Phân tích khổ thơ 2 của bài Vội vàng của Xuân Diệu bao gồm 15 ví dụ văn mẫu xuất sắc kèm theo 3 gợi ý cụ thể về cách viết. Bằng cách phân tích đoạn 5 của Vội vàng, các bạn học sinh có thể lựa chọn cách tiếp cận và phong cách viết phù hợp nhất với bản thân, biến nó thành tri thức sâu rộng của mình.
Phân tích đoạn 2 của bài Vội vàng giúp ta hiểu được niềm hạnh phúc sống trọn vẹn với cuộc sống của nhân vật chân thành, đồng thời cũng là tâm trạng, cảm xúc của nhà thơ Xuân Diệu. Dưới đây là 15 ví dụ phân tích đoạn 2 của bài Vội vàng, hãy cùng tham khảo. Ngoài ra, bạn cũng có thể xem thêm phân tích của Vội vàng và nhiều tác phẩm văn học khác tại chuyên mục Văn 11.
Bố cục phân tích đoạn 2 của bài Vội vàng
1. Bắt đầu:
- Tổng quan về tác giả Xuân Diệu và bài thơ 'Vội vàng'
- Hướng dẫn, giới thiệu phần thứ hai của bài thơ:
Trong một bài viết, Hoài Thanh đã nhận xét về Xuân Diệu: 'Ông là một trong những nhà thơ mới nhất trong trào lưu Mới'. Đúng là, khi ta đọc và suy ngẫm về tác phẩm của ông, ta mới thấu hiểu điều đó. Ông ta mang đến cái mới trong cách nhìn, cách cảm nhận và suy tư về cuộc sống, về con người. Ông coi cuộc sống là một quãng đường mà không thể quay lại, vì vậy cần phải sống hết mình trong từng khoảnh khắc. Quan điểm ấy rõ ràng được thể hiện trong bài thơ 'Vội vàng'. Phần thứ hai của bài được xem là một trong những phần thơ đặc sắc và ý nghĩa nhất.
2. Nội dung chính:
Trong phần thứ hai của bài thơ, tác giả thể hiện sự nuối tiếc trước sự trôi chảy của thời gian:
Nhịp điệu của đoạn này không nhanh như đoạn trước, mà chậm lại, để lắng nghe những suy tư sâu xa.
Dấu chấm giữa câu thơ 'Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa.' là một dấu hiệu nghệ thuật sâu sắc. Nó ngăn chặn niềm vui của nhân vật trữ tình, khi mà sung sướng chỉ kéo dài một nửa. Điều này thể hiện sự nhạy cảm của nhân vật trữ tình, và của nhà thơ Xuân Diệu, khi họ có thể nhận ra mất mát trong niềm vui. Xuân Diệu đã nhìn thấy trước sự biến đổi của thời gian.
Trong thơ cổ, thời gian thường được coi là một chuỗi tuần hoàn không thay đổi, như Nguyễn Du đã viết: 'Ngày xuân con én đưa thoi' (Cảnh ngày xuân), hay 'Ngày xuân như bóng cây đi qua cửa sổ'. Tuy nhiên, dù thời gian luôn tuần hoàn, người ta vẫn bình tĩnh, ung dung.
Nhưng đối với Xuân Diệu, 'xuân đang đến có nghĩa là xuân sắp qua, / xuân còn non cũng là xuân đã già'. Đây là cách diễn đạt mới lạ, cho thấy thời gian không ngừng chuyển động, không chờ đợi.
Thời gian trôi đi, mùa xuân qua đi cũng là lúc tuổi trẻ phai nhạt. Mùa xuân là thời kỳ quý giá nhất, cũng giống như tuổi trẻ. Khi mùa xuân qua đi, tuổi trẻ cũng phai mờ => tôi cũng trôi theo => tưởng tượng về cuộc chia ly với đất trời.
Các động từ 'rớm, than, hờn, sợ' như là những sự nhân hóa để biểu hiện nỗi buồn tiếc trong tâm hồn con người đã lan tỏa ra khắp nơi, thấm qua từng cảnh, từng giác quan của con người. Do đó, cả con người và vũ trụ đều mang trong mình nỗi buồn thê thiết.
Dù vẫn đang trong mùa xuân, nhưng nhà thơ đã mô tả sự chia li của vũ trụ, sự rời xa của mùa xuân. Nỗi niềm nuối tiếc đã được biểu hiện qua lời than thở, và thông qua đó, nhà thơ đã gửi đi lời nhắn nhủ đến mọi người, mọi thế hệ rằng hãy sống hết mình với tuổi trẻ, bởi thời gian của cuộc đời ngắn ngủi, không thể quay lại.
3. Tóm lại:
Tổng kết lại ý nghĩa tư tưởng và giá trị nghệ thuật của đoạn thơ:
Đoạn thơ thứ hai trong bài đã khẳng định mong muốn sống hết mình với cuộc đời của nhân vật trữ tình, nhưng cũng là tâm tư, nỗi lòng của nhà thơ Xuân Diệu. Ông sử dụng thơ để thể hiện tâm trạng, chia sẻ với người đọc để họ hiểu ông hơn, và trân trọng thời gian tuổi trẻ, sống hết mình với nó.
Phân tích khổ 2 Vội vàng - Mẫu 1
Xuân Diệu được biết đến là nhà thơ của tình yêu và tuổi trẻ. Ông được gọi là “ông hoàng của thi ca tình yêu”. Trước cách mạng, với hai tập thơ “Thơ Thơ” và “Gửi hương cho gió”, Xuân Diệu đã trở thành “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới” (Hoài Thanh). Bài thơ “Vội Vàng” trong tập “Thơ Thơ” là một minh chứng rõ ràng cho phong cách thơ tình yêu của ông, viết về mùa xuân và tuổi trẻ. Đoạn thơ sắp được phân tích là phản ánh quan điểm về thời gian và tuổi trẻ của Xuân Diệu, cũng như khát vọng sống hết mình với mùa xuân tuổi trẻ và thời gian cuộc đời.
“Xuân đang đến, tức là xuân đang qua
…
Chớp mắt thôi! mùa chưa rụng chiều”
Bài thơ “Vội Vàng” trong tập “Thơ Thơ”, xuất bản năm 1938, là một trong những bài thơ tiêu biểu của Xuân Diệu. Nó thể hiện rõ sự tập trung của ông vào việc thể hiện cá nhân và cách ông cảm nhận về thiên nhiên và cuộc sống. Bài thơ này cũng truyền đạt một quan điểm nhân sinh sâu sắc. Đoạn thơ sẽ được phân tích nằm ở phần giữa của bài thơ, nơi mà thi sĩ tập trung vào quan niệm về thời gian.
Trong thi ca trung đại, thời gian được xem là “thời gian tuần hoàn”, tức là một chu kỳ vô tận, không ngừng lặp lại, điểm bắt đầu cũng là điểm kết thúc, không ngừng quay về điểm xuất phát. Quan niệm này bắt nguồn từ việc sử dụng sinh mệnh vũ trụ để đo lường thời gian.
Xuân Diệu sử dụng cách thức trình bày “chống đối”, “tranh cãi” lại quan niệm cũ, đồng thời thể hiện quan điểm của mình bằng một cảm xúc sôi nổi, cuồng nhiệt, phản ánh ý thức triết học sâu sắc đã thấm nhuần cảm xúc. Đoạn thơ ( từ câu 14 đến câu 24, có thể đến câu 28 ) với giọng tranh luận, biện bác, nhịp điệu sôi nổi, khẩn trương và những câu thơ đầy mĩ cảm về cảnh sắc thiên nhiên chứa đựng cảm nhận về thời gian của thi sĩ. Xuân Diệu đã phủ định trực tiếp quan niệm “thời gian tuần hoàn” bằng một câu thật dứt khoát: “Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn”.
Xuân Diệu lựa chọn quan niệm “thời gian tuyến tính”, thể hiện thời gian như một dòng chảy không ngừng, mỗi khoảnh khắc trôi qua là mất đi vĩnh viễn. Vì vậy, tâm trạng của nhân vật trữ tình mới chỉ thoáng nỗi buồn và nghi ngờ.
Xuân Diệu quan niệm “thời gian tuyến tính” từ cái nhìn động:
“Xuân đang đến nghĩa là xuân đang qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già”
Con người thời trung đại có vẻ hài lòng với quan niệm thời gian tuần hoàn, nhưng Xuân Diệu lại nhìn nhận cuộc đời từ góc độ sâu xa hơn. Ông nhìn thấy những nỗi hoài nghi và mất mát. Điều mà ông sợ nhất là tuổi trẻ qua đi, tuổi già sắp đến vì thời gian như một dòng chảy không ngừng nghỉ, mỗi khoảnh khắc qua là mất đi vĩnh viễn. Sự đối lập giữa hai từ trong hai câu thơ “đến – qua”, “non – già” thể hiện sự nhạy cảm của ông về thời gian. Thời gian như một dòng chảy không ngừng nghỉ. Cái mà chúng ta có hiện tại cũng là cái chúng ta đang mất, trong hiện tại đã có quá khứ và hé mở tương lai.
Xuân Diệu sử dụng cuộc đời của mình làm thước đo thời gian. Ông lấy quỹ thời gian hữu hạn của mình (sinh mệnh cá thể) để đo đếm thời gian trong vũ trụ. Thậm chí, ông chọn tuổi trẻ, khoảnh khắc ngắn nhất và ý nghĩa nhất trong cuộc đời để làm thước đo:
“Mùa xuân đã đi, có nghĩa là tôi đã mất
Lòng tôi rộng lớn nhưng vũ trụ lại chật hẹp
Không cho tuổi trẻ của con người kéo dài
Nói gì nữa rằng mùa xuân vẫn quay về
Nếu tuổi trẻ không thể lặp lại lần nữa
Mặc dù có trời đất nhưng tôi sẽ không còn mãi mãi
Vì vậy, tôi hối tiếc cả đất trời này”
Chữ “Xuân” được lặp lại năm đến sáu lần (trong ba câu đầu đã lặp lại năm lần). “Xuân” không chỉ là mùa xuân của thiên nhiên mà còn là “xuân” của cuộc đời, của tuổi trẻ. Mỗi lần nhắc lại là mỗi lần ta cảm nhận sự nuối tiếc của thi nhân. Xuân của thiên nhiên có thể vẫn còn mãi, nhưng “xuân” của cuộc đời con người đã “đi qua” thì “tôi cũng mất”. Dù lòng yêu thương có “rộng lớn” đến đâu thì “vũ trụ” vẫn cảm thấy chật chội. Do đó, “tuổi trẻ của con người” không thể “kéo dài” mãi mãi. Ở đây, sử dụng các cặp từ trái ngược nhau (đến – qua, non – già, rộng – chật, xuân tuần hoàn, - tuổi trẻ không lặp lại, còn – không còn) để tôn vinh tâm trạng nuối tiếc về thời gian, cuộc đời. Vũ trụ có thể vĩnh viễn, mùa xuân có thể tuần hoàn, nhưng tuổi trẻ của con người chỉ có một lần, và đã qua thì sẽ không bao giờ quay lại. Do đó, Xuân Diệu rất rõ ràng phủ định:
“Nói gì nữa rằng mùa xuân vẫn tuần hoàn,
Nếu tuổi trẻ không thể trở lại lần thứ hai !”
