau lòng. Để giải thích cho sự mơ hồ, không rõ của nhân vật “em”, tác giả viết “Ở đây sương khói mờ nhân ảnh”, thảo luận về lý do tại sao sương mù mù mịt xứ Huế khiến ông không thể nhìn rõ, nhưng nó lại làm nổi bật sự mơ hồ, tuyệt vọng của Hàn Mặc Tử trước cuộc sống, khi ông không thể xuyên thấu bức màn sương để tìm thấy bóng dáng yêu thương, cũng không thể đối phó với số phận từ chối cái chết.
Sự đau khổ, cảm giác số phận đã khiến tác giả không thể mở rộng lòng mình để hiểu rõ tình cảm của Kim Cúc, cũng như không thể thoát khỏi những ảo mộng dày đặc, trước tình trạng này ông chỉ còn có thể thốt lên “Ai biết tình ai có sâu đậm?”, đó như là lời gửi đến người con gái xa xôi liệu có còn nhớ mong kẻ tội nghiệp này, rồi cũng là lời trách móc đau lòng khi lòng ông lo sợ Kim Cúc không còn quan trọng với đoạn tình yêu này từ lâu. Cuối cùng đó còn có thể là lời yêu ông muốn gửi một cách sâu sắc, kín đáo vì biết mình không còn sống được bao lâu đến cô gái xứ Huế, ông muốn nàng biết tình cảm của mình, nhưng cũng muốn nàng không biết, sự phức tạp và mâu thuẫn đó bắt nguồn từ một tâm hồn chịu nhiều tổn thương, đồng thời đang tiến dần về những ngày cuối cùng của cuộc sống trần thế, chính lẽ đó người ta không thể có quá nhiều tự tin, hay là đặt quá nhiều hi vọng, tình yêu cho một ai khác. Thà rằng ôm lấy nỗi đau, tình yêu tuyệt vọng ấy một mình cho đến khi kết thúc cuộc đời ngắn ngủi.
Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những tác phẩm nổi bật và đặc biệt nhất trong thơ của Hàn Mặc Tử khi chứa đựng đầy đủ phong cách sáng tạo của ông, đồng thời nội dung thơ sâu sắc với nhiều cảm xúc phong phú được thể hiện trong các hình ảnh thiên nhiên từ buổi sáng đến tối muộn, từ cảnh thực đến cảnh ảo. Bộc lộ được tài năng sáng tạo, cũng như một tâm hồn dù chịu nhiều tổn thương, bất hạnh, nhưng vẫn giữ vững tấm lòng yêu cuộc sống, những khát vọng hạnh phúc, tình yêu giản dị, dù cho điều đó với người nghệ sĩ đã quá xa xôi.
Phân tích ngắn nhất về Đây thôn Vĩ Dạ - Mẫu 5
Khi nhắc đến Hàn Mặc Tử, không ai có thể quên bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ - một trong những kiệt tác vĩnh cửu của ông. Bài thơ được lấy cảm hứng từ bức ảnh của Hoàng Thị Kim Cúc - người con gái mà ông thầm yêu. “Đây thôn Vĩ Dạ” được sáng tác khi ông đang điều trị bệnh ở Quy Hòa, vì thế mỗi câu từ trong tác phẩm đều chứa đựng một khao khát giao cảm của nhà thơ.
'Tại sao anh không ghé qua thôn Vĩ?'
Câu hỏi nhẹ nhàng ở đầu bài thơ thể hiện sự mong chờ, trông chờ của người con gái ở thôn Vĩ. Nó không chỉ là lời trách móc với chút phẩy phở, mà còn là lời mời gọi, hy vọng. Lời thơ như tiếng đập của trái tim người xứ Huế, vừa sâu lắng lại vừa dịu dàng.
Sau câu hỏi nhẹ nhàng là bức tranh sinh động, tươi sáng của thôn Vĩ hiện ra trước mắt:
“Dáng nắng chiều phủ trên hàng cây cau mới mọc
Thấy vườn ai xanh tốt đến thế
Cỏ trúc bóng mát bao bọc cánh đồng”
Có lẽ vì lời mời gọi tha thiết ấy, mặc dù đôi chân không thể trở về Huế, Hàn Mặc Tử vẫn quyết định trở về trong tâm trí để ngắm nhìn và thưởng thức vẻ đẹp của quê hương, người yêu. Hình ảnh đầu tiên mà ta nhìn thấy là “nắng hàng cau” - một màu nắng đặc biệt trong thơ ca. Đó là ánh nắng tươi mới của buổi sớm bình minh ở Huế - “nắng mới lên”, những hàng cây cau mới thức giấc dưới làn sương long lanh dưới ánh nắng ban mai. Khi nhìn từ xa, ánh nắng hàng câu, và khi đến gần hơn, cảm nhận rõ hơn về vẻ đẹp của cảnh quan. Màu xanh ngọc bích tươi tắn và sang trọng được thể hiện từ vẻ đẹp của khu vườn. Từ “mướt” nhấn mạnh vẻ non nớt, mềm mại và mỡ màng của lá cây. Có lẽ, vườn được tưới tắm bởi hương vị của tự nhiên và chăm sóc bởi bàn tay tài ba của con người trở nên đẹp đẽ hơn, tươi mới hơn. Bóng dáng của người con gái kín đáo, e ấp bước ra từ khu vườn cổ tích, ẩn hiện dưới lá trúc xanh tạo thêm vẻ đẹp cho không gian và con người Huế. Ẩn trong từng câu thơ trong sáng, duyên dáng và tươi mới ấy là một tâm hồn đầy khao khát, khao khát giao cảm, trở về với quê hương, gặp lại người yêu sau những tháng ngày xa cách. Nhưng có lẽ điều đó thật khó khăn.
Nếu khổ thơ đầu tiên gợi lên ấn tượng về buổi sáng tươi mới, thì khổ thứ hai dẫn chúng ta vào không gian thuyền nước, sông trăng vào buổi chiều tối:
“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay
Gió và mây gợi lên sự trôi chảy, lang thang, biểu hiện “gió theo lối gió, mây đường mây” nhấn mạnh sự chia lìa. Có lẽ, đó là hình ảnh ẩn dụ cho sự xa cách giữa nhà thơ và người ông thầm yêu, dù yêu nhưng không thể cùng nhau trong cuộc sống ngắn ngủi còn lại. Sự nhân hóa của “dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay” nhấn mạnh nỗi buồn trong tâm trạng của nhà thơ, nỗi buồn thấm vào cảnh vật, hoặc chính tâm hồn của nhà thơ đang chịu nỗi buồn, cảm thấy thiên nhiên cũng đau đớn, buồn bã, bởi vốn dĩ:
“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”
Nếu khổ thơ đầu, nỗi buồn nhẹ nhàng, cảnh vật còn mang sự tươi tắn thì đến với khổ thơ thứ hai, cảnh vật nhuốm màu buồn hơn, nỗi buồn và cô đơn cũng vì thế mà thấm sâu hơn:
'Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?'
Chữ 'kịp' được đặt trong câu hỏi nhẹ nhàng “Có chở trăng về kịp tối nay?” để thể hiện niềm hy vọng của tác giả về một hạnh phúc, về một người có thể chia sẻ cùng nhà thơ. Trong câu thơ, ta thấy sự bất lực trước thời gian của tác giả. Dường như, nhà thơ đã gửi nỗi lo về căn bệnh quái ác của mình vào trong cả tứ thơ của mình.
“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra.”
“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà.”
