Phân tích Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh cung cấp 20 mẫu văn cực kỳ xuất sắc, giúp học sinh tự học và phát triển kỹ năng viết nghị luận văn học một cách tiên tiến hơn.
Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh đã mở ra một thời kỳ mới cho dân tộc Việt Nam. Bản Tuyên ngôn này cũng giúp chúng ta hiểu rõ tại sao nó được coi là một tác phẩm văn chính luận kiểu mẫu của dân tộc. Bên cạnh việc phân tích Tuyên ngôn độc lập, bạn cũng có thể tìm thêm nhiều bài văn khác trong chuyên mục Văn 12.
Dàn ý phân tích Tuyên ngôn độc lập
I. Giới thiệu
- Tổng quan về Hồ Chí Minh: hành trình cuộc đời, công lao cách mạng và đóng góp văn học.
- Đề cập đến ngữ cảnh sáng tác, ý nghĩa lịch sử và giá trị văn học của Tuyên ngôn độc lập.
II. Phần chính
- Trình bày tổng quan về cấu trúc của Tuyên ngôn độc lập: bao gồm 3 phần được tổ chức một cách hợp lý và logic.
* Cơ sở pháp lý của Tuyên ngôn độc lập
- Trích dẫn hai tuyên ngôn từ Mỹ và Pháp để làm căn cứ pháp lý cho Tuyên ngôn độc lập của Việt Nam:
- Tuyên ngôn độc lập của Mỹ năm 1776: “Mọi người sinh ra đều được tự do ... mưu cầu hạnh phúc”
- Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp năm 1791: “Con người được sinh ra tự do ... bình đẳng về quyền lợi.”
- Ý nghĩa:
- Hồ Chí Minh sử dụng hai tuyên ngôn này như một căn cứ pháp lý không thể phủ nhận, được thế giới công nhận.
- Áp dụng chiến thuật “lấy gậy đánh lưng gậy”: sử dụng tuyên ngôn của Pháp để đáp trả, ngăn chặn âm mưu tái xâm lược.
- Đặt cuộc cách mạng của chúng ta ngang hàng với hai cường quốc Mỹ và Pháp, thể hiện lòng tự hào dân tộc.
- Xây dựng lập luận logic, sáng tạo: từ quyền con người (tự do, bình đẳng, quyền mưu cầu hạnh phúc), “mở rộng” thành quyền tự do bình đẳng của tất cả dân tộc trên thế giới.
* Cơ sở thực tiễn của Tuyên ngôn độc lập
- Tội ác của thực dân Pháp
- Phơi bày sự tàn bạo của chiến dịch “khai hoá” của thực dân Pháp: chúng thực sự thực hiện nhiều biện pháp tàn ác trong chính trị, văn hóa - xã hội - giáo dục và kinh tế.
- Vạch mặt sự ác ôn của chiến dịch “bảo vệ” của thực dân Pháp: họ hai lần bán nước cho Nhật (vào năm 1940, 1945), khiến “hơn hai triệu đồng bào của ta chết đói”, ...
- Phê phán chiêu trò, lên án tội ác của chúng: họ là kẻ phản bội Đồng minh, không chỉ không hợp tác với Việt Minh mà còn tấn công tàn bạo Việt Minh, ...
- Nghệ thuật: Sử dụng cấu trúc “chúng + hành động” để nhấn mạnh tội ác của Pháp.
- Cuộc đấu tranh chính nghĩa của dân tộc ta
- Dân tộc ta đã chiến đấu chống lại ách thống trị trong hơn 80 năm, đứng về phía Đồng minh chống phát xít, kêu gọi Pháp đối mặt với Nhật, giành lại quyền tự do từ tay Nhật
- Kết quả: Đồng thời phá hủy 3 khối xiềng xích đang gò bó dân tộc ta (Pháp bỏ chạy, Nhật đầu hàng, vua Bảo Đại thoái vị), lập nên quốc gia Việt Nam dân chủ cộng hòa.