Thước đo thời gian của thi sĩ là tuổi trẻ. Tuổi trẻ một khi đã qua “không lặp lại lần thứ hai” thì không còn lý do gì để nói về sự tuần hoàn! Trong sự rộng lớn của vũ trụ, sự vô hạn của thời gian, sự tồn tại của con người thật sự là ngắn ngủi, hữu hạn. Nghĩ về sự giới hạn của cuộc sống con người, Xuân Diệu mang lại một cảm giác nuối tiếc thực sự mới mẻ:
“Trời đất vẫn còn, nhưng tôi sẽ không còn mãi
Do đó, tôi tiếc cả trời đất này”
Đọc hai câu thơ này, ta nghe rõ tiếng thở dài bất lực của thi nhân. Ta nghe thấy cái bâng khuâng, nỗi tiếc nuối của nhà thơ lan tỏa đến khắp nơi, như cả một bầu trời đầy tiếc thương. Tâm trạng này của Xuân Diệu cũng thể hiện trong bài thơ “Giục giã”:
“Cuộc đời trôi chảy, không có gì là vĩnh viễn
Khiến tâm trí ta mơ màng tan biến chỉ với một cái xịch chăn gối
Vẻ đẹp của khuôn mặt trở nên hoang tàn
Ánh vàng son của hoàng hôn rực rỡ
Thậm chí cả bầu trời chiều cũng dần phai nhạt”
Có lẽ từ sự nuối tiếc sâu sắc về tuổi trẻ đó, thi nhân đã “mở rộng các giác quan” để trải nghiệm “mọi thứ” của tuổi trẻ một cách đầy đặn, say đắm, thấu hiểu và mãnh liệt nhất?
Cảm nhận về thời gian của Xuân Diệu là cảm nhận sâu sắc về sự mất mát. Mỗi khoảnh khắc trôi qua đều là một sự mất mát to lớn. Sự phai nhạt không chỉ xuất hiện “khắp nơi” mà còn rơi vào từng cá thể. Và thời gian trôi đi sẽ khiến cho vẻ đẹp thiên nhiên kỳ diệu này bước vào thế giới tàn phai. Một sự phai nhạt không thể tránh khỏi:
“Mùi tháng năm vẫn ngọt ngào, đánh thức ký ức
Khắp nơi, sông núi vẫn lặng lẽ tiễn biệt”
Hai câu thơ này rõ ràng thể hiện cách Xuân Diệu cảm nhận thời gian một cách tinh tế. Cảm nhận không chỉ qua thị giác mà còn thông qua mùi vị của “tháng năm”, qua hương vị “chia phôi”. Mỗi khoảnh khắc chuyển dần thành quá khứ, nhưng được tưởng tượng như một cuộc tách rời. Mỗi khoảnh khắc đều là một lời tiễn biệt, một mất mát. Và dòng thời gian được xem như một chuỗi không ngừng của những sự mất mát, sự chia lìa. Do đó, thời gian mang theo mình hương vị của sự chia xa. Khắp nơi, tiếng than thở của sông núi vẫn rỉ rả tiễn biệt. Đó là tiếng than của vạn vật, là không gian chứa đựng sự tiễn biệt, nhưng còn hơn thế, mỗi thứ trong thời gian đang tiễn biệt một phần của bản thân. Mỗi sinh vật tiễn biệt một phần của cuộc đời mình mà không thể tránh khỏi, tạo ra sự trôi chảy không ngừng, sự phôi pha, phai mờ của từng cá thể:
“Gió thì thầm trong những chiếc lá biếc
Liệu hẳn là do sự buồn phiền của việc phải rời đi?
Chim hòa nhịp bỗng giẫm chân giọng ca
Liệu có phải lo lắng về sự phai nhạt sắp tới?”
Gió không còn là âm thanh vui vẻ của mùa xuân, mà là âm thanh của “thầm thì” về nỗi buồn, nỗi tiếc nuối. Gió phải rời xa những chiếc lá để bay đi; chim hót trên cành cây đang vui mừng giữa mùa xuân bỗng dừng lại, không phải vì có nguy cơ gì, mà chỉ vì chúng tiếc nuối cho mùa xuân sắp qua. Điều này không chỉ áp dụng cho Xuân Diệu mà còn cho tất cả mọi vật trong tự nhiên, mọi vật đều nhận biết về luật lệ khắc nghiệt, về việc mất mát mà không bao giờ quay trở lại của thời gian ấy. Chính vì thế, Xuân Diệu đưa ra một quyết định hợp lý cho bản thân và cho mọi người: “Tôi không chờ đợi nắng hạ để mong chờ mùa xuân”.
“Không bao giờ! không bao giờ nữa
Hãy đi, mùa chưa ngả chiều hôm”
Thi sĩ đột nhiên kêu lên. Tiếc nuối, lo lắng và đột ngột tỉnh giấc vì 'mùa chưa ngả chiều hôm', tức là vẫn còn trẻ trung, chưa già. Lên đường! Phải vội vã, phải hối hả “Mau đi thôi”. Câu cảm thán với cách ngắt nhịp biến hóa làm nổi bật nỗi lòng vừa lo lắng băn khoăn vừa tiếc nuối, bâng khuâng. Thế đấy, không thể “buộc gió”, không thể “tắt nắng”, cũng không thể cầm giữ được thời gian, thì chỉ còn cách thực tế nhất là chạy đua với thời gian, là phải sống. Xưa kia, Nguyễn Trãi viết trong chùm 'Thơ tiếc cảnh':
'Xuân xanh chưa dễ hai phen lại
Thấy cảnh càng thêm tiếc thiếu niên'.
Những vần thơ của Nguyễn Trãi giúp ta cảm nhận sắc điệu trữ tình trong 'Vội vàng' về màu thời gian, về sắc thời gian, về tuổi trẻ. Cũng qua đó để hiểu thêm về lòng ham sống đến mức nhiệt cuồng của nhà thơ “mới nhất trong các nhà thơ mới”.
Cách cảm nhận về thời gian như vậy xét đến cùng là xuất phát từ ý thức sâu xa về giá trị của sự sống cá thể. Mỗi khoảnh khắc trong đời mỗi người đều vô cùng quý giá, chính vì một khi đã mất đi là vĩnh viễn mất đi! Quan niệm ấy khiến cho con người biết quý từng giây phút của đời mình. Và người ta biết làm cho mỗi khoảnh khắc của đời mình cần phải tràn đầy ý nghĩa. Chỉ có như vậy mới là biết sống. Đây là nền tảng sâu xa của thái độ sống “Vội Vàng”.
Rõ ràng toàn bộ quan niệm, thái độ về “thời gian tuyến tính” phải sống “Vội Vàng” cho cuộc đời tuy ngắn ngủi nhưng tràn đầy ý nghĩa, đã được thể hiện rất tích cực, rất đáng trân trọng của tư tưởng Xuân Diệu.
Dùng các phép điệp ngữ, cấu trúc điệp; thể hiện giọng điệu thơ sôi nổi nhưng không làm nên niềm vui vì không che giấu sự nuối tiếc, xót xa, hờn dỗi (nói làm chi, nếu, tiếc…); Từ ngữ, hình ảnh được đặt trong tình thế tương phản đối lập cao độ. Tất cả đã tạo nên một đoạn thơ hay và sâu sắc mang dấu ấn Xuân Diệu.
Tóm lại, đoạn thơ thể hiện tâm trạng nuối tiếc thời gian và cuộc đời của một nhà thơ vốn khát khao sống, sống mãnh liệt hết mình. Qua đoạn thơ, người đọc thêm trân trọng quan niệm nhân sinh mới mẻ, tích cực, cảm xúc chân thành của một tâm hồn nghệ sĩ luôn rực cháy niềm yêu cuộc sống. Theo Giáo Sư Nguyễn Đăng Mạnh: 'Đây là tiếng nói của một tâm hồn yêu đời, yêu sống đến cuồng nhiệt. Nhưng đằng sau những tình cảm ấy, có một quan niệm nhân sinh mới mẻ chưa thấy trong thơ ca truyền thống'.
Phân tích 16 câu giữa bài Vội vàng - Mẫu 2
Xuân Diệu là một trong những nhà thơ lớn của phong trào Thơ Mới. Khi nhắc đến Xuân Diệu, người ta nghĩ ngay đến một tâm hồn thơ lãng mạn, rực rỡ, bâng khuâng. Đó là một tâm hồn luôn thiết tha, gắn bó với cuộc sống. Khát khao giao cảm ấy đã được thể hiện lại trong bài thơ “Vội vàng”. Đây là một trong những bài thơ đậm dấu ấn tâm hồn của Xuân Diệu và đặc biệt là cách ông nhìn nhận về thời gian được thể hiện trong khổ 2 của bài thơ.
Bài thơ Vội vàng được in trong tập Thơ thơ – thi phẩm đầu tay của “Ông hoàng thơ tình” Xuân Diệu. Nếu ở khổ thơ đầu, Xuân Diệu gây ấn tượng với người đọc bằng bức tranh thiên nhiên tươi vui tràn đầy sức sống thì ở những dòng thơ tiếp theo, nhà thơ lại thể hiện những suy nghĩ trăn trở về thời gian, về cuộc sống.
Qua đoạn 2, người đọc cảm nhận được nhà thơ Xuân Diệu đã đưa ra những phát hiện về sự chảy trôi của thời gian. Mở đầu đoạn thơ là hai câu thơ với cách ngắt nhịp lẻ 3/5 như một sự vỡ lẽ. Bước chân của thời gian cứ thế mà trôi đi qua từng câu chữ
“Xuân đang đến là xuân đã đi qua
Xuân còn non tức là xuân sắp già”
Các trạng thái của thời gian lần lượt được nêu ra. Nhưng đó không phải là khung cảnh nhộn nhịp mà là những trạng thái đối lập “đang đến” – “đã đi qua” và “còn non” – “sắp già”. Các trạng thái ấy cũng chính là sự tiếp nối của chúng trong vòng xoay của thời gian.