Từ “mơ” được đặt ở đầu câu nhấn mạnh giấc mơ của tác giả về một điều đẹp đẽ, có một người khách xa xôi đến thăm, cùng chia sẻ, tâm sự với kẻ cô đơn trong cảnh bệnh tật. Điều từ “khách đường xa” được lặp lại càng khẳng định khát khao gặp gỡ của Hàn Mặc Tử nhưng có lẽ ước mơ đó không thể thành hiện thực vì khách đã xa vời.
Bằng bút tài và trái tim giàu nghệ thuật, Hàn Mặc Tử đã tạo ra những bài thơ đẹp đẽ. Trong từng chữ viết, từng cảm xúc được lồng ghép, người đọc cảm nhận được hương vị của cuộc sống qua những dòng thơ.
Đây thôn Vĩ Dạ phân tích - Mẫu 6
Hàn Mặc Tử được biết đến là một nhà thơ tài năng xuất sắc. Các tác phẩm của ông thường ít kể, thể hiện sâu sắc tâm trạng và cảm xúc bên trong. “Đây thôn Vĩ Dạ” – một trong những tác phẩm nổi tiếng của ông, đã để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng độc giả. Bài thơ được sáng tác trong thời gian Hàn Mặc Tử nằm trên giường bệnh. Không chỉ thể hiện sự nhớ mong, tình yêu đối với người con gái xứ Huế, với vẻ đẹp của thôn Vĩ mà còn chứa đựng sự cô đơn, nuối tiếc và nỗi buồn trong lòng tác giả.
Mở đầu bài thơ là một câu hỏi nhỏ nhắn nhưng ẩn chứa nhiều ý nghĩa sâu xa, đã trở thành tâm điểm của nhiều cuộc tranh luận văn học:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ ?”
Có người cho rằng, khi Hàn Mặc Tử, nhà thơ đang điều trị căn bệnh nan y, nhận được tấm ảnh và lời thăm hỏi từ Hoàng Thị Kim Cúc, người con gái mà ông thầm mong chờ, đã sử dụng câu hỏi của cô để bắt đầu bài thơ của mình. Câu hỏi đầu tiên thể hiện sự trách móc nhẹ nhàng của người con gái. Hoặc có thể là ông tự đặt câu hỏi này cho chính bản thân mình, tự hỏi tại sao đã lâu không trở về thăm quê hương.
Trong khổ thơ đầu tiên, bài thơ đã đưa người đọc đến với một thôn làng thơ mộng và đẹp đẽ:
“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc?
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.”
Những hình ảnh thân thuộc và đặc trưng của thôn Vĩ như “hàng cau”, “vườn ai” được tái hiện một cách tinh tế trong ba câu thơ đầu tiên. Hình ảnh của những hàng cây cau bắt đầu tươi sáng dưới ánh nắng mới, với khu vườn xanh mướt như ngọc. Cách sử dụng từ ngữ tinh tế như “nắng mới”, “mướt” giúp thể hiện một khung cảnh tươi đẹp và đầy sức sống. Biện pháp so sánh trong câu thơ thứ ba, “xanh như ngọc”, làm nổi bật vẻ đẹp của thôn làng. Hình ảnh của lá trúc che phủ mặt đất tạo ra bức tranh tươi đẹp và mạnh mẽ, thể hiện lòng trung thành và nhân ái của cư dân nơi đây.
Nếu khổ thơ đầu tiên mang lại một không gian tươi mới và vui vẻ, thì ở khổ thơ thứ hai, chúng ta chứng kiến sự đau khổ và buồn bã trong lòng nhà thơ:
“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”
Thường nghe người ta nói “gió thổi, mây bay” vì gió và mây thường đi cùng nhau, kết nối, hòa quyện với nhau. Tuy nhiên trong câu thơ này thì gió đi theo một lối, mây đi theo một đường. Với nhịp thơ dứt khoát 4-3, câu thơ thể hiện sự chia lìa, xa cách. Nhà thơ tiếp tục sử dụng biện pháp nhân hóa tài tình trong câu thơ tiếp theo với hình ảnh “dòng nước buồn thiu” kết hợp với hình ảnh “hoa bắp lay”. Điều đó dường như hé lộ một nỗi buồn mang mác của người thi sĩ lúc này bởi lẽ “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.
Càng đọc những câu thơ tiếp, người đọc càng dần thấy được một Hàn Mặc Tử cô đơn, u sầu và hướng nội:
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Trong thơ ca xưa nay, người ta thường thấy hình ảnh của trăng được rất nhiều thi nhân đưa vào trang viết của mình. Nếu nhà thơ Lý Bạch có “Ngẩng đầu ngắm trăng sang – Cúi đầu nhớ cố hương”, Bác Hồ có “trăng vào cửa sổ đòi thơ” thì Hàn Mặc Tử cũng góp vào nguồn cảm hứng vô tận ấy hình ấy một “bến sông trăng” và con thuyền “chở trăng”. Có lẽ hình ảnh ẩn dụ “sông trăng” và thuyền “chở trăng” là hai hình ảnh cực kỳ đắt giá và mang nhiều ý nghĩa nhất trong khổ thơ này. “Trăng” ở đây có thể hiểu như một người bạn tri kỷ mà lúc cô đơn này nhà thơ rất cần để giãi bày tâm sự. Nếu đặt vào hoàn cảnh sáng tác và kết hợp với nội dung khổ thơ đầu, người đọc cũng có thể hiểu rằng trăng chính là nhà thơ. Bởi lẽ ở khổ thơ đầu hình ảnh thôn Vĩ và con người đáng yêu đến thế thì hình ảnh thuyền “chở trăng về” chính là hình ảnh ẩn dụ một mong ước của thi nhân được trở về mảnh đất ấy. Hai từ “thuyền ai” cùng câu hỏi tu từ cuối khổ thơ dù thể hiện nỗi niềm đau đáu nhớ về thôn Vỹ, mong muốn về thăm nhưng dường như lại chất chứa cả một nỗi khác khoải, cô đơn của nhà thơ khi biết mình đang mang bệnh khó có thể trờ về.
Sau những hình ảnh buồn man mác và sự cô đơn trong lòng thi sĩ, bài thơ lại đưa ta đến với một cõi mộng ảo, hư hư thực thực với sự chới với, vô vọng trong trái tim tác giả:
“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Aó em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”
Với điệp từ “khách đường xa” được nhấn mạnh hai lần, câu thơ thể hiện một sự xa cách vô cùng. Vậy vị ‘khách đường xa” ấy là ai? Có thể đó chính là nhà thơ – một vị khách đường xa muốn trở về thăm xứ Huế. Khổ thơ không chỉ có vị khách mà còn có hình ảnh người em áo trắng. Trong một số tài liệu có viết rằng bà Hoàng Thị Kim Cúc gửi cho ông một tấm bưu ảnh phong cảnh đẹp đẽ, một số tài liệu lại cho rằng đó là bức hình của bà mặc một chiếc áo dài. Và dù theo tài liệu nào thì người ta cũng vẫn ngầm hiểu rằng hình ảnh cô gái áo trắng trong bài thơ chính là Hoàng Cúc – người mà thi sĩ thầm thương bấy lâu. Hình ảnh “trắng” “ nhìn không ra” cùng “sương khói mờ nhân ảnh” đã đưa độc giả đến một cõi xa xôi nào đó, mờ mờ ảo ảo. Dường như niềm thương, nỗi nhớ và mong ước trở về thăm lại người xưa chốn cũ của nhà thơ với con thuyền chở trăng khó kịp nên ông đã vào tận trong cõi mơ để tìm kiếm. Nhưng có lẽ cuộc tìm kiếm ấy vẫn chới với, vô vọng khi thi sĩ thốt lên “Ai biết tình ai có đậm đà?”. Lại một lần nữa nhà thơ tự hỏi lòng mình – một câu hỏi không biết có lời giải đáp ấy lại càng cho thấy rõ sự khắc khoải vô cùng của nhà thơ. Nếu khổ thơ đầu có “vườn ai”, khổ thơ thứ có “thuyền ai” thì khổ thơ thứ ba lại có “tình ai” nằm trong những câu hỏi tu từ ở mỗi khổ đều có sức truyền cảm lớn đến trái tim của người đọc và thể hiện tài năng sử dụng ngôn từ tài tình bậc thầy với lời ít nhưng ý nhiều của nhà thơ Hàn Mặc Tử.