- Lời tuyên bố độc lập và quyết tâm bảo vệ chủ quyền dân tộc
- Sử dụng từ ngữ phủ định để tuyên bố cách ly hoàn toàn với thực dân Pháp, hủy bỏ mọi hiệp ước đã ký kết, mọi đặc quyền của Pháp tại Việt Nam.
- Dựa vào nguyên tắc bình đẳng dân tộc được quy định tại Hội nghị Tê-hê-răng và Cựu Kim Sơn để kêu gọi cộng đồng quốc tế công nhận quyền tự do độc lập của dân tộc Việt Nam.
- Tuyên bố với thế giới về sự độc lập của dân tộc Việt Nam: “Việt Nam có quyền tự do ... ”. Thể hiện quyết tâm giữ vững chủ quyền, độc lập, tự do của dân tộc.
- Văn phong cứng cáp, rõ ràng như một lời thề cũng như một lời động viên tinh thần yêu nước nhân dân toàn quốc.
III. Tổng kết
- Tóm lược về giá trị nghệ thuật: là một tác phẩm văn chính luận mẫu mực với lập luận chặt chẽ, logic thuyết phục, bằng chứng chân thực, ngôn ngữ cảm xúc, gần gũi, giàu tính biểu cảm.
- Đánh giá toàn diện về giá trị nội dung (giá trị văn học, giá trị lịch sử) của bản tuyên ngôn độc lập: nâng cao tinh thần yêu nước, sự kiêu hãnh dân tộc, quyết tâm chống lại quân xâm lược; đánh dấu một trang sử vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam.
Sơ đồ tư duy Tuyên ngôn độc lập
Phân tích Tuyên ngôn độc lập - Mẫu 1
Hồ Chí Minh không chỉ là một lãnh tụ vĩ đại, mà còn là một anh hùng giải phóng dân tộc, đất nước Việt Nam khỏi xiềng xích của nô lệ. Bên cạnh đó, Ông còn là một tác giả nghệ thuật tài ba của dân tộc ta. Thơ văn của Bác mang sắc thái cổ điển và hiện đại, luôn mang lại những giá trị tư tưởng cao. Trong số các tác phẩm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, bản “Tuyên ngôn độc lập” nổi bật với phong cách văn chính luận sâu sắc, thuyết phục độc giả. Tác phẩm này là kết quả của sự hi sinh và nỗ lực của nhiều thế hệ người Việt.
Ngay từ lời mở đầu của bản Tuyên ngôn Độc lập, Hồ Chí Minh đã đi thẳng vào vấn đề và đưa ra cơ sở pháp lý vững chắc cho tuyên bố. Ông trích dẫn hai bản tuyên ngôn bất hủ của Pháp và Mỹ, làm nền tảng cho bản tuyên ngôn của mình. Việc này góp phần tôn trọng chân lí chung và giá trị tiến bộ được nhân loại thừa nhận. Đồng thời, ông cũng sử dụng nghệ thuật “gậy ông đập lưng ông” để đối mặt và phản bác thực dân.
Hồ Chí Minh đã suy rộng từ quyền con người sang quyền dân tộc, mở đầu cho trào lưu giải phóng dân tộc trên khắp thế giới. Ông cũng đặt bản Tuyên ngôn độc lập của Việt Nam ngang hàng với hai bản tuyên ngôn đó.
Không chỉ nêu lên cơ sở pháp lý, Hồ Chí Minh còn vạch rõ những tội ác của thực dân Pháp. Ông đi sâu vào phân tích và kết tội thực dân bằng những ví dụ cụ thể, đồng thời tiếp tục phản bác và đối mặt với chúng.
Không chỉ thế, trong lĩnh vực kinh tế, thực dân Pháp thực hiện các chính sách tàn bạo, làm cho dân ta nghèo đói, đất nước suy thoái. Hồ Chí Minh đã liệt kê chi tiết các chính sách cướp đất, thuế áp đặt và bóc lột lao động, khiến hàng triệu người chết đói.