Thời gian vận động không ngừng, mọi thứ cũng không ngừng đổi thay. Nếu trong văn học trung đại, thời gian là một vòng tròn tuần hoàn không ngừng lặp lại của sinh lão bệnh tử. Vì vậy, con người trung đại tuy ý thức được sự nhỏ bé của mình trước dòng chảy của thời gian nhưng rất ít khi ta thấy họ cất lời than thở vì cuộc sống ngắn ngủi. Như Mãn Giác thiền sư từng viết
“Xuân đã đi bao hoa lạc
Xuân sắp đến bao hoa khai”
(Đàn dơi một bầy – Mãn Giác thiền sư)
Nhưng trong thời đại Thơ mới, con người đã nhận thức rõ hơn về sự hạn hẹp của cuộc sống. Thời gian không còn được xem như một vòng tròn vô hạn mà là một đường thẳng tuyến tính. Trong dòng chảy của thời gian, con người chỉ là một hạt cát nhỏ bé giữa sa mạc. Thời gian vô tận nhưng cuộc sống của con người lại có hạn. Vì thế, trước thời gian, con người thường cảm thấy mình nhỏ bé và bất lực, chỉ có thể nhìn thấy thời gian trôi qua vô tình. Khi mùa xuân còn tươi đẹp, rồi đến lúc nó cũng phải tàn úa, như một quy luật không thể tránh khỏi
“Hoa nở chỉ để tàn lụi
Trăng tròn chỉ để mờ dần”
(Hoa nở chỉ để tàn lụi – Xuân Diệu)
Bước đi của mùa xuân cũng là bước đi của thời gian và cuộc sống. Phép điệp “nghĩa là” nhấn mạnh sự bất ngờ và hoảng sợ trước dòng chảy của thời gian trong cuộc đời. Người ta thường chỉ nuối tiếc mọi thứ khi nó đã trôi qua, khi chỉ còn lại trong ký ức, nhưng Xuân Diệu lại nuối tiếc mùa xuân ngay khi nó mới bắt đầu, ngay khi ông đang sống trong bức tranh xuân ấy. Đó không chỉ là mùa xuân của thiên nhiên mà còn là mùa xuân của cuộc đời. Phân tích đoạn 2 của bài thơ 'Vội Vàng' để thấy Xuân Diệu sử dụng thời gian của cuộc đời để đo lường thời gian của vũ trụ
“Khi xuân tàn, tôi cũng mất đi
Lòng tôi rộng nhưng bao la trời lại hẹp
Thời trẻ của con người không kéo dài
Nếu tuổi trẻ không thể trở lại lần nữa
Còn trời đất nhưng tôi sẽ không còn
Nên tôi tiếc cả đất trời”
Những câu thơ được liên kết bởi từ “xuân”. Từ “xuân” được nhấn mạnh để tôn vinh mùa xuân của thiên nhiên cũng như mùa xuân của cuộc đời. Đó đều là những điều tuyệt vời nhất của cuộc sống, của con người. Phân tích đoạn thơ 2 trong bài Vội vàng, mùa xuân, mùa hạ, mùa thu, mùa đông có thể trôi qua mặc kệ sự tồn tại của con người, nhưng trong tâm hồn của Xuân Diệu, chúng luôn liên kết với nhau.
Thời gian thiên nhiên kết thúc “xuân hết” đồng nghĩa với việc “tôi cũng hết”. Câu thơ như một tiếng thở dài với đất trời. Khi tuổi trẻ qua đi, sự tồn tại của “tôi” trở nên vô nghĩa. Bởi khi tuổi trẻ qua đi, tình yêu kết thúc, mọi thứ cũng trôi đi theo dòng chảy của thời gian. “Lòng tôi” và “bầu trời” là hai thế cực, đại diện cho sự hạn hẹp và vô hạn.
Tuy nhiên, theo quan điểm của Xuân Diệu, cái có hạn như cuộc đời con người lại được mở rộng đến vô tận “lòng tôi rộng”, trong khi cái vô hạn như thời gian của đất trời lại trở nên hẹp lại “lượng trời cứ chật”. Phân tích đoạn thơ 2 trong bài Vội vàng cũng chỉ ra rằng thời gian của đất trời đang trêu chọc con người. Mùa xuân của thiên nhiên có thể lặp lại, nhưng mùa xuân của cuộc đời, tuổi trẻ thì không bao giờ trở lại. Vì vậy, dù thời gian có lặp lại, mọi thứ cũng trở nên vô nghĩa vì “tôi” không còn là “tôi” của ngày hôm qua. Như Xuân Diệu đã nói
“Cái đi không chờ cái đến
Từ phút này sang phút khác”
Sự hạn chế của cuộc sống và thời gian được thể hiện rõ nhất trong câu thơ “Còn trời đất nhưng không còn tôi mãi”. Trời đất vẫn xoay vần, nhưng tôi sẽ không còn vĩnh viễn ở đây. Thậm chí, cả hứa hẹn của kiếp sau hoặc một cuộc sống trong thiên đường cũng không thể an ủi được tâm hồn của một nhà thơ. Vì điều mà ông khao khát không phải là hạnh phúc trong một kiếp khác, mà là được thưởng thức mọi khoảnh khắc hạnh phúc trong hiện tại, khi tuổi trẻ đang tới, tình yêu đang rực rỡ.
Tuy nhiên, phân tích bài thơ Vội vàng đoạn 2, người đọc sẽ nhận ra rằng mặc dù biết trước rằng “tôi” không thể tồn tại mãi mãi để trải nghiệm vẻ đẹp của thiên nhiên nhưng Xuân Diệu không hối tiếc cho bản thân, mà hối tiếc cho tuổi trẻ và điều ông tiếc nhất chính là “cả đất trời”. Xuân Diệu dường như đang nuối tiếc vì không thể thưởng thức hết mọi vẻ đẹp của cuộc sống. Những dòng thơ này, với hệ thống từ ngữ, hình ảnh đối lập cao độ như “rộng” – “chật”, “xuân tuần hoàn” – “tuổi trẻ không thể trở lại”, “còn” – “không còn”, đã làm nổi bật tâm trạng tiếc nuối trước thời gian, cuộc đời.
Trước dòng chảy đó, không chỉ Xuân Diệu cảm thấy hối tiếc mà cả mọi thứ trở nên buồn bã, đầy mất mát và lìa xa.
“Hương tháng năm tràn ngập cảm giác chia ly
Mọi ngóc ngách núi sông đều nức nở tiễn biệt”
Thời gian – không phải là sự biến đổi của các hiện tượng tự nhiên mà là được cảm nhận thông qua mùi của nó. Trong việc phân tích đoạn 2 của bài thơ Vội Vàng, từ “rớm” mang đầy nỗi uất ức, tiếc nuối, và sự hụt hẫng. Rõ ràng thời gian không chỉ là một khái niệm vô tri như chúng ta thường nghĩ, mà thậm chí còn có cảm xúc, đang tiếc nuối cho chính bản thân nó. Ý thơ này gợi nhớ đến cảm xúc của Đoàn Phú Tứ.
“Thời gian không màu xanh
Thời gian có màu tím ngát
Hương thời gian không nồng
Hương thời gian thanh thanh”
(Màu thời gian – Đoàn Phú Tứ)
Cuộc chia ly là điềm báo không thể tránh khỏi. Không chỉ thời gian, mà cả không gian cũng đang tràn ngập dự cảm về sự chia lìa. Đó là một không gian rộng lớn, bao la như dòng sông núi. Hiện thực tươi đẹp hiện tại sẽ trở thành quá khứ. Mỗi khoảnh khắc trôi qua không thể nào giữ lại. Cuộc chia ly tiếp diễn từng phút, từng giây. Phân tích đoạn 2 của bài thơ Vội vàng, ta thấy rằng Xuân Diệu không chỉ diễn đạt cảm nhận tổng quan về sự chia ly, mà còn mô tả cụ thể hóa cuộc chia ly của vạn vật.
“Cơn gió nhẹ nhàng thì thầm giữa những lá xanh,
Có phải là tiếc rằng phải rời bỏ?”
Chim rộn ràng bỗng dứt bỏ tiếng hót vang lên,
Có phải là lo sợ về sự phai tàn gần kề?”
Hình ảnh chim, gió vẫn còn, nhưng không còn sự vui tươi rộn ràng của khúc hát yến anh hay của cành lá lung linh. Gió không còn reo vui cùng lá xanh, không truyền đi niềm vui đến mọi người, mà chỉ “thì thầm trong lá biếc”, như đang bày tỏ sự hờn giận về điều gì đó.
Tiếng chim không còn hát khúc tình si mà bỗng im lặng. Hót để làm gì khi cuối cùng vẫn phải nói lời chia ly. Phân tích đoạn 2 của bài thơ Vội vàng, người đọc nhận thấy biện pháp nhân hóa được sử dụng một cách tinh tế, làm sâu sắc thêm nỗi buồn của mọi vật trước thời khắc chia ly sắp đến. Mỗi vật dường như đang tiễn biệt chính mình, không gian truyền đi khúc hát tiễn biệt thời gian. Mọi thứ cứ theo quy luật tự nhiên của nó mà trôi đi, không ai có thể ngăn cản được.
Trước bản ca chia ly của núi sông, thi nhân cũng thốt lên một tiếng thở dài cùng đất trời đầy nuối tiếc.
“Không bao giờ nữa! Không bao giờ nữa!”
Câu thơ như một lời kêu lên đầy bất lực và hoảng sợ. Bất lực vì cuộc sống ngắn ngủi nhưng hương sắc cuộc đời lại vô tận khi thi nhân phát hiện một chốn bồng lai nơi hạ giới. Hoảng sợ vì trước dòng chảy của thời gian, con người không thể xoay vần, chỉ còn cảm giác bị cuốn trôi đi không thể níu giữ.
Phép từ “chẳng bao giờ” được lặp lại hai lần càng nhấn mạnh thêm tâm trạng bàng hoàng tiếc nuối ấy. Phân tích bài thơ Vội vàng đoạn 2, ta còn thấy từ “ôi” xuất hiện như một sự uất nghẹn giữa dòng thơ. Câu thơ trở nên da diết hơn. Tuy bàng hoàng hốt hoảng tiếc nuối nhưng Xuân Diệu không buông xuôi. Ông bất lực trước dòng chảy của thời gian nhưng không từ bỏ, ngồi im chờ đợi thời gian trôi. Xuân Diệu đã tìm ra một cách giải quyết.
“Hãy mau lên, mùa vẫn chưa dừng chiều hôm”
Lời thơ như lời giục giã, thúc giục con người hãy đứng lên đừng buồn vì sự chia ly sẽ đến mà hãy quên đi quá khứ. Thời gian trôi đi nhưng hiện tại “mùa vẫn chưa ngả chiều hôm” cuộc sống vẫn đang tiếp tục, cảnh sắc thế gian vẫn đẹp đẽ quyến rũ lòng người.
Vì vậy, buồn làm gì, thất vọng trước điều không thể thay đổi làm gì. “Hãy mau lên”, hãy nhanh chóng trân trọng từng khoảnh khắc hiện tại để tận hưởng bữa tiệc tươi vui mà thiên nhiên mùa xuân đã dành cho chúng ta. Phân tích bài thơ Vội vàng đoạn 2, người đọc cảm nhận được đây chính là một lẽ sống tích cực. Một thanh âm trong trẻo làm tan đi nỗi buồn chia ly.
Bằng cách miêu tả thiên nhiên cùng với việc sử dụng từ ngữ khéo léo, Xuân Diệu đã vẽ nên một cảnh chia ly của núi sông. Giọng thơ như phân tách làm hai, nhà thơ đang tự nói với chính mình, giãi bày nỗi lòng mình mà dường như lời nói ấy cũng hướng ra ngoài.