Gấp lại trang thơ, hình ảnh miền quê tươi đẹp, trù phú và con người xứ Huế cùng tình yêu của nhà thơ với mảnh đất yên bình thôn Vĩ vẫn khắc sâu trong tâm trí độc giả. Bằng cách sử dụng ngôn ngữ tài tình và các biện pháp tu từ một cách khéo léo, bài thơ cũng mang cho người đọc một sự thấu hiểu về sự cô đơn khắc khoải và mong ước trở về với mảnh đất đẹp đẽ cũng như mong ước trở về với cuộc sống đời thường của nhà thơ Hàn Mặc Tử. “Đây thôn Vĩ Dạ” sẽ mãi ghi dấu ấn trong trái tim bạn đọc, đóng góp một tác phẩm xuất sắc cho nền thi ca nước nhà.
Phân tích bài Đây thôn Vĩ Dạ lớp 11 - Mẫu 7
Hàn Mặc Tử, một trong những nhà văn xuất sắc nhất của phong trào thơ mới trong thập niên 1932-1945, để lại nhiều tác phẩm đáng chú ý. Trong số đó, 'Đây thôn Vĩ Dạ' có lẽ là tác phẩm ghi dấu sâu sắc nhất trong sự nghiệp văn chương của ông. Bài thơ tạo ra bức tranh hài hòa giữa vẻ đẹp tự nhiên tươi mới của xứ Huế và bức tranh tâm trạng của một cá nhân trăn trở, đầy lo lắng nhưng lại yêu đời, khao khát giao cảm với cuộc sống, với con người.
Câu hỏi tu từ 'Sao anh không về chơi thôn Vĩ?' như một lời mời đầy tha thiết và nhẹ nhàng của một người con gái Huế. Đằng sau sự trách móc nhẹ nhàng là lời mời chân thành và ân cần: 'Sao anh không về chơi'. Tác giả không dùng từ 'thăm' mà thay vào đó là 'chơi', để thể hiện sự thân mật, gần gũi. Điều đó cũng là câu hỏi mà nhà thơ tự đặt ra cho chính mình, tự trách mình tại sao đã lâu không trở về với quê nhà, với người xưa, và giờ đây, trong lúc bị bệnh, chỉ còn lại những nuối tiếc, những suy tư. Trong câu thơ chứa đựng cả niềm khao khát được trở về với thôn Vĩ thân thương.
Từ nỗi nhớ, bức tranh thôn Vĩ hiện ra trước mắt qua từng dòng thơ, một bức tranh Vĩ Dạ đẹp đẽ, tươi mới và tràn đầy sức sống:
'Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên'
Cây cau là biểu tượng của làng quê Việt Nam, gắn với tình yêu đôi lứa trong truyện cổ tích. Trong thơ của Hàn Mặc Tử, cau kết nối với kỷ niệm, với vẻ đẹp của thiên nhiên. 'Nắng hàng cau' là hình ảnh tươi mới của ánh nắng sớm mai. Màu sắc của nắng hàng cau là một màu sắc mới lạ, mà trước đó chưa có thi nhân nào gợi lên được. Những tia nắng mới soi rọi lên những chiếc lá cau, tạo nên vẻ rực rỡ, lung linh. Thiên nhiên trở nên tươi mới, thanh thoát, không gian trở nên mở rộng và phong phú. Ánh nắng hàng cau làm sáng rực cả một khu vườn thơ mộng, tràn đầy hương vị quê hương.
Ở xa xa, bóng dáng của cây cau hiện ra. Khi lại gần, khu vườn trở nên càng đẹp hơn, tươi mới hơn. Có những cây lấp lánh trong màu xanh sáng, xanh mơn mởn, mịn màng:
“Vườn này mướt quá, xanh như ngọc”
Câu thơ như một lời ngạc nhiên thán phục của tác giả trước vẻ đẹp thiên nhiên tinh khôi, được chăm sóc cẩn thận bởi đôi bàn tay tài hoa của người làm vườn. Từ “mướt” làm nổi bật sắc xanh tươi mát, quý phái của khu vườn, như một viên ngọc lấp lánh. Qua những hình ảnh thơ mộc mạc, gần gũi, bức tranh thôn Vĩ hiện ra đầy đẹp đẽ và sống động nhờ vào ngôn từ tinh tế của tác giả.
Cảnh thôn Vĩ trở nên hòa quyện hơn khi con người hiện diện:
“Lá trúc che kín mặt ruộng rẫy”
Lối diễn đạt này phản ánh vẻ đẹp dịu dàng, kín đáo, e ấp và rất Huế của người con gái. Sự hiện diện của khuôn mặt phúc hậu, dịu dàng đã làm cho bức tranh Vĩ Dạ trở nên sống động hơn, tạo nên sự hài hòa giữa cảnh vật và con người.
Khổ thơ thứ hai mô tả cảnh sông nước êm đềm, mang trong lòng nỗi niềm u buồn, mong ước hư ảo:
“Gió theo lối gió, mây theo đường mây
Dòng nước buồn bã, hoa bắp lay
Thuyền ở bến sông kia
Có chở trăng về đúng tối nay không?”
Trong không gian có gió, mây, sông nước, cảnh thơ mộng và bóng đêm êm đềm, tạo nên cảm giác buồn bã, chia ly. Hình ảnh phân chia của “gió theo lối gió, mây theo đường mây” có thể là biểu hiện của sự mất mát trong tình yêu, sự xa cách không thể vượt qua cùng người yêu. Vì lòng người bi ai, thiên nhiên cũng buồn thương. Dòng sông vẫn chảy nhưng “buồn bã”, gió lay động, hoa bắp nhẹ nhàng trôi trên mặt nước. “Dòng nước buồn bã hoa bắp lay” mô tả cảnh vật u tịch, đầy bi ai, u sầu. Dòng sông buồn như tâm trạng của thi nhân.
'Thuyền đậu bên bến sông kia
Có mang trăng về đúng tối nay không?'
Có người thơ hỏi, 'Có thể chở trăng trở lại đúng vào tối nay không?' Đó là câu hỏi của một người sáng tạo, một người đặt niềm tin vào tình yêu, mong chờ được gặp gỡ và chia sẻ cùng người khác. Trong tiếng thơ bình dị, nỗi khao khát, nỗi hy vọng, nỗi ngóng trông đã được thể hiện. Tác giả lo sợ rằng cuộc đời ngắn ngủi sẽ không đủ để làm đầy nỗi trống vắng, cô đơn và buồn bã. Liệu tình yêu ấy có trở về bên tôi, người không may mắn này không?
Cuộc sống thực tế là một lối đi đầy khó khăn, cô đơn luôn bủa vây. Vậy nên, tác giả tìm đến giấc mơ, nơi mà anh có thể gặp lại người con gái mà anh yêu, dù chỉ trong một chút hạnh phúc ảo.
'Trong giấc mơ, ta gặp một khách du lịch xa xứ, áo em trắng như tuyết, khiến cho ta không nhận ra. Trong sương mơ màng, ai biết được tình yêu có thể sâu đậm đến nhường nào?'
Trong giấc mơ, thi nhân nhìn thấy một người du lịch xa xôi, mặc áo trắng trong suốt, ẩn hiện giữa sương mơ. Nhưng hình bóng ấy tan biến nhanh chóng, khiến cho tác giả không khỏi lo sợ về sự thuần khiết và quý phái của người con gái.