Bên cạnh đó, ông đã chỉ ra bản chất thực sự của cuộc “khai hóa” và “bảo hộ” của thực dân Pháp, cùng với việc bán nước ta cho Nhật. Điều này làm sáng tỏ hành động bất nhân của chúng.
Cuối cùng, ông nêu rõ sự thật về cuộc cách mạng của Việt Nam, với những chính sách nhân đạo đối với người Pháp. Điều này minh chứng cho tính chính nghĩa của cuộc cách mạng.
Từ các cơ sở pháp lý và thực tiễn đã nêu, phần cuối của bản Tuyên ngôn là lời tuyên bố độc lập. Ông tuyên bố thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, xóa bỏ mọi quan hệ với Pháp, tuyên bố Việt Nam là một nước tự do, độc lập.
Không chỉ thế, Hồ Chí Minh kết thúc phần hai của bản Tuyên ngôn bằng lời khẳng định rằng dân ta đã giành lại nước Việt Nam từ tay Nhật, không phải từ tay Pháp, chứng tỏ quyết tâm độc lập của Việt Nam.
Cuối cùng, thay mặt cho toàn dân tộc, sau khi giành được quyền tự do độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thề, tuyên bố bảo vệ sự tự do độc lập đó với lòng yêu nước, thương dân và sự quyết tâm chiến đấu. Lời tuyên ngôn ngắn gọn nhưng thể hiện rõ quyết tâm giữ vững độc lập tự do của ông và toàn dân Việt Nam.
Bản 'Tuyên ngôn độc lập' của Hồ Chí Minh với lập luận chặt chẽ, lí lẽ đanh thép và dẫn chứng thuyết phục, đã đánh dấu một kỉ nguyên mới cho dân tộc Việt Nam. Tác phẩm này là mẫu mực của văn chính luận với giọng văn hùng hồn, đã làm nổi bật tầm quan trọng của nó trong lịch sử dân tộc.
Phân tích bản Tuyên ngôn độc lập - Mẫu 2
Hồ Chí Minh, lãnh tụ vĩ đại của dân tộc, đã dùng văn chương như một thứ vũ khí trong cuộc chiến, nổi bật trong đó là bản 'Tuyên ngôn độc lập'. Tác phẩm này không chỉ thể hiện khát vọng độc lập của dân tộc mà còn vạch trần tội ác của kẻ thù.
Từ đầu tác phẩm, Hồ Chí Minh đã thông qua trích dẫn các tuyên ngôn nổi tiếng của Mỹ và Pháp để làm rõ chân lí lịch sử về quyền bình đẳng của con người. Ông không chỉ nêu rõ lí lẽ mà còn mở rộng ra áp dụng cho các dân tộc trên thế giới, khẳng định quyền tự do, độc lập của họ.
Viết đến đây, có vẻ như tâm hồn của Bác đang bùng cháy, và với những dòng tiếp theo, Người bày tỏ sự phẫn nộ trước tội ác của thực dân Pháp và phát xít Nhật. Họ đã tàn bạo đến mức khiến dân ta gặp khốn khổ, cả nhà tan nát. Pháp tự cao tự đại về việc bảo hộ, nhưng thực tế lại hoàn toàn trái ngược. Họ bóp méo thực dân, bóc lột con dân, và đã để hàng triệu người chết đói. Họ tự mãn về việc khai hóa và bảo hộ, nhưng thực tế họ đàn áp dân ta và giao nước ta cho phát xít Nhật. Tất cả những điều này đều là tội ác không thể tha thứ.
Dù Pháp gây ra nhiều đau khổ cho dân tộc Việt Nam, nhưng thái độ của chúng ta đối với người Pháp vẫn là khoan dung. Sau sự kiện ngày 9-3, Việt Minh đã nhân đạo cứu giúp nhiều người Pháp thoát khỏi tay Nhật và bảo vệ tài sản cho họ. Dân tộc Việt Nam luôn có trái tim nhân từ và không ghét bỏ người Pháp, vì họ cũng là nạn nhân của tình hình bi đát, chỉ có những kẻ cầm quyền mới đáng trách.