Trên nền chia ly ấy, người ta thường rơi vào những cảm xúc tiêu cực buồn bã, oán trách, căm phẫn, bỏ mặc cuộc đời. Nhưng Xuân Diệu không từ bỏ hay căm phẫn trước cuộc đời. Ông hiểu đó là điều không thể tránh khỏi trong cuộc sống. Vậy nên, Xuân Diệu không oán trách nữa mà chấp nhận và cố gắng sống hết mình từng phút giây ngắn ngủi nhưng đầy hương vị. Vì vậy, vội vàng không phải là lối sống tiêu cực mà là một khát vọng mãnh liệt sống trọn với cuộc đời. Phân tích bài thơ Vội vàng đoạn 2, người đọc sẽ nhận ra khát khao sống đầy nhiệt huyết của thi nhân.
Tóm lại, phân tích bài thơ Vội vàng đoạn 2, người đọc nhận ra rằng mặc dù thể hiện tâm trạng nuối tiếc về thời gian và cuộc sống, nhưng qua đó ta cũng thấy một khát vọng mạnh mẽ, một tình yêu sâu đậm mà ông dành cho cuộc sống. Lời thơ chính là tiếng lòng của Xuân Diệu dành cho cuộc sống. Đọc mỗi dòng thơ, ta càng yêu quý những quan niệm sống tích cực được thi sĩ Xuân Diệu truyền đạt trong thơ.
Phân tích khổ 2 bài Vội vàng - Mẫu 3
Xuân Diệu là một nhà thơ xuất sắc và đã đạt được nhiều thành tựu trong văn học Việt Nam. Một trong những bài thơ hay nhất của ông là bài “Vội vàng”, trong tập “Thơ thơ” - thể hiện vẻ đẹp của Xuân Diệu trước Cách mạng Tháng Tám. “Vội vàng” mang đến cho chúng ta một bức tranh mùa xuân tươi mới đầy sức sống với quan điểm nhân sinh mới lạ. Và ở khổ thứ hai của bài thơ, đoạn văn này thể hiện sâu sắc về triết lý thời gian và cuộc đời của tác giả:
“Xuân đến nghĩa là xuân sẽ qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già
Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất
Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật
Không cho dài thời trẻ của nhân gian.”
Nếu ở đoạn thơ đầu của bài, nhà thơ đã vẽ lên một bức tranh xuân tươi đẹp với ong bướm, hoa cỏ, đồng nội, yến anh, và tình yêu nồng nàn của người thi sĩ; thì đến đoạn thơ thứ hai, tác giả lại thể hiện sự đau đớn trước sự nhanh chóng của thời gian. Trong tâm hồn của người thi nhân, có sự nhận thức rõ ràng về sự vô tình của thời gian. Trước một mùa xuân đầy sức sống và hương sắc rực rỡ, tác giả cũng tham gia vào không khí đó nhưng lòng vẫn lo sợ. Sợ rằng “xuân đương tới” sẽ qua, sợ rằng xuân non sẽ già, vì mỗi phút giây qua đi là một phần của cuộc đời ngắn ngủi của con người. Thời gian không chờ đợi ai, nó vụt đi mà không quan tâm đến tuổi trẻ, thanh xuân, hay cảnh vật xung quanh. Thời gian, tuổi trẻ, không bao giờ quay lại, vì thế mỗi khoảnh khắc cần được trân trọng, phải sống một cách vội vã kẻo lỡ những thời khắc đẹp trong cuộc đời. Sự sắp xếp của những cặp từ trái nghĩa như “tới” - “qua”; “già” - “non”, cho thấy cảm nhận nhạy bén của thi nhân về thời gian.
“Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ không thể trở lại như thuở còn sung sức
Trời đất có thể còn mãi nhưng không có tôi mãi
Vậy nên tôi tiếc nuối cả đất trời.”
Thật vậy, đất trời, vũ trụ bao la nhưng con người lại nhỏ bé, đời người lại hữu hạn. Phải chấp nhận sự thật rằng mùa xuân chỉ tuần hoàn, nhưng tuổi trẻ không bao giờ vĩnh viễn mà chỉ tuân theo thời gian, không thể trở lại như những lần thuở còn trẻ, sung sức, đầy nhiệt huyết. Vì vậy nỗi tiếc nuối, buồn bã rộn ngập cả đất trời. Mùi chia ly cũng lan tỏa khắp mọi nơi, làm nhắc nhở về sự vô hạn của thời gian và không gian.
“Mùi tháng năm vẫn rơi như giọt nước chia phôi
Khắp núi sông vẫn lặng lẽ tiễn biệt
Cơn gió xuân thì thầm trong lá biếc
Phải chăng oán trách vì phải rời bỏ?
Chim vang bài ca bỗng đứt tiếng reo thi
Phải chăng sợ sự tàn phai sắp tới?”
Có thể thấy rằng, đây là quy luật tự nhiên, một quy luật của vũ trụ mà không ai tránh khỏi. Vì thời gian rơi như giọt nước, núi sông lặng lẽ tiễn biệt, cơn gió xuân thì thầm trong lá biếc. Tiếng hát của chim cũng dừng lại. Con người đều sợ thời gian, sợ sự chia ly, sợ sự phai tàn, héo úa.
“Chẳng bao giờ, ôi! Không bao giờ nữa ...
Hãy đi nhanh, vì mùa chưa khuất chiều hôm.”
Và ở đây, nhà thơ Xuân Diệu đã phát hiện ra rằng không bao giờ có thể ngăn được nắng, giữ lại sự tươi trẻ của mùa xuân. Sự khao khát mãnh liệt trong lòng, ước mơ bùng cháy đã tan thành mây khói. Chỉ còn lại nỗi bàng hoàng, những lời thốt nơi dòng thơ. Không thể ngăn cản, không thể giữ nắng để giữ lại hương sắc xuân, Xuân Diệu đã thúc giục bản thân và mọi người sống nhanh, tràn đầy nhiệt huyết để không lãng phí thời gian: “Hãy đi nhanh, vì mùa chưa khuất chiều hôm.” Câu cầu khiến này như một lời kêu gọi mạnh mẽ, quyết liệt bởi cách câu cầu sử dụng dấu chấm câm. Câu thơ “Hãy đi nhanh, vì mùa chưa khuất chiều hôm” thực sự điển hình, tiêu biểu cho tinh thần vội vã, quyết đoán của Xuân Diệu trước Cách mạng Tháng Tám. Không chỉ trong “Vội vàng”, Xuân Diệu luôn thúc giục mọi người sống nhanh, sống vội và sống có trách nhiệm. Đừng bỏ lỡ cơ hội bởi những tháng năm phí phạm, sống lãng phí.
Khổ thơ thứ hai không dài nhưng đã chứa đựng biết bao nhiêu cảm xúc của tác giả Xuân Diệu. Khổ thơ đã truyền đạt cho chúng ta một cái nhìn mới về cuộc sống để học hỏi. Tinh thần thơ của Xuân Diệu có lẽ là “tiếng nói của một tâm hồn yêu đời” như vậy. Đọc khổ thơ, chúng ta cảm thấy cần phải nỗ lực hơn, sử dụng thời gian để sống, học và làm việc có ý nghĩa hơn để có một tuổi trẻ đẹp và trọn vẹn.
Tóm lại, Xuân Diệu có một cách nhìn về thời gian khác biệt như vậy, nhờ vào “sự ý thức sâu sắc về cuộc sống của mỗi cá thể”. Quan điểm mới mẻ này đã giúp chúng ta trân trọng từng khoảnh khắc sống, tận hưởng cuộc sống ý nghĩa hơn. Qua khổ thơ này, chúng ta cảm nhận được sự khát khao sống mạnh mẽ, mãnh liệt của nhà thơ lừng danh Việt Nam. Từ đó, chúng ta càng trân trọng những quan điểm sống tích cực, tiến bộ.
Khổ thơ 2 Vội vàng - Mẫu 4
Xuân Diệu được biết đến là nhà thơ của tình yêu và tuổi trẻ. Ông được gọi là “ông hoàng của thi ca tình yêu”. Trước Cách mạng, với hai tập “Thơ Thơ” và “Gửi hương cho gió”, Xuân Diệu đã trở thành “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới” (Hoài Thanh). Bài thơ “Vội Vàng” trong tập “Thơ Thơ” thể hiện rõ phong cách thơ tình yêu của Xuân Diệu, nói về mùa xuân và tuổi trẻ. Đoạn thơ ta sắp phân tích dưới đây thể hiện quan điểm về thời gian và tuổi trẻ của ông, mong muốn sống trọn vẹn với mùa xuân tuổi trẻ, thời gian cuộc đời:
“Xuân đang tới, có nghĩa là xuân đang qua
…
Hãy đi nhanh, mùa chưa khuất chiều hôm”
Bài thơ “Vội Vàng” trong tập “Thơ Thơ”, năm 1938, là một ví dụ điển hình cho phong cách thơ của Xuân Diệu. Bài thơ thể hiện sự tập trung của ông vào việc thể hiện cá nhân và cách ông cảm nhận thiên nhiên, sự sống. Đoạn thơ ta sẽ phân tích nằm ở phần giữa của bài thơ “Vội vàng”. Ở đoạn này, ông tập trung vào quan điểm về thời gian.
Trong thơ trung đại, thời gian được xem là “thời gian tuần hoàn”, một chu trình vô hạn. Nhưng nếu thời gian tuần hoàn, thì cũng sẽ quay trở lại. Quan niệm này xuất phát từ cái nhìn tĩnh lặng, lấy vũ trụ làm thước đo.
Xuân Diệu sử dụng cách trình bày “chống đối”, “tranh cãi” quan niệm cũ, thể hiện quan điểm của mình với cảm xúc sôi nổi, nghĩa là ông thấm nhuần cảm xúc vào triết học. Đoạn thơ ( từ câu 14 đến câu 24, có thể đến câu 28 ) với giọng tranh luận, biện bác, nhịp điệu sôi nổi, khẩn trương và những câu thơ đẹp về cảnh sắc thiên nhiên chứa đựng cảm nhận về thời gian của tác giả. Xuân Diệu mạnh mẽ phủ nhận quan niệm “thời gian tuần hoàn” bằng một câu thật dứt khoát: “Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn”.
Vì vậy, Xuân Diệu đã chọn một quan niệm khác về thời gian, gọi là “thời gian tuyến tính”. Ý nghĩa là thời gian được tưởng tượng như một dòng chảy không ngừng, một hành trình không quay lại. Mỗi khoảnh khắc trôi qua là mất mãi mãi. Do đó, tâm trạng của nhân vật trữ tình mới chỉ có thoáng nỗi buồn và hoài nghi.
Xuân Diệu tin rằng “thời gian tuyến tính” bắt nguồn từ cái nhìn động:
“Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già”
Con người thời trung đại có vẻ chấp nhận quan niệm về thời gian tuần hoàn, với chu kỳ của bốn mùa và kiếp người kéo dài ba vạn sáu ngàn ngày. Xuân Diệu nhìn cuộc sống với ánh mắt trẻ trung nhưng không tránh khỏi những nỗi hoài nghi, mất mát. Ông sợ hãi sự trôi qua của tuổi trẻ và sự già nua nhanh chóng do thời gian là tuyến tính, mỗi khoảnh khắc trôi qua là mất mãi mãi. Sử dụng cặp từ đối lập trong hai câu thơ “Tới – qua”, “non – già” cho thấy cảm nhận sâu sắc của ông về dòng chảy của thời gian. Thời gian không dừng lại. Điều ta có là điều ta mất, hiện tại chứa đựng cả quá khứ và tương lai.