'Trong sương mơ, ai biết được tình yêu sẽ sâu đậm như thế nào?'
Trong lời thơ, tác giả lạc quan nhưng cũng lo sợ về một tình yêu không chắc chắn. Khao khát được yêu và yêu nhưng luôn nghi ngờ vào sự trọn vẹn của tình cảm, liệu tình yêu của đối phương có sâu đậm như tình yêu của mình không?
Bài thơ kết thúc bằng một câu hỏi đầy hoài nghi và thất vọng. Vĩ Dạ là nơi đẹp nhưng buồn, làm cho con người cảm thấy buồn mà đẹp, tạo nên sự kết hợp hài hòa giữa cảnh đẹp và tâm trạng.
Vĩ Dạ qua thời gian vẫn giữ được sự sống mãnh liệt. Bài thơ không chỉ là một bức tranh tĩnh lặng và tươi đẹp về Vĩ Dạ mà còn là biểu tượng của tấm lòng sâu thẳm dành cho thiên nhiên và mong muốn sống và yêu thương của Hàn Mặc Tử.
Phân tích về bài thơ Đây Thôn Vĩ Dạ - Mẫu 8
Bài thơ Đây Thôn Vĩ Dạ được viết ra từ một nguồn cảm xúc đặc biệt. Khi Hàn Mặc Tử đang đối mặt với bệnh tật nặng nề và gần gũi với cái chết ở trại phong Quy Hòa, Quy Nhơn, ông nhận được một tấm bưu ảnh đặc biệt từ người yêu tên Hoàng Thị Kim Cúc, được gửi từ thôn Vĩ Dạ. Bức ảnh hiện lên với hình ảnh sông nước dưới ánh trăng, thuyền và bến. Nó đi kèm với những lời chia sẻ và động viên ôn hòa từ người bạn đang ở xa, khiến cho tâm trạng của nhà thơ bớt đi một phần nặng nề.
Đối với người khác, một tấm bưu ảnh có thể chỉ đơn thuần là một mối quan hệ xã giao, nhưng đối với Hàn Mặc Tử, nó lại mang ý nghĩa sâu sắc hơn. Đó là nguồn cảm hứng cho nhà thơ yêu người trong ảo mộng với tình yêu đầy sâu thẳm. Chính vì điều này, kiệt tác 'Đây thôn Vĩ Dạ' đã được tạo ra.
Khổ thứ nhất bắt đầu với câu hỏi của một cô gái.
'Sao anh không về thăm thôn Vĩ?'
Thực ra, đó là một lời trách mắng, một cách thể hiện sự nhớ nhung và mong chờ của cô gái tại thôn Vĩ. Mặc dù không có cô gái nào trực tiếp gửi lời này cho Hàn Mặc Tử, nhưng nó lại hiện hữu trong những dòng chữ trên tấm bưu ảnh, làm cho tâm trạng ôn hòa hơn, sống động hơn, trở thành điệu nhảy và âm thanh.
Ở câu thơ thứ hai, chúng ta ngạc nhiên với sự xuất hiện nhanh chóng của Hàn Mặc Tử tại thôn Vĩ Dạ ngay sau khi câu hỏi được đặt ra. Điều này cho thấy rằng đó là một hành trình tinh thần.
'Nhìn ánh nắng trên hàng cây cau mới mọc'
Câu thơ này nhấn mạnh hai từ 'nắng'. Một nắng được phát hiện trong cảnh 'nhìn ánh nắng trên hàng cây cau' và một nắng tươi mới, khiến nhà thơ hồ hởi như trẻ con 'nắng mới mọc'. Đây không phải là ánh nắng từ mặt trời mà mọi ngày chúng ta thường thấy. Đây là một loại ánh nắng mới lạ vì nó tỏa sáng vào buổi bình minh. Nó rải đều trên những cây cau.
Trước đây, mọi người thường nghĩ rằng góc nhìn của Hàn Mặc Tử là từ xa đến gần. Khách du lịch có thể nhìn thấy ánh nắng trên hàng cây cau và khi đến gần vườn, họ nhận ra sắc xanh ngọc của cây lá. Thực ra, ông trở về bằng tâm hồn mà không cần một cuộc dạo chơi như vậy. Mắt của Hàn Mặc Tử hướng lên trời cao, về vườn ở thôn Vĩ. Nhà thơ đang mở rộng tầm nhìn để nhìn thấy bình minh tươi mới tỏa sáng từ thôn Vĩ Dạ. Không gian có người mình yêu là một vườn địa đàng, nơi có nhiều phép màu cổ tích. Quay về thôn Vĩ cũng là cách giải thoát khỏi nỗi buồn. Vì vậy, tâm hồn của Hàn Mặc Tử đã lạc vào vườn thôn Vĩ.
'Vườn xanh tươi như ngọc, lá trúc che mặt trời' Câu thơ này lặp lại hai từ 'ngọc', gây ấn tượng và ngạc nhiên. 'Vườn xanh tươi quá' lại phát hiện ra rằng 'xanh tươi' ấy còn 'như ngọc'. Tất cả mọi thứ đều tươi mới, tất cả đều xanh tươi, mỗi chiếc lá ở đây đều xanh như ngọc. Nó không chỉ cho ta cảm nhận qua thị giác mà còn qua âm thanh của những chiếc lá xanh.
'Những chiếc lá trúc che phủ mặt đồng ruộng'
Câu cuối trong khổ thơ đầu tiên có nhiều cách hiểu khác nhau. Có người cho rằng 'mặt chữ điền' chính là khuôn mặt của người con gái đã mời Hàn Mặc Tử về chơi thôn Vĩ. Vì 'vườn của ai' chính là vườn của cô, nhìn thấy khuôn mặt của cô trong vườn đó là hợp lý. Nhưng nhà thơ Chế Lan Viên - bạn của Hàn Mặc Tử - không hài lòng với cách hiểu này, ông cho rằng 'mặt chữ điền' có thể không xấu, nhưng chắc chắn không theo tiêu chuẩn vẻ đẹp của người Việt Nam về phụ nữ. Cũng có ý kiến rằng 'mặt chữ điền' là viên gạch có bốn ô vuông thường được xây trên bức tường của những ngôi nhà ở thôn Vĩ.
Thực ra, khi đọc thơ Hàn Mặc Tử, chúng ta gặp nhiều hình tượng và thế giới kì lạ. Việc nhà thơ gặp lại bản thân mình trong quá khứ và tương lai là điều phổ biến. Vì vậy, mặc dù khó tin, ở đây Hàn Mặc Tử đã gặp lại chính mình với gương mặt chữ điền, khi còn là chàng trai tài năng nổi tiếng tại Huế. Nhà thơ muốn một tình yêu trong sáng, bình thản, đắm chìm thì phải trở lại với con người của quá khứ, là một nhà thơ đa tình và phóng túng thời còn ở Huế. Thực ra, nhà thơ muốn quên bản thân hiện tại với căn bệnh hiểm nghèo để được yêu. Hình tượng 'lá trúc che ngang' càng cung cấp cho gương mặt chữ điền ấy những nét ngang tàng, phóng khoáng mạnh mẽ của người đàn ông. Lá trúc trong quan niệm cũ chính là biểu hiện cho người quân tử.
Nếu khổ thơ thứ nhất cho chúng ta ấn tượng về buổi sáng, thì khổ thơ thứ hai cho chúng ta ấn tượng về buổi chiều ở một không gian trống rỗng bên ngoài thôn Vĩ Dạ và sau đó là buổi tối với cảnh sông nước, con thuyền, ánh trăng. Cả bốn câu thơ phần nào làm cho chúng tôi nghĩ về phong cảnh Huế, nhưng thực ra mọi hình tượng đều tồn tại trong một mối quan hệ nghịch lý, không tự nhiên.