Sau khi vạch trần tội ác của thực dân, Bác tiến hành tuyên bố độc lập cho Việt Nam. Ông khẳng định quyền độc lập của dân tộc Việt Nam và kêu gọi toàn dân đoàn kết chống lại kẻ thù. Dân tộc ta đã chứng minh sự đồng lòng và quyết tâm thoát ly khỏi ách thống trị bằng cách đồng lòng đấu tranh.
Xuyên suốt tác phẩm, Bác đã cho chúng ta thấy tài nghệ văn chương của mình, bằng cách lập luận đanh thép và dẫn chứng cụ thể. Lời văn của Bác tố cáo tội ác của kẻ thù và thu hút sự đồng cảm của người đọc, đồng thời góp phần lớn vào sự giải phóng dân tộc.
Kết thúc Tuyên ngôn độc lập, chúng ta thấy một Chủ tịch Hồ Chí Minh cả đời hy sinh vì dân tộc. Dù Người đã ra đi, nhưng huyền thoại về vị lãnh tụ vĩ đại này sẽ sống mãi trong lòng dân tộc, truyền lại từ đời này sang đời khác để chúng ta tôn vinh và lấy làm gương mẫu.
Phân tích Tuyên ngôn độc lập - Mẫu 3
Hồ Chí Minh - người cha già được lòng dân tộc ta tôn kính và biết ơn, là một trong những nhà văn uyên bác về thể loại chính luận. Trong những tác phẩm văn chương vĩ đại mà Người để lại, 'Tuyên ngôn độc lập' hiện lên như một bức tranh văn chính luận mẫu mực nhất, là sự kết hợp của giá trị lịch sử và thời đại, và nó sẽ tồn tại mãi mãi.
Toàn văn 'Tuyên ngôn độc lập' không quá dài nhưng rất súc tích, gọn gàng, và chứa đựng nhiều ý nghĩa sâu sắc. Bản tuyên ngôn độc lập được xuất bản vào ngày 26 tháng 8 năm 1945, khi Chủ tịch Hồ Chí Minh từ Việt Bắc trở về Hà Nội. Tại căn nhà số 48 phố Hàng Ngang, Người soạn thảo bản tuyên ngôn và sau đó, Người đọc bản tuyên ngôn này thay mặt cho Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Hồ Chí Minh sử dụng lập luận chặt chẽ, logic, và bằng chứng rõ ràng để viết nên một tác phẩm văn chính luận mẫu mực. Bên cạnh đó, đó cũng là lời tỏ lòng yêu nước cháy bỏng, niềm tự hào dân tộc mãnh liệt, ý chí quyết tâm bảo vệ sự tự do và độc lập của nhân dân Việt Nam trong Người.
Mở đầu bản tuyên ngôn, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khéo léo đặt nền tảng về nhân quyền và dân quyền. Đầu tiên, Người khẳng định: “Mọi người đều được sinh ra bình đẳng. Tạo hoá đã ban cho họ những quyền không thể bị xâm phạm; trong những quyền đó, có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Đây là những quyền lợi mà mỗi người được sinh ra đã được ban tặng, là những quyền thiêng liêng không thể xâm phạm. Hồ Chí Minh khéo léo trích dẫn để thuyết phục hai tuyên ngôn của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ: “Mọi người sinh ra tự do và bình đẳng. Tạo hoá đã ban cho họ những quyền không thể bị xâm phạm; trong những quyền đó, có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” (Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ); “Mọi người sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và họ luôn phải được tự do và bình đẳng về quyền lợi” (Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của nước Pháp). Việc Người chọn Pháp và Mỹ chứng tỏ rằng hai quốc gia này mang tư tưởng tiến bộ. Nếu thế giới công nhận những quyền cơ bản của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, thì cũng phải công nhận những quyền đó với đất nước Việt Nam. Bản tuyên ngôn của chúng ta đứng ngang hàng với bản tuyên ngôn của hai quốc gia lớn này, tạo ra sự thuyết phục mạnh mẽ trong cộng đồng quốc tế. Hồ Chí Minh đã đánh giá cao những giá trị này bằng cách: “Câu này ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, mỗi dân tộc đều có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Và Người khẳng định chắc chắn: “Đó là lý lẽ không thể phủ nhận”. Điều này chứng tỏ nền độc lập của dân tộc Việt Nam là có căn cứ chính đáng và sâu sắc. Thực dân Pháp và đế quốc Mỹ không thể phản đối những giá trị mà họ tự nhận lấy.