Xuân Diệu sử dụng cuộc sống của mình làm thước đo thời gian. Ông lấy quỹ thời gian hữu hạn của cuộc đời (sinh mệnh cá thể) để đo lường thời gian trong vũ trụ. Ông thậm chí chọn tuổi trẻ, thời kỳ ngắn nhất và ý nghĩa nhất trong cuộc đời của con người để làm thước đo:
“Mùa xuân đã kết thúc, điều đó có nghĩa là tôi cũng đã mất đi
Lòng tôi rộng lớn nhưng không đủ rộng để chứa cả thời gian vô tận
Không thể kéo dài tuổi trẻ của con người mãi mãi
Nói làm gì về việc mùa xuân vẫn quay trở lại
Nếu tuổi trẻ không được trải qua lần thứ hai
Dù trời đất vẫn còn, nhưng tôi sẽ không còn mãi mãi
Vì vậy, tôi đắng lòng và nuối tiếc cả thiên địa”
Từ “Xuân” được lặp lại năm đến sáu lần trong bài thơ (trong ba câu đầu cũng đã có năm lần). “Xuân” không chỉ là mùa xuân của tự nhiên mà còn là mùa xuân của cuộc sống, của tuổi trẻ. Mỗi khi nhắc lại, chúng ta cảm nhận được nỗi buồn của nhà thơ. Mùa xuân của tự nhiên có thể kéo dài mãi mãi nhưng “xuân” của con người đã “hết” thì “tôi cũng đã mất đi”. Dù lòng yêu thương có “rộng lớn” đến đâu thì vẫn không đủ rộng để chứa cả thời gian vô tận. Vì vậy, “tuổi trẻ của con người” không thể kéo dài mãi mãi. Trong bài thơ, sử dụng từ ngữ và hình ảnh đối lập (tới – qua, non – già, rộng – chật, xuân tuần hoàn, tuổi trẻ chẳng hai lần, còn – không còn) để làm nổi bật nỗi niềm về thời gian, cuộc sống. Mặc dù vũ trụ có thể vĩnh viễn và mùa xuân có thể tuần hoàn nhưng tuổi xuân của con người chỉ có một lần, đã qua là qua mãi mãi. Vì vậy, Xuân Diệu đã quyết định phủ định mạnh mẽ:
“Nói làm gì về việc mùa xuân vẫn tuần hoàn,
Nếu tuổi trẻ không được trải qua lần thứ hai!”
Thước đo thời gian của nhà thơ là tuổi trẻ. Nếu tuổi trẻ một khi đã qua đi và không thể được “trải qua lần thứ hai” thì làm gì có sự tuần hoàn! Trong mênh mông của thời gian và không gian, sự tồn tại của con người thật sự là ngắn ngủi, hữu hạn. Nghĩ về tính hạn chế của cuộc đời, Xuân Diệu đã đem đến một nỗi niềm thật sự đắng cay:
“Dù trời đất vẫn còn, nhưng tôi sẽ không còn mãi mãi
Vì vậy, tôi đắng lòng và nuối tiếc cả thiên địa”
Đọc hai câu thơ, ta cảm nhận rõ tiếng thở dài bất lực của nhà thơ. Ta nghe thấy cả cái bâng khuâng, nuối tiếc của ông lan tỏa khắp đất trời. Dường như trước mắt độc giả là cả một trời tiếc nuối. Tâm trạng đó của Xuân Diệu ta cũng thấy trong bài thơ “Giục giã”:
“Thời gian trôi đi, lòng ta không vĩnh viễn
Vừa chỉ xoay gối chăn, mộng vàng tan biến
Mặt trời nhuộm sắc đẹp tan tành
Ánh vàng lấp lánh trong buổi chiều xanh
Vừa quay lại, cả bậc thềm đã vỡ”
Có lẽ từ sự nuối tiếc vô hạn về tuổi trẻ, thi nhân đã “tỉnh tỉnh giác giải” để sống “toàn tâm, toàn ý, sống toàn hồn” mà “say”, “thấu”, “ôm”, “nắn” cho đến khi hết hương vị của tuổi xuân?
Cảm nhận về thời gian của Xuân Diệu là một cảm nhận đầy tính mất mát. Mỗi khoảnh khắc trôi qua là một mất mát lớn lao. Sự phai nhạt không chỉ đến “khắp sông núi” mà còn tới từng cá thể. Và thời gian trôi đi sẽ khiến cho vẻ đẹp kỳ diệu của thiên nhiên này dần phai nhạt. Một sự phai nhạt không thể tránh khỏi:
“ Hương vị tháng năm đều tan biến
Khắp nơi vẫn có tiếng chào tạm biệt”
Đây là hai câu thơ thể hiện rõ sự nhạy bén trong cách nhìn nhận về thời gian của Xuân Diệu. Cảm nhận này không chỉ thông qua thị giác mà còn qua khứu giác “mùi tháng năm”, cảm nhận từ vị giác “vị chia phôi”. Mỗi khoảnh khắc rời bỏ hiện tại để trở thành quá khứ được mô phỏng như một cuộc chia ly. Mỗi khoảnh khắc đều là một sự chia lìa, một mất mát. Và dòng thời gian trở thành chuỗi không ngừng của những chia lìa, mất mát. Do đó, thời gian mang đậm hương vị của sự chia lìa. Trên khắp nơi, trong không gian, là lời thở than tiễn biệt “khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt”. Đó là lời thở than của muôn vật, là không gian tiễn biệt thời gian, và xa hơn nữa, là mỗi vật thời gian đều ngậm ngùi tiễn biệt một phần cuộc sống của chính mình. Những phần cuộc sống của sinh mệnh cá thể đang đi không thể nào chống lại, chúng tạo ra sự trôi chảy không ngừng, tạo ra sự phôi pha, phai nhạt của từng cá thể:
“Gió xinh thì thầm giữa lá biếc
Phải chăng hờn vì phải rời đi?
Chim reo vui đột ngột giữa cây xanh
Phải chăng lo sợ phai nhạt đã gần?”
Gió đùa giỡn trong lá không chỉ là âm thanh của thiên nhiên vui tươi của mùa xuân, mà còn là tiếng thầm thì về nỗi tức giận, buồn bã. Gió buộc phải nói lời tạm biệt với lá cây khi bay đi; chim hót rộn ràng trên cành cây bỗng dưng giảm dần tiếng ca vui tươi, không phải vì có sự đe dọa nào, mà chỉ vì chúng buồn thương cho mùa xuân sắp qua đi. Điều đó không chỉ áp dụng cho Xuân Diệu mà còn đối với tất cả vạn vật trong thiên nhiên, họ đều nhận ra luật lệ nghiệt ngã, luật lệ không thể quay lại của thời gian ấy. Có lẽ vì vậy mà Xuân Diệu đã đưa ra một quyết định hợp lí cho bản thân và cho mọi người “Tôi không chờ nắng hạ mới mong chờ xuân”.
“Không bao giờ ạ! không bao giờ một lần nữa
Vội vàng lên! mùa chưa ngả chiều hôm”
Nhà thơ bất ngờ kêu lên lời than thở. Tiếc nuối, lo lắng và bỗng tỉnh giấc vì 'mùa chưa ngả chiều hôm', nghĩa là vẫn còn trẻ trung, chưa già. Lên đường! Phải nhanh chóng, phải hối hả “Vội vàng lên”. Câu cảm thán với cách thay đổi nhịp điệu làm nổi bật nỗi lo lắng, sự băn khoăn và đồng thời cũng là nỗi tiếc nuối, bâng khuâng. Vậy thôi, không thể “buộc gió”, không thể “tắt nắng”, cũng không thể giữ lại thời gian, vậy thì chỉ còn cách thực tế nhất là chạy đua với thời gian, là phải sống hết mình. Xưa kia, Nguyễn Trãi viết trong bài thơ 'Thơ tiếc cảnh':
'Xanh xuân chưa dễ lần thứ hai
Thấy cảnh buồn thêm thiếu niên'
Những dòng thơ của Nguyễn Trãi mang đến cho chúng ta cái nhìn sâu sắc về màu sắc của thời gian, về tuổi trẻ. Đồng thời, chúng cũng giúp ta hiểu thêm về lòng ham muốn sống đến tận cùng của nhà thơ.
Cách nhìn nhận về thời gian xuất phát từ ý thức sâu sắc về giá trị của cuộc sống cá nhân. Mỗi khoảnh khắc đều quý báu vô cùng vì mất nó là mất mãi mãi. Điều này khiến con người hiểu rằng mỗi khoảnh khắc trong cuộc đời đều cần phải được sống đầy ý nghĩa.
Tư tưởng về việc sống với tinh thần vội vã thể hiện sự tích cực và đáng trân trọng của Xuân Diệu đối với cuộc sống.
Bằng việc sử dụng phép điệp ngữ và cấu trúc câu, cùng với giọng điệu thơ sôi nổi nhưng không kém phần bi thương, tác giả đã tạo nên một đoạn thơ giàu ý nghĩa và ấn tượng của Xuân Diệu.
Tóm gọn lại, đoạn thơ biểu hiện sự tiếc nuối về thời gian và cuộc sống của một nhà thơ luôn khát khao sống hết mình. Qua đó, người đọc thêm trân trọng quan niệm về cuộc sống tích cực, cảm xúc chân thành của một tâm hồn nghệ sĩ luôn đam mê yêu cuộc sống. Như Giáo Sư Nguyễn Đăng Mạnh đã phân tích: 'Đây là giọng điệu của một tâm hồn yêu đời, say mê sống trọn vẹn. Tuy nhiên, đằng sau những tình cảm đó, tồn tại một quan niệm mới lạ về nhân sinh chưa từng xuất hiện trong thơ truyền thống'.