'Gió theo lối gió, mây đường mây'
Câu thơ thứ hai không chỉ là nghịch lý mà còn là một trò trớ trêu. Theo tự nhiên, khi hoa bắp lay động thì mặt nước phải biến động. Thế nhưng ở đây chỉ có hoa bắp lay động cùng gió để dòng nước một mình buồn thiu. Tốt hơn là xa mặt cách lòng như gió với mây còn hơn đứng cạnh nhau mà cho nhau nhiều đắng cay, tủi cực.
Khổ thơ đầu tiên khiến ta cảm nhận một tình yêu sắp nảy nở tuyệt vời, nhưng khổ thơ sau lại đưa ta vào cuộc tình tan nát, chia ly. Hàn Mặc Tử, thông qua cách diễn đạt nồng nàn, phủ định người mời mình về thăm thôn Vĩ, nhấn mạnh họ là kẻ phụ tình bỏ rơi những lời hẹn ước, làm tan nát trái tim của người yêu thương tin tưởng dại khờ.
Người yêu trong mộng của Hàn Mặc Tử đôi khi mời đón anh vào một thế giới yêu thương chờ đợi, đôi khi lại trở thành kẻ phụ tình phũ phàng, lạnh lùng. Và bất ngờ, họ lại thể hiện sự nhân từ và độ lượng.
'Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?'
Trong thơ của Hàn Mặc Tử, hình ảnh trăng xuất hiện nhiều. Trăng từ lâu là biểu tượng của hạnh phúc, đặc biệt là hạnh phúc của đôi lứa. Với một khao khát hạnh phúc sâu sắc, hai dòng thơ của Hàn Mặc Tử rực rỡ ánh trăng: bến trăng, sông trăng, thuyền trăng, chở trăng.
Nhân vật 'ai' ở đây có thể chỉ người mời Hàn Mặc Tử về thăm thôn Vĩ. Người đó đã cắm thuyền ở bến sông để đợi chở trăng về cho nhà thơ tối nay, thể hiện sự yêu thương cao cả và sự thấu hiểu đến tận tường về những khát khao của Hàn Mặc Tử. Tuy nhiên, chữ 'kịp' ở đây đặt ra một câu hỏi: liệu có kịp chở trăng về trong tối nay không? Có thể hoặc không... Tối nay chỉ là một đoạn thời gian ngắn ngủi. Hàn Mặc Tử biết rằng cuộc sống chỉ còn lại những giây phút ngắn ngủi trên trần thế, sẽ có người mang hạnh phúc đến cho nhà thơ, nhưng nếu đến muộn thì hạnh phúc ấy thật vô nghĩa.
'Mơ khách đường xa, khách đường xa'
Bắt đầu khổ thơ thứ ba là một dòng thơ đặc biệt. Khách đã xa lạ, và nhà thơ lặp lại hai lần 'khách đường xa, khách đường xa' để nhấn mạnh sự xa lạ ấy. Nhưng vẫn có một giấc mơ về người khách xa lạ kia. Thực ra đó là người mời Hàn Mặc Tử về thăm thôn Vĩ, nhưng nhà thơ hiểu rằng người ấy ở ngoài tầm với của mình. Con người đó ngày càng trở nên xa lạ và khó nắm bắt, vì vậy Hàn Mặc Tử lại dành cho họ trong giấc mơ. Điều này được thể hiện qua những dòng thơ khác của Hàn:
'Người đã rời đi, chẳng níu kéo được nữa
Tình yêu chưa đến, mến chưa trọn vẹn
Người đi, một nửa hồn tôi mất mát
Một nửa hồn tôi còn lại trở nên dại khờ'
Với mong muốn tìm kiếm một tình yêu trong mơ để tìm thấy ý nghĩa cuộc sống trong những giây phút cuối cùng, tâm trạng của Hàn Mặc Tử luôn đầy biến động. Từ hy vọng ban đầu, sau đó là sự trách móc đối với người yêu là kẻ phụ tình; nhưng rồi nhà thơ nhận ra rằng người con gái mời mình về thăm thôn Vĩ thực sự chân thành, sẵn lòng chờ đợi dưới bến sông, mong chờ ánh trăng hạnh phúc. Tuy nhiên, sau đó, Hàn Mặc Tử lại cảm thấy tuyệt vọng trước người yêu của mình như một 'khách đường xa'. Nhưng lại ngay sau đó, nhà thơ nhận ra người ấy quay về, một cô gái hoàn toàn trong trắng và thánh thiện. Đại từ 'em' đơn giản và gần gũi:
'Áo em trắng quá, nhìn không ra'
Câu thơ vừa sáng lên niềm hy vọng thì ngay lập tức nó lại mang đến cho Hàn Mặc Tử cảm giác tuyệt vọng. Thực sự, nếu 'áo em trắng quá' thì anh phải nhìn thấy em rất rõ. Nhưng mặc dù áo em càng trắng bao nhiêu, anh lại càng không nhìn thấy em bấy nhiêu. Sự thật là anh không dám nhìn vì em quá trong trắng, quá thanh cao... Cảm giác này khi yêu là điều tất yếu. Nhưng sự tôn thờ cuối cùng dẫn đến cảm giác mất mát như Hàn Mặc Tử là do anh có lý do riêng từ cuộc sống của mình. Nhà thơ hiểu rõ hoàn cảnh thực tế của mình, nên dù người em quay trở lại, anh vẫn không dám yêu. Hàn Mặc Tử phải tự từ bỏ tình yêu của mình.
Câu thơ thứ ba mang màu sắc bi quan của triết lý nhân sinh:
'Ở đây, sương khói mờ mịt nhân ảnh'
Nguyễn Gia Thiều đã viết:
'Con quay búng sẵn lên trời
Mờ mờ nhân ảnh như người đi trong đêm'
Đời người giống như một chiếc quay đã sẵn, ta không thể kiểm soát số phận của mình. Trong mối quan hệ với người khác, ta chỉ có thể nhìn thấy 'nhân ảnh' của họ mà không thể nắm bắt được bản chất thực sự của họ. Hàn Mặc Tử cũng hiểu rõ điều này, anh không thể tự ý kiểm soát bản thân mình, không thể nhìn thấy rõ hình ảnh của người yêu mình. Thi sĩ nhận ra rằng những khó khăn của cuộc đời đã làm mờ đi 'nhân ảnh' của người yêu. Điều này khiến cho anh cảm thấy trống rỗng và cảm thấy tuyệt vọng, như một mảnh hố sâu trong tâm hồn. Đó chính là lý do khiến cho anh đặt ra một câu hỏi bơ vơ tuyệt vọng không có lối thoát:
'Ai biết tình ai có đậm đà?'
Hai từ 'ai' trong câu thơ này mở ra nhiều khía cạnh khác nhau: liệu em có hiểu được tình yêu của mình đậm đà như thế nào không? Liệu anh có thể nhận ra rằng tình yêu của mình có đậm đà như thế nào không? Liệu em có thể cảm nhận được tình yêu của anh có đậm đà không? Một câu hỏi đơn giản nhưng chứa đựng biết bao nhiêu ý nghĩa phức tạp, khiến cho càng suy nghĩ càng thấy mơ hồ, càng tuyệt vọng. Hàn Mặc Tử ngày càng cảm thấy sự vỡ vụn tuyệt vọng trong tình yêu, và đó chính là cảm hứng chính của bài thơ 'Đây thôn Vĩ Dạ'.