Để làm nổi bật hơn cho lập luận sắc bén và thuyết phục hơn, Hồ Chí Minh đã phơi bày tội ác của thực dân Pháp với những tội ác không thể tha thứ trên 3 mặt: chính trị, kinh tế, xã hội
Trước hết, về mặt chính trị, “họ tuyệt đối không để cho dân ta một chút tự do dân chủ nào”. Họ thực hiện pháp luật dã man, họ thiết lập ba chế độ khác nhau, họ xây nhiều nhà tù hơn trường học, họ giết người yêu nước, họ kiềm chế dư luận, thực hiện chính sách ngu dân, họ còn sử dụng thuốc phiện, rượu cồn làm cho dân tộc ta suy nhược. Một loạt tội ác của Pháp được liệt kê một cách chân thực dưới bút sắc bén của Hồ Chí Minh với những lập luận xác đáng, thuyết phục. Hành động của họ vô cùng tàn ác, không nhân đạo, đáng bị lên án.
Tiếp theo, về mặt kinh tế, họ cướp bóc sức lao động của người dân, họ chiếm đoạt ruộng đất, đặt ra hàng trăm loại thuế phi lý nhằm làm suy giảm cả thể chất và tinh thần của dân Việt. Hồ Chí Minh đã phơi bày bản chất dã man, tàn bạo của thực dân Pháp ra ánh sáng, bộ mặt giả dối của họ khi đeo đuổi vỏ bọc 'khai hóa, bảo hộ' đến nhân dân thế giới, gợi lên lòng căm thù giặc, tinh thần chiến đấu xả thân cứu nước của nhân dân ta.
Tone văn ở phần này biến đổi một cách linh hoạt mà Hồ Chí Minh đã sử dụng một cách thông minh. Nếu ở phần đầu khi liệt kê tội ác, hành động xấu xa của thực dân Pháp, Người sử dụng một tone đanh thép, mỉa mai, căm phẫn quân địch thì khi đến miêu tả hậu quả mà dân ta phải chịu, phải gánh chịu thì tone văn lại chuyển sang nhẹ nhàng, đau thương, đầy tình cảm. Đọc đoạn này, ta nhớ đến Nguyễn Trãi, ông cũng từng viết:
“Tàn ác thay trúc Lam Sơn không ghi hết tội
Ép buộc thay nước Đông Hải không rửa hết mùi”
Hồ Chí Minh không chỉ phê phán mà còn trực tiếp kết tội những hành động tàn bạo của thực dân Pháp. Dường như, Người như một vị quan tòa công bằng đang vạch trần tội ác của kẻ cầm đầu để thế giới chứng kiến, phê phán.
Người đã lột tả bộ mặt giả dối của thực dân Pháp. Sử dụng từ “sự thật là..” lặp lại để thể hiện sự chiến thắng của quân ta. Chúng ta giải phóng nước mình từ tay Nhật chứ không phải từ tay Pháp. Cuối cùng, Người rút ra kết luận ngắn gọn và súc tích: “Pháp bỏ chạy, Nhật đầu hàng, vua Bảo Đại thoái vị”, như một lời reo vui. Sự tự do mà chúng ta giành lại đáng được trân trọng. Bản tuyên ngôn tập trung vào 2 điểm chính: từ chối mọi quan hệ với Pháp và khẳng định quyền tự do và ý thức bảo vệ quyền độc lập đã giành được: “ tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ với Pháp, hủy bỏ tất cả các hiệp ước mà Pháp đã ký về Việt Nam, hủy bỏ mọi đặc quyền của Pháp trên lãnh thổ Việt Nam”.