Khổ thơ thứ hai của bài “Vội vàng” - Tập thơ số 5
Xuân Diệu là nhà thơ của tình yêu và tuổi trẻ. Trước Cách mạng Tháng Tám, với hai tác phẩm “Thơ Thơ” và “Gửi hương cho gió”, Xuân Diệu đã thực sự trở thành “nhà thơ mới nhất của những nhà thơ mới” (theo lời của Hoài Thanh). Bài thơ “Vội Vàng” được in trong tuyển tập “Thơ Thơ”, là một trong những ví dụ điển hình về lối sống tình yêu của Xuân Diệu, một tinh thần dành trọn cho mùa xuân, cho tuổi trẻ. Bài thơ mà chúng ta sẽ phân tích sau đây là một bản tình ca, phản ánh quan điểm sâu sắc của Xuân Diệu về tình yêu và tuổi trẻ, về khát khao sống mạnh mẽ, sống có trách nhiệm, sống trọn vẹn với mùa xuân tuổi trẻ, với cuộc đời:
“Xuân về, đồng nghĩa với việc thời gian trôi qua
…
Hãy đi nhanh! Chưa phải là lúc mùa chưa chuyển chiều”
Hãy chậm lại một chút, chúng ta sẽ nhìn thấy điểm mới qua lời bình của Xuân Diệu. Nếu người xưa cho rằng thời gian là một chu trình, lặp đi lặp lại theo dòng chảy vô hạn của đất trời, vì vậy họ thường cảm thấy thoải mái, tự do “trên trời có sao, trên đất có hoa” thì đối với Xuân Diệu, thời gian trở thành một nỗi sợ hãi. Ông quan niệm rằng thời gian không lặp lại, một khi đã mất đi, vì thế khi mùa xuân đang đến trên khắp nơi và bắt đầu lấp lánh trên mọi vật, ta cảm nhận rằng theo từng bước đi của thời gian, trong nhịp bước nhanh chóng của mùa xuân, như thể mùa xuân vừa mới hiện hữu và cũng sẽ sớm biến mất vào đất trời. Mùa xuân là mùa của sự sống, của tình yêu và sự sáng tạo thơ ca. Mùa xuân là tuổi trẻ của đất trời, và mùa xuân của mỗi con người là tuổi trẻ. Vậy khi mùa xuân qua đi, cũng là lúc tuổi trẻ dần trôi đi theo sương mai trên tóc, cũng là lúc tâm hồn thi sĩ tràn ngập lo âu và u sầu. Tâm hồn thi sĩ khao khát mùa xuân, yêu mùa xuân, mơ ước mùa xuân trong trái tim mình, và sống mãi với mùa xuân trên những tiếng cười và ánh mắt, mong muốn thời tiết ấm áp, “để tuổi trẻ của tôi không phai nhạt”. Đó chính là những dòng thơ của một thi sĩ tận hưởng tuổi trẻ và mùa xuân, chìm đắm trong hạnh phúc và sự thực của cuộc sống. Nhưng đặc biệt nhất, điểm nhấn của các câu thơ trên là quan điểm mới lạ và sáng tạo về thời gian của cái tôi thơ Mới.
“Hương tháng năm đều mang vị chia ly
Khắp núi sông vẫn im lặng tiễn biệt
Con gió nhẹ nhàng thoảng qua giữa lá xanh biếc
Liệu có phải vì nỗi buồn sắp phải rời xa?
Chim hò hẹn bỗng dứt lời vui ca
Có phải sợ sự phai tàn sắp ập đến?”
Trái đất rộng lớn, vũ trụ bao la, chúng ta nhỏ bé, cuộc đời ngắn ngủi. Phải nhận thức rằng dù mùa xuân tuần hoàn nhưng tuổi trẻ không có, không thể quay lại như những lúc hồi xuân, vẫn đầy năng lượng. Vì vậy, sự nuối tiếc, lo âu bao trùm cả thế giới. Mùi chia tay phủ lên tất cả, từ vũ trụ lớn đến khoảng không rộng lớn của không gian. Đó là điều bình thường của cuộc sống mà con người không thể tránh khỏi. Thời gian làm mờ màu sắc của sự chia ly, con người khóc như lời từ biệt, mỗi hơi thở xuân dù mạnh mẽ cũng tan biến theo tiếng nấc. Tiếng ru lòng như làn nhạc xưa đã tạnh đi. Có lẽ mọi người đều sợ thời gian, sợ cảm giác cô đơn, buồn bã, sợ sự phai nhạt và mất điều gì đó quan trọng.
“Không bao giờ nữa… Ôi, không bao giờ…”
Hãy đi nhanh! Chưa phải là lúc mùa chưa chuyển chiều”
Cuối cùng, không bao giờ có thể thực hiện ước mơ nếu mãi chờ đợi, hy vọng. Tiếng “ôi” như một lời nhắc nhở nhẹ nhàng nhưng đầy ý nghĩa, gợi lên sự hối tiếc và thúc đẩy mọi người hành động ngay lập tức:
Hãy đi nhanh! Chưa phải là lúc mùa chưa chuyển chiều”
Hãy vội vàng chạy đua với thời gian, với vũ trụ khi “nắng mới nghiêng một chiều mai”, trong khi lá vẫn xanh rì và mùa xuân chưa đến. Câu hát “Hãy đi nhanh” trở thành lời nhắc nhở cho những ai đang bị đắm chìm trong sự chậm chạp, uể oải và nhấn mạnh rằng phải sống nhanh, sống trọn vẹn và có trách nhiệm. Đừng bỏ lỡ mùa xuân giữa chuỗi ngày tháng dài và đầy ý nghĩa. Đoạn thơ dù ngắn nhưng đã chứa đựng tất cả tâm tình của tác giả và mang lại cho độc giả, đặc biệt là những bạn trẻ ngày nay, một cái nhìn mới về cách sống và làm việc. Thơ của Xuân Diệu chính là “tiếng nói của một trái tim sống” như vậy. Đọc bài thơ này, ta cảm thấy cần phải nỗ lực hơn mỗi ngày, tận hưởng từng khoảnh khắc của cuộc sống, học hỏi và lao động hiệu quả hơn để sống một cuộc đời ý nghĩa, hạnh phúc. Xuân Diệu được biết đến như là thi sĩ của niềm vui xuân và tình yêu, ông có tình yêu mãnh liệt với thiên nhiên, với con người, chính vì thế nhà thơ nhạy cảm, ám ảnh hơn với sự thay đổi của thời gian.
Chỉ với 16 câu thơ, Xuân Diệu đã truyền đạt một quan niệm nhân sinh tiên tiến về thời gian, về mùa xuân và tuổi trẻ của mình. Ta cũng nhận thấy rằng Xuân Diệu thể hiện sự tiếc nuối về thời gian và tuổi trẻ, nhưng qua đó lại thấy được một khát khao mạnh mẽ, một tình yêu mãnh liệt mà ông dành cho cuộc sống.
Khổ thơ thứ hai của bài “Vội vàng” - Mẫu 6
Xuân Diệu, nhà thơ mới nhất trong số những nhà thơ Mới, sự mới của ông không chỉ đến từ cảm xúc, mà còn từ quan niệm sống, từ quan niệm về thẩm mỹ mới mẻ. Nếu ở khổ thơ đầu tiên là những quan niệm sâu sắc về cuộc sống, thì đến khổ thơ thứ hai này là cái nhìn hiện đại, mới mẻ về thời gian của cái tôi thơ Mới.
“Xuân đang tới nghĩa là xuân sắp qua
Xuân vẫn non nghĩa là xuân sẽ già đi
Nhưng khi xuân hết nghĩa là tôi cũng mất đi
Lòng tôi rộng lớn nhưng bỗng chật hẹp
Không cho đủ thời trẻ của nhân gian
Nói làm gì rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ không hai lần thắm lại
Vậy thì trời đất cũng chẳng còn tôi mãi
Nên lòng tôi đau đớn tiếc nuối cả trời đất”.
Chậm lại một chút, ta sẽ phát hiện ra cái mới trong tư duy thơ của Xuân Diệu. Thời gian không còn là vòng lặp, không tái tái sinh như triết học cổ điển mà là nỗi ám ảnh, một lối tư duy tuyến tính mà không thể quay trở lại. Ngay cả khi mùa xuân về, khi tất cả vạn vật rực rỡ sức sống, chúng ta vẫn cảm nhận sự trôi chảy của thời gian, sự hiện hữu nhất thời của mùa xuân, và sự tan biến nhanh chóng của nó. Mùa xuân là thời điểm của sự sống, của sự tươi mới, và cũng là tuổi trẻ của cả đời. Khi mùa xuân kết thúc, tuổi trẻ dần phai nhạt, lòng người bắt đầu chán chường, cảm thấy tiếc nuối về những gì đã qua. Đó là tiếng than của một nhà thơ đam mê với tuổi trẻ và mùa xuân, đam mê với cuộc sống và tình yêu. Nhưng điều đặc biệt nhất vẫn là quan niệm về thời gian cực kỳ mới mẻ, hiện đại của cái tôi thơ Mới.
Mùi của tháng năm, âm thanh của núi sông vẫn âm thầm tiễn biệt, nhưng gió xuân thì không còn lời reo vui như trước. Có phải họ đang sợ sự phai tàn, sự kết thúc gần kề?
Mùa xuân của thiên nhiên có thể luôn tuần hoàn, nhưng mùa xuân của con người, của tuổi trẻ không thể trở lại. Nỗi buồn của thi nhân đã lan tỏa vào mọi cảnh vật, tạo nên một không gian buồn bã, nặng nề. Điều đó thể hiện sự lo lắng về sự trôi chảy không ngừng của thời gian.
Khổ thơ thứ hai trong bài thơ 'Vội vàng' đã mở ra một quan niệm mới mẻ của Xuân Diệu về thời gian, đồng thời là lời thúc giục để sống, tận hưởng và đóng góp cho cuộc sống.
Khổ thơ thứ hai trong tuyển tập 'Vội vàng' - Mẫu 7
Xuân Diệu là một nhà thơ xuất sắc của thời kỳ Mới ở Việt Nam, đã đạt được nhiều thành tựu trong văn học. Bài thơ 'Vội vàng' trong tập 'Thơ thơ' là một trong những tác phẩm xuất sắc của ông, mang đến cho độc giả một bức tranh sâu sắc về mùa xuân và cảm xúc nhân sinh.
'Xuân đương tới' có nghĩa là mùa xuân đang đến gần, 'xuân còn non' có nghĩa là mùa xuân còn trẻ, nhưng 'mà xuân hết' thì cũng là lúc tuổi trẻ của tôi kết thúc, bởi vì thời gian không thể chứa đựng được nhiều tuổi trẻ.
Trong bài thơ 'Vội vàng', Xuân Diệu đã vẽ lên bức tranh tuyệt vời về mùa xuân với sự rực rỡ của hoa cỏ, ong bướm, nhưng đồng thời cũng thể hiện nỗi lo âu và bất an trước sự chảy trôi của thời gian. Mỗi ngày, mỗi tháng, mỗi năm trôi qua là một khoảnh khắc mất đi từng chút của tuổi trẻ, và không thể lấy lại được.
'Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn, nếu tuổi trẻ không thể quay lại. Dù trời đất vẫn còn, nhưng tôi không còn mãi mãi. Đó là lý do tôi tiếc nuối cả đất trời.'
Đất trời rộng lớn, vũ trụ bao la, nhưng con người nhỏ bé và cuộc đời hữu hạn. Phải chấp nhận thực tế rằng mùa xuân tuần hoàn trong khi tuổi trẻ không có. Nỗi tiếc nuối về thời trẻ và mùa xuân bao trùm cả đất trời.