Mọi sự tuyệt vọng thường khiến cho con người trở nên bi quan, nhưng tình yêu tuyệt vọng của Hàn Mặc Tử lại mang lại cho chúng ta những giá trị nhân văn cao cả. Thi sĩ vẫn ôm trọn cuộc sống này bằng tình yêu, dù đó là tình yêu đau đớn. Chúng ta không phải đối mặt với những khó khăn như Hàn Mặc Tử, nhưng điều quan trọng là chúng ta cần biết cách sống và yêu thương.
Phân tích bài thơ 'Đây thôn Vĩ Dạ' - Mẫu 9
Ai đã từng có cảm giác say đắm bởi trăng như Hàn Mạc Tử? Trong thơ của ông, trăng trở thành một thế giới riêng biệt:
Trăng nằm lặng lẽ trên cành liễu
Đợi gió đông về để lả lơi...'
(Lặng lẽ)
'Đêm nay, trước cửa, bóng trăng trải dài
Uốn lưng, sấp mình theo dáng liễu'
(Hãy theo dõi cùng em)
'Bóng trăng leo cao soi sáng giường gối
Gió thu thổi qua cửa vuốt nhẹ chăn ấm'.
(Đêm không giấc mộng)
Thơ Hàn Mạc Tử nói về thuyền trăng, sông trăng, sông trăng... Tạo ra một thế giới trăng mơ huyền diệu, rợn ngợp ánh trăng, thể hiện tình yêu tha thiết với cuộc sống, vừa thực vừa mơ. Ông là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất của thời kỳ Thơ mới (1932-1941). Với tuổi đời chỉ 28 (1912-1940), ông đã để lại hàng trăm bài thơ và một số kịch thơ đặc sắc, như một dòng chảy từ máu và nước mắt, với nhiều hình tượng kinh dị. Cũng không ít bài thơ nói về mùa xuân và thiếu nữ ('Mùa xuân chín'), về Huế xinh đẹp và bài thơ 'Đây thôn Vĩ Dạ' của ông.
'Đây thôn Vĩ Dạ' được chọn từ 'Tập thơ Điên' xuất bản năm 1940, sau khi nhà thơ qua đời. Bài thơ mô tả về Huế, với cảnh thiên nhiên hữu tình, về con người Huế, đặc biệt là các cô gái duyên dáng, đa tình. Hàn Mạc Tử viết về một tình yêu - một tình yêu đơn phương thơ mộng, lung linh từ sáng đến huyền ảo. Bài thơ thể hiện một nỗi niềm bâng khuâng, khao khát hạnh phúc của thi sĩ đa tình, có nhiều mối liên kết với cảnh và con người Vĩ Dạ.
Câu đầu tiên của khổ thơ thứ nhất nhẹ nhàng như một lời chào mừng sự gặp gỡ, đồng thời trách mắng nhẹ nhàng người yêu vì quá khứ đầy nhớ nhung, sự chờ đợi. Lời thơ êm đềm, tình cảm: 'Anh đã tới thôn Vĩ chơi chưa?'. Cảnh xưa nay hiện ra trong bài thơ, với biết bao kỷ niệm sống dậy trong lòng thơ. Nó liên quan chặt chẽ đến cảnh vườn tược và con người xứ Huế mơ mộng:
'Nhìn nắng mọc khe qua dòng sông
Vườn ai xanh tươi như ngọc
Lá tre che ánh chữ điền?'
Cảnh sáng bình minh đẹp ở thôn Vĩ được mô tả chi tiết. Thi nhân đắm chìm trong việc ngắm nhìn những ngọn cau, tàu cau lấp lánh dưới ánh nắng mới mọc, 'nắng mới lên' rực rỡ. Hàng cau cao vút như một biểu tượng của thôn Vĩ Dạ, luôn chào đón và gọi gào.
Không thể quên được màu xanh của cây lá ở đây. Nhà thơ kinh ngạc trước vẻ xanh tươi mát của vườn tược Vĩ Dạ: 'Vườn ai xanh tươi như ngọc'. Sương đêm ẩm ướt làm cho cây cỏ, hoa lá toả sáng. Màu xanh rực rỡ, tươi mới, phản chiếu dưới ánh sáng buổi sáng mờ, tạo ra một màu xanh lấp lánh như ngọc bích. Đất đai màu mỡ, khí hậu ấm áp, và sự chăm sóc cẩn thận của con người đã tạo nên một màu xanh như thế. Thiên nhiên tràn đầy sức sống, tươi mới và hấp dẫn. Hai từ 'vườn ai' gợi lên sự tò mò và huyền bí. Câu thơ cuối mô tả một thiếu nữ đứng dưới bóng trúc: 'Lá trúc che ánh sáng, làm nổi bật vẻ đẹp của cô gái Huế duyên dáng, dịu dàng, và đáng yêu. Hàn Mạc Tử đã nhiều lần miêu tả về trúc và vẻ đẹp của thiếu nữ. Khóm trúc tạo nên một bóng mát xanh mát mẻ, bảo vệ cho một mối tình đẹp đang nảy nở:
'Lặng nhìn dưới bóng trúc mát mẻ
Nghe đượm hương và thơ ngây'
(Mùa xuân tươi mới)
Khổ thơ 3, 4 tả về cảnh cau, nắng, vườn, trúc và thiếu nữ bằng từ ngữ nhẹ nhàng, thoáng đãng, mơ hồ, ẩn dụ. Đặc biệt là sử dụng hai hình ảnh so sánh và ẩn dụ (xanh như ngọc... mặt chữ điền). Thôn Vĩ Dạ với cảnh vật và con người dịu dàng, gần gũi và đáng yêu.
Vĩ Dạ là một làng quê nằm ven sông Hương Giang, thuộc ngoại ô cố đô Huế. Thôn Vĩ Dạ đẹp với những con đò lãng mạn, những khu vườn xanh mướt qua mùa, tràn ngập hoa lá. Cảnh sắc và người dân ở đây đã làm say lòng nhà thơ, với niềm yêu thương tha thiết. Dù đã bao năm xa cách, nhưng hình ảnh và cảm xúc về thôn Vĩ vẫn nguyên vẹn trong lòng nhà thơ, trở nên lung linh và lãng mạn hơn bao giờ hết.
Khổ thơ thứ hai tả về cảnh trời, mây, sông nước và hoa bắp với không gian thoáng đãng, mơ hồ và xa xăm. Giọng thơ nhẹ nhàng, thoáng buồn, tạo ra một hình ảnh sống động và hài hòa. Những hình ảnh về gió, mây, dòng sông và hoa bắp gợi lên nhiều cảm xúc lãng mạn. Sự phân đối của các yếu tố tự nhiên tạo ra một bức tranh tinh tế và mơ mộng về vùng đất sông nước Huế.
'Gió kèm theo gió, mây ngừng mây
Dòng nước trôi êm, hoa bắp rung'.
Hai câu tiếp theo, nhà thơ hỏi về hình ảnh con đò nằm yên bên bến sông dưới ánh trăng, biến sông Hương thành 'sông trăng'. Hàn Mạc Tử với tình yêu của mình đã tạo ra một vần thơ đẹp về dòng sông Hương với những chiếc đò dưới ánh trăng. Điều này là một đóng góp đặc biệt của ông cho văn học thơ Việt Nam hiện đại.
Thuyền nào đậu bên bờ sông trăng đó
Có mang trăng về kịp tối hôm nay?
Tâm hồn nhà thơ xao xuyến khi nhìn thấy sông trăng và chiếc thuyền. Chiếc thuyền, liệu đó có phải là của em không, hay của ai khác, tạo ra một cảm giác vừa quen vừa xa lạ. Trong 'Đây thôn Vĩ Dạ', sự mơ mộng được thể hiện qua những cảm xúc đó. Câu thơ này thể hiện lòng xao xuyến của một tâm hồn thơ trước vẻ đẹp mơ mộng của miền Trung Huế, thể hiện tình yêu dịu dàng và mong manh, xen lẫn với nỗi buồn cô đơn của người tình đa chiều.
Khổ thơ thứ ba nói về một cô gái Huế và tâm trạng của thi nhân. Trong thời gian đó, nhà thơ Nguyễn Bính cũng đã viết về những cô gái sông Hương: 'Những nàng thiếu nữ sông Hương - Da trắng mịn như phấn, má hồng như son...'. Ở Vĩ Dạ, mưa rơi nhiều, những buổi sáng và chiều tà thường u ám bởi sương khói. 'Sương khói' trong Đường thi thường gắn liền với tình cảm với quê hương, ở đây sương khói làm mờ dần hình bóng của em, khiến anh không thể nhìn thấy rõ (hình ảnh). Cô gái Huế hiện lên thoáng qua, trắng trẻo, kín đáo và dịu dàng. Gần nhưng xa xôi, thực tế nhưng mơ hồ. Câu thơ chập chờn, trắng nhưng tinh tế, kín đáo và dịu dàng. Gần nhưng xa xôi, thực tế nhưng mơ hồ. Câu thơ chập chờn, trắng nhưng tinh tế, kín đáo và dịu dàng. Gần nhưng xa xôi, thực tế nhưng mơ hồ. Câu thơ chập chờn, bao trùm bởi sự bồn chồn và nỗi buồn.
Mơ về du khách trên đường xa, khách trên đường xa
Áo em trắng quá, không thể nhận ra
Ở đây sương khói làm mờ đi hình bóng
Chẳng ai biết tình yêu sâu đậm như thế nào?
'Mơ về khách trên đường xa, khách trên đường xa
Áo em trắng quá, không nhìn thấy được
Ở đây sương khói mờ đi hình bóng
Chẳng ai biết tình yêu có đậm đà như thế nào?'
'Mơ về du khách trên con đường xa, du khách trên con đường xa... ai biết... ai có...' những câu châm ngôn và điệu nhạc của tình yêu tạo nên giai điệu sâu lắng, dịu dàng, và u buồn. Sự chia lìa và nỗi buồn xa cách trải dài qua không gian và thời gian vô hạn. Người đọc cảm thấy thêm lòng trắc ẩn cho nhà thơ tài năng, đa tình nhưng số phận không từng nhường bước, từng trải qua cuộc sống đơn độc và bất hạnh.
Cần phải nhấn mạnh về chữ 'ai' trong bài thơ này. Cả bốn lần từ 'ai' xuất hiện đều mơ hồ, bí ẩn: 'Vườn ai mà mướt quá xanh như ngọc?' - 'Thuyền của ai đã đậu bên bến sông trăng đó?' - 'Ai có thể hiểu được tình yêu của ai?''. Con người mà nhà thơ nhắc đến là những con người xa lạ, trong hồi ức, u sầu. Nhà thơ luôn cảm thấy bất lực, lạc lõng trước một tình yêu đơn phương mơ hồ. Một chút hi vọng mong manh nhưng tha thiết nhưng dường như phai nhạt và mờ nhạt như cùng với sương khói?.
Hàn Mạc Tử đã để lại cho chúng ta một bài thơ tình đẹp và cảm động. Cảnh vật và con người, ảo và thực, say đắm và u buồn, ngạc nhiên và lạ lẫm... nhiều hình ảnh và cảm xúc đẹp mà buồn bên nhau trong ba khổ thơ thất ngôn, những dòng văn toàn bích. 'Đây thôn Vĩ Dạ' là một tác phẩm thơ tuyệt vời về tình yêu. Màu xanh ngọc của vườn nào, con thuyền của ai đã đậu bên bến sông trăng, và màu trắng của áo em như dẫn dắt tâm hồn ta về Vĩ Dạ thôn với bóng dáng của nhà thơ tài hoa, đa tình mà số phận đau khổ. Bức tranh tình cảm trong 'Đây thôn Vĩ Dạ' mãi mãi đọng lại trong lòng chúng ta. Nhà thơ Thu Bồn đã nói lên điều đó.
'Chào Huế một lần anh về thăm
Mà trong mơ, anh nhớ ngàn lần
Em hiện hữu nhưng nắng lại mờ ảo
Xin đừng nhầm em với cố đô'.
Phân tích Đây thôn Vĩ Dạ - Mẫu 10
“Đây thôn Vĩ Dạ” là một bài thơ tri âm. Theo tài liệu về Hàn Mạc Tử, khi làm việc tại Sở Đạc điền Quy Nhơn, Hàn Mặc Tử đã trót lòng yêu Hoàng Thị Kim Cúc – con gái của ông chủ sở Đạc điền Quy Nhơn, quê ở thôn Vĩ, xứ Huế. Tình cảm của Hàn Mạc Tử đã được chứa đựng trong tập Gái quê. Khi Hoàng Cúc theo cha về nghỉ hưu ở Huế – Vĩ Dạ, Hàn Mặc Tử coi như đã lấy chồng.
Ngày mai tôi rời bỏ nghề thi sĩ
Em đã lấy chồng, mơ ước kết thúc
Tôi sẽ đi tìm những mảnh đá trắng,
Vào đó, thả hồn thơ bay.
Hàn Mặc Tử lâm bệnh nặng vào năm 1936. Năm 1939, Hàn nhận được một tấm thiếp từ Kim Cúc, đó là một bức ảnh về cảnh đẹp của xứ Huế, có sông nước, thuyền, bến, trăng, và những hàng cây cau cao vút, kèm theo những dòng chữ của Hoàng Cúc để an ủi nhà thơ. Bức thiếp đã đánh thức lại cảm xúc của thi sĩ, từ đó có bài thơ tuyệt vời này.
Khổ thứ nhất mở đầu với một câu hỏi dịu dàng và ý nghĩa. Câu thơ như là một lời nhắn nhủ nhẹ nhàng, có chút xót xa, nhưng sau đó là lời mời gọi tâm hồn khách đến thăm để được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của “thôn Vĩ”.
Về thôn Vĩ để được “ngắm nhìn nắng chiếu lên hàng cây cau mới mọc”. Nhà thơ nói về cây cau vì cau là loài cây thanh nhã, dễ thương với thân cây thẳng và tán lá xanh tươi, tạo nên sự trung thành và ngay thẳng. Hình ảnh hàng cây cau ở đây còn có một chi tiết đáng chú ý, đó là “Nắng chiếu lên hàng cây cau mới mọc”. Từ “nắng” gợi lên ánh sáng ban mai, là biểu tượng của sức sống và niềm vui đang lan tỏa trên mặt đất. Trong ánh sáng ban mai, những thân cây cau còn ướt sương đêm, lấp lánh như đang vươn lên để hấp thụ những ánh nắng vàng rực rỡ.
Cảnh đẹp thu hút sự chú ý của tác giả. Câu thơ thứ ba phát ra như tiếng reo thích thú bày tỏ sự kinh ngạc và ngưỡng mộ. Khung cảnh ở Vĩ Dạ rực rỡ như một bức tranh: “Vườn ai xanh tươi như ngọc”. Vườn ở Vĩ Dạ với những cây trái được chăm sóc tận tay, thường xuyên được tưới tiếng mưa gió, nên mềm mại và dưới ánh nắng ban mai, lấp lánh như những viên ngọc. Hình ảnh so sánh của tác giả trong câu thơ vừa chính xác vừa gợi cảm. Có thể nói, cách tả vườn của Hàn Mặc Tử đã đạt đến độ tinh tế của một họa sĩ tài hoa.