'Hãy chạy nhanh với thời gian, với vũ trụ, khi mà 'nắng mới nghiêng một chiều mai', trong khi sắc lá vẫn còn xanh mướt và mùa xuân chưa đến. Câu hát 'Mau đi thôi' là lời nhắc nhở cho những ai đang lỡ hẹn với cuộc sống, nhắc nhở họ sống trọn vẹn, sống đầy đủ, và sống không hối tiếc. Đừng để mất đi mùa xuân trong chuỗi ngày tháng dài lê thê. Khúc thơ này không dài nhưng chứa đựng tất cả tâm tư của tác giả và mang lại cho người đọc, đặc biệt là giới trẻ, một góc nhìn mới về cách sống. Xuân Diệu được xem là 'tiếng nói của trái tim'. Đọc bài thơ này, ta nhận ra rằng cần phải cố gắng hơn mỗi ngày, tận hưởng cuộc sống và làm việc hiệu quả hơn để có một cuộc sống ý nghĩa và hạnh phúc hơn.
Lời ru êm đềm của thời gian, những lời chia tay của núi non, sự thầm lặng của gió xuân trong lá biếc, tất cả đều bày tỏ sự lo âu trước thời gian phai mờ. Có lẽ mọi thứ đều sợ hãi sự phai tàn, sợ sự biệt ly và cảm giác héo úa.
'Không bao giờ, ôi! Không bao giờ nữa...
Hãy đi nhanh, mùa chưa tắt hoàng hôn'
Cuối cùng, không bao giờ có thể thực hiện những điều mình mong muốn nếu mãi chờ đợi, hy vọng. Tiếng 'ôi' nhẹ nhàng nhưng cũng thực sự, kêu gọi mọi người hãy hành động, hãy hành động ngay lập tức:
'Hãy đi nhanh! Mùa chưa tắt hoàng hôn'
Hãy nhanh chóng bước tiếp với vũ trụ, với thời gian khi 'mùa vẫn chưa khuất chiều hôm', khi mà lá cây vẫn chưa rụng, mùa chia ly chưa đến. Lời kêu gọi 'Hãy đi nhanh' như một lời thức tỉnh cho những ai đang lạc lõng trong sự trì hoãn, chậm trễ và không quyết đoán, hãy sống nhanh, sống tỉnh táo và sống có ý nghĩa. Đừng để lỡ mất khoảnh khắc xuân tươi vui vì những tháng ngày vô ích, phí phạm.
Một đoạn thơ ngắn nhưng đã chứa đựng bao nhiêu tâm tư của tác giả, tác phẩm đã truyền đạt cho độc giả, đặc biệt là những người trẻ tuổi một cái nhìn mới về ý nghĩa của cuộc sống. Thơ của Xuân Diệu chính là 'tiếng nói của một trái tim yêu đời' như thế. Đọc đoạn thơ, tôi cảm thấy cần phải nỗ lực mỗi ngày, tận dụng thời gian để sống, học tập và làm việc có ý nghĩa hơn nữa để trải qua một tuổi trẻ đẹp, trọn vẹn.
Xuân Diệu được xem là nhà thơ của mùa xuân và tình yêu, ông mang trong lòng tình yêu mãnh liệt với cuộc sống, với thiên nhiên, cũng vì yêu thích đó mà nhà thơ cảm thấy nhạy cảm, ám ảnh hơn với sự trôi chảy của thời gian.
Phân tích khổ 2 Vội vàng - Mẫu 8
Văn học Việt Nam với trào lưu Thơ Mới luôn ghi dấu ấn với nhiều tác phẩm nổi bật. Trong số những đóng góp đó, Xuân Diệu được coi là một cây bút tài hoa với những tập thơ về tình yêu khiến người đọc mê mẩn. Vội vàng là một ví dụ điển hình về vẻ đẹp của cuộc sống, quan điểm tích cực về cuộc sống từ tác giả. Điều này được thể hiện rõ nhất khi đến với khổ thứ hai của bài thơ.
Trong khổ thơ đầu tiên, nhà thơ muốn kiểm soát tự nhiên bằng cách 'tắt nắng', 'buộc gió', nhưng ở khổ thứ hai, ông trình bày quan điểm tích cực hơn về thời gian và cuộc sống. Bài thơ mở đầu bằng hai câu thơ như một lời nhắc nhở về tình chảy trôi của thời gian và những suy ngẫm sâu sắc về cuộc sống.
Người đọc sẽ bị cuốn hút bởi cách tả chi tiết và tinh tế trong thơ của Xuân Diệu. Sự vội vã của thời gian khiến cho người ta nuối tiếc và lo lắng. 'Đương tới' - 'đương qua', 'còn non - sẽ già', là lời nhắc nhở về sự trôi chảy của thời gian. Trong thơ truyền thống, thời gian được coi là ngắn ngủi, nhưng trong Thơ Mới, người ta nhận ra sự sợ hãi và ý thức rõ ràng hơn về thời gian.
Phân tích khổ 2 Vội vàng - Mẫu 8
Một ví dụ khác về sự thay đổi trong cách nhìn của con người về thời gian là câu thơ của Mãn Giác Thiền trong 'Cáo tật thị chúng': 'Xuân khứ bách hoa lạc, Xuân đào bách hoa khai'. Trước sự lớn lao của thời gian, con người cảm thấy mình nhỏ bé và yếu đuối. Mùa xuân hôm nay có vẻ rất tươi mới, nhưng sẽ đến lúc nó phải tàn, già cỗi đi theo thời gian, điều này không ai có thể ngăn cản được.
Nền văn học Việt Nam luôn chứa đựng những tác phẩm sáng tạo và sâu sắc về thời gian và cuộc sống. Thơ của Xuân Diệu là một minh chứng rõ ràng cho điều này, thể hiện sự quan tâm sâu sắc đến vấn đề về thời gian và tự nhiên.
Thời gian trôi qua như kẽ tay, làm khô lá và kỷ niệm trong tôi rơi như tiếng sỏi trong lòng giếng cạn.
Khi mùa xuân qua đi, tuổi xuân của con người cũng theo đó trôi vào tiếc nuối. Ở đây, nhà thơ cảm thấy mất mát và trống rỗng khi thời gian mai một tất cả, kể cả tuổi trẻ.
Mùa xuân kết thúc cũng là lúc tôi cảm thấy mất đi mọi ý nghĩa. Không bao giờ nữa...
Nhà thơ muốn nhấn mạnh tầm quan trọng của mùa xuân và tuổi trẻ, đồng thời nhận thức về sự trôi chảy của thời gian. Sự hữu hạn của cuộc sống được nhấn mạnh qua sự so sánh giữa 'lòng tôi' và 'lượng trời', làm nổi bật nỗi lo âu và hốt hoảng trước sự thay đổi không ngừng của thời gian và cuộc sống.
Với những dòng thơ ngắn nhưng chứa đựng triết lý sâu sắc, Xuân Diệu thể hiện tinh thần lãng mạn và sự cá nhân của mình. 'Vội vàng' là một tác phẩm tuyệt vời đi cùng với thời gian.
Đánh giá phần Vội vàng - Mẫu 9
Trong dòng thơ Việt Nam, nhà phê bình văn học Hoài Thanh từng khẳng định: “Thơ của Xuân Diệu là một nguồn sống phong phú chưa từng có ở đất nước này.”. Khi nhắc đến Xuân Diệu, không thể không nhắc đến một bài thơ đậm chất, phong cách của ông - Vội vàng. Trích từ tập “Thơ thơ”, “Vội vàng” là nỗi ám ảnh về thời gian và ham muốn yêu đời, khát khao sống đầy độ của Xuân Diệu. Nếu phần đầu tiên của bài thơ là mong muốn mãnh liệt cùng với vẻ đẹp độc đáo của mùa xuân, thì sang phần thơ thứ hai, nhà thơ giải thích lý do phải sống vội vã.
Tại sao Xuân Diệu lại tiếc nuối mùa xuân ngay khi nó còn đang rực rỡ. Có lẽ vì thi sĩ có quan niệm mới mẻ về thời gian:
Mùa xuân đến chỉ là dấu hiệu của sự già đi, và khi mùa xuân kết thúc cũng là lúc tôi mất đi. Trái tim tôi rộng lớn nhưng vũ trụ lại hẹp lại, không cho phép thời trẻ trung của con người kéo dài.
Nếu người xưa luôn yên bình trước sự tuần hoàn của thời gian, Xuân Diệu lại quan niệm thời gian, mùa xuân, tuổi trẻ không thể quay lại. Do đó, Xuân Diệu luôn lo sợ và lo âu khi thời gian trôi đi nhanh chóng. Ông không chỉ tiếc nuối mùa xuân, tháng ngày mà còn tiếc từng khoảnh khắc, từng phút giây. Trong một bài thơ khác, nhà thơ cũng đã nói:
Từ khoảnh khắc ấy trôi qua khoảnh khắc này
Thi sĩ sợ hãi rằng tuổi trẻ sẽ qua đi, tuổi già sẽ đến nhanh chóng bởi thời gian như một dòng chảy mà mỗi khoảnh khắc trôi qua là mất đi vĩnh viễn. Sự sử dụng cặp từ đối lập “tới - qua”, “non - già” đã thể hiện sự nhạy cảm của nhà thơ trước sự biến đổi của thời gian. Cùng với hàng loạt câu thơ văn xuôi theo lối định nghĩa và sự lặp lại liên tục của điệp ngữ “nghĩa là”, Xuân Diệu đã khẳng định một sự thật hiển nhiên không thể phủ nhận: Dù mùa xuân đến, mùa xuân còn non nhưng mùa xuân sẽ qua, sẽ già, sẽ kết thúc và tuổi trẻ cũng sẽ mất đi. Đối mặt với sự thật hiển nhiên đó, Xuân Diệu không khỏi cảm thán. Liên tiếp các dấu phẩy được sử dụng để tạo nên điệu thơ sâu lắng, buồn bã.
Để thuyết phục mọi người tin vào chân lí: mùa xuân của tuổi trẻ là tuyến tính, Xuân Diệu đã tự đề cập, tranh luận bác bỏ ý nghĩ cố hữu của mọi người rằng mùa xuân vẫn tuần hoàn:
Nói gì nữa rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ không thể thắm lại lần hai
Với Xuân Diệu, tuổi trẻ không thể thắm lại nên cũng không thể nói mùa xuân là tuần hoàn. Do đó, Xuân Diệu tiếc nuối mùa xuân nhưng thực chất là tiếc nuối tuổi trẻ. Và đó là lý do khiến thi sĩ vội vàng một nửa khi mùa xuân mới bắt đầu:
Dù trời đất vẫn còn, nhưng tôi mãi mãi đã không còn Vì vậy lòng tôi tiếc cả trời đất
Chính xác, giữa vẻ bao la của vũ trụ, vô cùng, vô tận của thời gian, tuổi trẻ, sự sống của con người bỗng trở nên quá ngắn ngủi, mong manh chỉ như bóng cáu qua cửa sổ, như cơn chớp mà thôi. Suy ngẫm về điều đó, day dứt về điều đó, Xuân Diệu đã mang đến một nỗi ngậm ngùi mà mới mẻ trong thơ ca Việt
“Với quan niệm một đi không trở lại và bằng tâm hồn rất nhạy cảm tới mức có thể nghe thấu cả sự mơ hồ” (Thế Lữ), Xuân Diệu cảm nhận sâu sắc sự phôi pha, phai tàn đang âm thầm diễn ra trong lòng vũ trụ trên cả hai trục không gian và thời gian.