Chỉ với vài nét vẽ chấm phá, Hàn Mạc Tử đã mô tả được cảnh vườn một làng quê xứ Huế vừa quen thuộc, bình dị vừa độc đáo. Ngắm vườn xứ Huế trong ánh nắng ban mai thật thư thái. Nhưng cảnh vật ở Vĩ Dạ trở nên sinh động hơn khi bóng dáng con người hiện ra: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Mặt chữ điền thường gợi lên hình ảnh phúc hậu, trang trọng và quý phái, trong khi lá trúc gợi lên hình ảnh mảnh mai, xinh xắn và thanh tú. Câu thơ không chỉ mô tả thực tế mà còn có ý nghĩa biểu tượng, cách điệu.
Cảnh vật và con người hoà quyện vào nhau: cảnh xinh đẹp, thơ mộng, người phúc hậu và quý phái. Tất cả tạo nên một vẻ đẹp kín đáo và dịu dàng. Nhờ đó, câu thơ đã làm nổi bật cái linh hồn của vườn cây xứ Huế mà khổ thơ tập trung miêu tả.
Tóm lại, với những chi tiết đơn giản và bình dị, Hàn Mạc Tử đã tạo ra một bức tranh về quê Vĩ Dạ phong phú với vẻ đẹp bất ngờ, sự hòa hợp giữa cảnh vật và con người. Đoạn thơ đã thúc đẩy nỗi lòng của người đọc về quê hương làng mạc Việt Nam.
Khổ thơ thứ hai cho thấy một khía cạnh khác của Huế: dòng sông Hương và vẻ đẹp yên bình và trầm tư của Vĩ Dạ cũng như Huế nói chung.
Trở về Huế, ta trở về với Vĩ Dạ, với ngọn núi Ngự và sông Hương, cảm nhận được hồn thiên nhiên mộng mơ của đất Huế. Khung cảnh Huế dưới bàn tay tài hoa của Hàn Mặc Tử vẫn hiện hữu, với dòng sông, bờ bãi, gió lay nhè nhẹ, mây trôi bên trời, và một chiếc thuyền lạnh lùng dừng lại dưới ánh trăng lung linh. Tất cả tạo nên một bức tranh thanh bình, dịu dàng, đậm chất thi ca.
“Gió theo lối gió, mây theo dòng mây
Dòng nước lặng lẽ, hoa bắp lay nhẹ”
Hai câu thơ như một lời tạm biệt, đậm đà tình cảm. Nó vẫn đọng lại trong lòng người những nỗi buồn tê tái của sự chia ly. Có lẽ tình yêu không được đáp đền, chưa từng trải qua những khoảnh khắc ngọt ngào đã tan vỡ, và cảnh tượng này chìm vào biển buồn thênh thang trong lòng người. Gió thổi mây bay thường là điều tự nhiên, nhưng ở đây, tất cả đều mất đi, như không có sự gặp gỡ nào xảy ra. Từ “gió” và “mây” đã thể hiện rõ điều này. Dòng nước êm đềm cũng như hoa bắp mềm mại nhấm nháp nhẹ nhàng. Hai câu thơ không chỉ miêu tả cảnh và tình trong cảnh, mà còn muốn gợi lên cái nhịp điệu của thiên nhiên. Đó là nhịp điệu yên bình, trầm lắng, là nét đặc trưng mà chỉ Huế mới có. Hai câu thơ mang lại một cảm giác chậm rãi, nhưng đầy ý nghĩa cho trái tim của người đọc.
Viết về Huế không thể không đề cập đến trăng. Trăng dưới nét bút của Hàn Mặc Tử trở nên huyền diệu, tràn ngập không gian vũ trụ, tạo ra một không khí giữa thực và hư như trong mơ:
“Chiếc thuyền nằm bên bến sông dưới ánh trăng ấy
Trở về kịp để nhìn trăng đủ sáng đêm nay”
Chỉ trong giấc mơ, dòng sông mới trở thành dòng sông trăng và chiếc thuyền mới vận chuyển trăng. Hàn Mặc Tử là người có tầm nhìn sâu sắc, sự thực biến thành ảo mộng, và ảo mộng lại trở thành hiện thực phi thường. Lời thơ của ông thật thanh tao! Nó làm người đọc tan chảy trong sự ngọt ngào” (Bích Khê).
Trăng là biểu tượng của vẻ đẹp trong cuộc sống và tự nhiên. Nó cũng biểu hiện cho hạnh phúc thanh bình. Do đó, bài thơ của Hàn Mặc Tử đã đánh thức trong lòng độc giả niềm tin, niềm vui, và khao khát đẹp hoàn mỹ và cao cả. Nhưng những dòng thơ cũng đặt ra một câu hỏi không có lời đáp. Hai dòng cuối cùng của bài thơ này thể hiện sự khao khát gặp gỡ và lo sợ về sự trễ muộn. Một từ “kịp” trong dòng thơ cuối cùng đã nói lên điều đó.
Đi đến bài thơ thứ ba, ta thấy vẻ đẹp ẩn hiện của Huế và tình yêu với cuộc sống mà tác giả mang trong lòng xa xôi không trọn vẹn.
“Mơ thấy khách từ xa, khách từ xa
Áo dài em quá trắng không nhận ra”
Từ ngữ “khách từ xa” vừa thể hiện sự nhớ mong hướng về xa xôi, vừa mô tả khoảng cách xa xôi của một tình yêu không được đáp lại. Vì thế, “mơ thấy khách từ xa” tác giả chỉ thấy “áo dài’’ nhưng “không nhận ra”. Người con gái này là ai? Một cô gái Huế nào đó hay đơn giản là cô gái thôn quê chìm trong mơ ước của nhà thơ khiến tác giả cảm thấy huyền diệu? Chúng ta chỉ biết đó là một hình ảnh gần gũi nhưng xa xôi. Gần gũi vì đã trở thành kỷ niệm thường trực, xa xôi vì thời gian, không gian và sương mù của một tình yêu không được thực hiện “Áo dài em trắng quá không nhận ra” là một câu thơ đặc sắc. Màu trắng của chiếc áo dài là biểu tượng của nữ sinh Huế và cũng là màu của sự trong trẻo, phù hợp với hình ảnh của cô gái trong giấc mơ. Màu trắng làm cho cả không gian trở nên mờ nhạt, làm cho tác giả không thể nhìn rõ. Và “áo dài quá trắng” càng trở nên khó nhận ra khi nằm trong sương mù và kí ức của một tình yêu không thực hiện. Vậy tình yêu của người con gái thôn quê đó sẽ còn bền vững không? “Ai biết tình ai có sâu đậm?”.
Dù trong cảnh đau thương sâu sắc, nhà thơ vẫn dành thời gian để ngẩng cao tinh thần về một miền quê quen thuộc và một tình yêu trong mơ, tạo ra một 'viên ngọc thơ tuyệt vời, lấp lánh suốt nghìn năm' như Chế Lan Viên đã diễn tả.
Bài thơ có một nguồn gốc cụ thể, một nguồn cảm hứng riêng, nhưng qua việc phân tích, chúng ta thấy rằng tác phẩm đã vượt ra ngoài ranh giới của cái cụ thể, đạt đến mức độ trừu tượng cao để thấu hiểu cuộc sống to lớn.
Thôn Vĩ Dạ trong thơ của Hàn Mặc Tử không chỉ là biểu tượng của tình yêu với một người con gái Huế, không chỉ đơn thuần là về một thôn Vĩ nhất định, mà còn là tiếng thở dài của thi sĩ Hàn Mặc Tử về một tình yêu đậm sâu và cuộc sống rộng lớn này.
......................
Tải file để đọc thêm về bài văn phân tích về Thôn Vĩ Dạ này.