Hương vị tháng năm đều rơm rạ chia phôi
Khắp núi sông vẫn rền than tiễn biệt
Con gió xinh thì thì thầm trong lá biếc
Có lẽ vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ra ràng bỗng đột tiếng reo thì
Có lẽ vì nỗi phai tàn sắp sửa.
Thời gian thì rơm rạ chia phôi, khắp không gian đâu đâu cũng vang lên khúc chia li, lời thầm tiễn biệt. Gió đùa trong lá không phải là những âm thanh vui tươi, sống động của thiên nhiên mà vì nỗi tuỳ trưởng trước sự trôi chảy của thời gian. Chim hót những bản nhạc chào xuân rộn ràng bỗng dừng bất thình lình, không có mối nguy hiểm nào cả, mà vì chúng sợ sự phai tàn, héo úa. Vậy là vạn vật không thể cưỡng lại quy luật phai tàn nghiệt ngã của tạo hóa. Chịu ảnh hưởng sâu sắc thuyết tương giao trong tượng trưng Phà, Xuân Diệu không chỉ đã mang đến những cảm nhận tinh tế rất mới, rất Tây, rất hiện đại về thời gian:
Hương vị tháng năm đều rơm rạ chia phôi.
Thời gian ban đầu vô hình, vô hình, không mùi, không vị, nhưng trong thơ của Xuân Diệu bỗng có mùi, có vị chia phôi. Thơ trung đại, thậm chí thơ mới cũng hiếm khi có câu thơ có cách nhận thức như vậy.
Kết thúc phần thơ thứ nhất - phần giải thích tại sao phải sống vội vàng là dòng thơ tràn ngập cảm xúc:
Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa…
Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm
Tới đây, thi sĩ đã vỡ lẽ chẳng bao giờ có thể tắt nắng buộc gió, niều giữ mãi tuổi trẻ mùa xuân ở lại. Khao khát cháy bỏng, ước muốn táo bạo đã tan thành mấy khói. Chỉ còn lại nỗi bàng hoàng, thẳng thốt còn in dấu trong dấu chấm cảm giữa dòng thơ và dấu chấm lửng cuối dòng thơ. Không thể buộc gió, chẳng thể tắt nắng để niều giữ mãi hương sắc mùa xuân, Xuân Diệu đã thúc mình và mọi người hãy sống vội vã, hãy chạy đua cùng thời gian: “Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm.” Lời giục giã thúc mang sắc điệu mạnh mẽ, quyết liệt bởi kiểu câu cầu khiến có sử dụng dấu chấm cảm giữa dòng. Có thể nói câu thơ “Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm” rất điển hình, tiêu biểu cho hồn thơ vội vàng cuống quýt của Xuân Diệu trước cách mạng tháng 8. Không chỉ ở “Vội vàng”, Xuân Diệu luôn hối thúc giục giã mọi người cần sống mau, sống vội:
Nhanh lên! Thời gian không ngừng chờ đợi
– Vội đi em, anh rất sợ ngày mai
Đời trôi chảy lòng ta không bao giờ vĩnh viễn
– Nhanh lên! Vội vàng bước đi nào
Em ơi, tình yêu non đã gần già rồi!
“Mùa chưa ngả chiều hôm” là một cách kết hợp từ mới lạ, thú vị. Xuân Diệu đã dùng từ chỉ thời gian cuối ngày để chỉ thời điểm cuối mùa. “Mùa chưa ngả chiều hôm” là mùa chưa tàn, chưa phai, vì thế hãy vội vã mau chóng tận hưởng hương sắc của nó.
Có thể thấy, Xuân Diệu có cách cảm nhận về thời gian khác lạ như vậy là nhờ vào “sự ý thức sâu xa về sự sống của cả thể”. Quan niệm mới mẻ ấy của Xuân Diệu đã khiến cho ta phải trân trọng từng phút giây của cuộc đời, tận hưởng một cuộc sống trọn vẹn và ý nghĩa. Quan đoạn thơ, ta đã thấy được niềm khao khát sống mãnh liệt, cháy bỏng của ông Hoàng thơ tình Việt nam. Từ đó, chúng ta thêm trân trọng quan niệm nhân sinh, tích cực, tiến bộ. Cũng như giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh từng nói: “Đây là tiếng nói của một tâm hồn yêu đời, yêu sống đến cuồng nhiệt. Nhưng đằng sau những tình cảm ấy, có một quan niệm nhân sinh mới mẻ chưa thấy trong thơ ca truyền thống”.
Khổ 2 Vội vàng - Mẫu 10
Thơ Xuân Diệu tinh tế, gợi cảm, độc đáo trong chất liệu cũng như trong bút pháp thi ca. Nhắc tới ông, ta không thể không nhắc tới một bài thơ in đậm dấu ấn và phong cách của ông: Vội vàng. Bài thơ vừa như một nguồn cảm xúc trào dâng vừa là tuyên ngôn sống của một nhà thơ khao khát yêu đời. Đặc biệt, nếu phần đầu tiên của bài thơ là ước muốn táo bạo cùng vẻ đẹp độc đáo của mùa xuân thì sang phần thơ thứ hai, nhà thơ đã thể hiện quan niệm nhân sinh mới mẻ về thời gian và tuổi trẻ.
Thời gian trong thơ ca trung đại được coi như một vòng tròn không ngừng lặp lại, mỗi lần kết thúc đều quay về điểm xuất phát, tiếp tục mãi mãi. Quan niệm này khởi nguồn từ cái nhìn tĩnh mịch, dùng sinh mệnh vũ trụ làm thước đo cho thời gian. Nhưng đối với Xuân Diệu, ông có quan niệm mới mẻ về thời gian:
Xuân đương tới nghĩa là xuân đang qua,
Xuân còn non nghĩa là xuân sắp già,
Nhưng xuân hết nghĩa là tôi cũng mất.
Nếu người xưa luôn bình thản trước sự trôi chảy của thời gian bởi họ coi thời gian là tuần hoàn, thì Xuân Diệu lại quan niệm thời gian, mùa xuân, tuổi trẻ một khi qua đi sẽ không bao giờ trở lại. Vì vậy ông luôn lo lắng khi thời gian trôi đi nhanh chóng. Điều mà thi sĩ sợ nhất là tuổi trẻ qua đi, tuổi già tới nhanh chóng bởi thời gian là một dòng chảy mà mỗi khoảnh khắc trôi qua là mất mãi mãi. Sự sử dụng cặp từ đối lập “tới - qua”, “non - già” đã thể hiện sự nhận thức tinh tế của nhà thơ trước thời gian. Kèm theo đó là một loạt câu thơ ngây ngất, buồn bã:
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho dài thời trẻ của nhân gian,
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
Nếu đến nữa không phải rằng gặp lại.
Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;
“Lòng tôi” và “lượng trời” vốn đã là hai thế cực tương phản của sự hạn hẹp và vô hạn. Nhưng trong quan điểm của Xuân Diệu, sự hạn hẹp của cuộc sống lại trở nên vô cùng “lòng tôi rộng” trong khi sự vô hạn của thời gian lại trở nên nhỏ bé “lượng trời cứ chật”. Sự đối lập giữa “rộng” - “chật”, “xuân tuần hoàn” - “tuổi trẻ không lặp lại”, “còn” - “không còn” đã làm nổi bật nỗi tiếc nuối trước thời gian, cuộc đời.
Sự hạn chế của cuộc sống con người trước thời gian được thể hiện rõ nhất trong câu thơ “Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi”. Đúng vậy, giữa bao la của vũ trụ, vô tận của thời gian, tuổi trẻ, cuộc sống của con người đột nhiên trở nên quá ngắn ngủi. Nhưng ở đây, Xuân Diệu không tiếc cho bản thân, tiếc cho tuổi trẻ mà điều ông tiếc nhất chính là “cả đất trời”.
Suy ngẫm về điều đó, Xuân Diệu ngày càng cảm nhận sâu sắc sự phôi pha, phai tàn diễn ra âm thầm trong vũ trụ trên cả hai trục không gian và thời gian.
Mùi tháng năm đều rơm vị chia phôi
Khắp núi sông vẫn than thầm tiễn biệt
Con gió xinh thì thào trong lá biếc
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi
Phải chăng sợ độ phai tàm sắp sửa.
Thời gian ban đầu vốn vô hình, vô ảnh, không mùi, không vị, nhưng đi vào thơ Xuân Diệu bỗng có mùi, có vị chia phôi, dường như khắp nơi đâu đâu cũng phản ánh sự chia li, lời thầm tiễn biệt. Giống như ta nghe thấy có chút gì xao xuyến rưng rưng vừa uất ức nghẹn ngào vừa tiếc nuối hụt hẫng trong từ “rơm” ấy.
Gió đùa trong lá không phải là những âm thanh vui tươi, sống động của thiên nhiên mà vì hờn tủi trước sự trôi chảy của thời gian. Chim hót những bản nhạc chào xuân rộn ràng bỗng ngừng bặt, chẳng có mối nguy hiểm hiểm nào cả, mà vì chúng sợ độ tàn phai, héo úa. Vậy là vạn vật cứ thế chảy trôi theo quy luật vận hành tự nhiên của nó mà không sao cưỡng lại được.
Kết thúc phần thơ là những dòng thơ tràn ngập cảm xúc:
Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa…
Đến đây thi sĩ đã vỡ lẻ chẳng bao giờ có thể tắt nắng buộc gió, níu giữ mãi tuổi trẻ mùa xuân ở lại. Phép điệp “chẳng bao giờ” được lặp lại hai lần càng nhấn mạng thêm tâm trạng bàng hoàng tiếc nuối ấy. Khát vọng cháy bỏng, ước muốn táo bạo đã tan thành mấy khói. Chỉ còn lại nỗi bàng hoàng, thảng thốt mà càng trở nên da diết hơn với dấu chấm lửng cuối dòng thơ. Và trong sự bất lực, Xuân Diệu dường như tìm ra một cách giải quyết.
“Mau đi thôi, mùa chưa ngả chiều hôm”
Lời thơ như một lời giục giã, thúc giục con người hãy đứng lên đừng buồn vì sự chia ly sẽ đến mà lãng quên đi thực tại. “Mau đi thôi”, mau cố gắng trân trọng lấy từng phút giây hiện tại để tận hưởng bữa tiệc tươi vui mà thiên nhiên mùa xuân đã bày sẵn trước mắt ta.
Chỉ trong 16 câu thơ, Xuân Diệu đã hiện lên một quan niệm nhân sinh tiến bộ về thời gian, mùa xuân và tuổi trẻ của mình. Dù thể hiện sự nuối tiếc về thời gian và cuộc đời, nhưng chúng ta cũng nhận thấy một khao khát mạnh mẽ, một tình yêu sâu đậm mà ông dành cho cuộc sống.
...........
Tải tài liệu để xem thêm phần phân tích đoạn 2 Vội vàng