Từ những lập luận trên, Người như muốn thông báo với thế giới rằng: “Việt Nam có quyền tự do và độc lập, và thực tế đã trở thành một quốc gia tự do độc lập. Toàn dân Việt Nam sẵn lòng dùng tất cả tinh thần, lực lượng, tính mạng và của cải để bảo vệ quyền tự do, độc lập này.” Để đạt được nền độc lập đó, có bao nhiêu người đã hy sinh, họ nằm dưới mảnh đất lạ, họ từ bỏ tuổi trẻ, cuộc sống bình dị bên người thân để theo đuổi tiếng gọi của tổ quốc, để chiến đấu, bảo vệ những gì chúng ta đã đạt được. Người đã khẳng định: “Thực tế đã trở thành một quốc gia tự do, độc lập” thật tuyệt vời. Trong phần tuyên này, Hồ Chí Minh cũng rất thuyết phục khi kết hợp lập luận, sắc bén, ngòi bút chính luận thâm thúy với từ ngữ hùng hồn, đầy cảm xúc của văn chương chính luận.
Có thể thấy rằng, Tuyên ngôn độc lập là một tác phẩm văn chính luận mẫu mực tạo nên Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Bằng lập luận sắc bén, văn phong linh hoạt, Hồ Chí Minh đã vạch ra những tội ác tày trời của thực dân Pháp và thể hiện lòng biết ơn, tình yêu quê hương sâu sắc của dân tộc Việt Nam đã hợp thành một làn sóng mạnh mẽ. Tuyên ngôn độc lập mở ra một trang sử mới cho lịch sử dân tộc, là bước đầu cho kỷ nguyên độc lập tự do, là cơ sở để Việt Nam hòa mình vào thế giới.
Phân tích bản Tuyên ngôn độc lập - Mẫu 4
Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là một nhà lãnh đạo vĩ đại mà còn là một nhà văn tài hoa của dân tộc. Thơ văn của Bác vừa mang sắc cổ điển vừa mang sắc hiện đại, đầy sáng tạo và mang những giá trị tư tưởng cao. Nếu trong thơ trữ tình, ta thấy những lời thơ tràn ngập niềm tin và tinh thần tự do, phóng khoáng, thì trong văn học chính luận là những đoạn văn sắc sảo, chặt chẽ, có sức ảnh hưởng mạnh mẽ đến tâm hồn người đọc, người nghe. Tuyên ngôn độc lập là một tác phẩm chính luận đầy mẫu mực của Bác, nó chứa đựng những tình cảm chân thành, những tư tưởng phản ánh thời đại và những giá trị tinh túy của dân tộc Việt Nam.
Cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của độc lập, tự do nhưng vẫn phải đối mặt với những thách thức khó khăn khi bọn đế quốc và thực dân lợi dụng danh nghĩa quân Đồng minh âm mưu cướp nước ta một lần nữa. Chính vào thời điểm đó, ngày 2 tháng 9 năm 1945 trên Quảng Trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa. Đây là bản tuyên ngôn viết cho nhân dân Việt Nam, nhân dân thế giới và cộng đồng quốc tế.
“Hỡi đồng bào cả nước, Tất cả mọi người đều sinh ra bình đẳng. Tạo hóa ban cho họ những quyền không ai có thể vi phạm được; trong những quyền đó, có quyền sống, quyền tự do và quyền tìm kiếm hạnh phúc”.
“... Mọi người sinh ra đều tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải luôn luôn bình đẳng về quyền lợi”.
Hai bản tuyên ngôn độc lập của Mỹ năm 1776 và bản tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp năm 1789 đã được Bác trích dẫn một cách hợp lý. Đây là hai văn kiện quan trọng của thế giới, khi mà lịch sử đã chứng minh quyền con người là vô cùng quan trọng. Đó là những chân lý mang giá trị vô cùng to lớn. Bác đã dùng nghệ thuật tâm lý 'gậy ông đập lưng ông'. Âm mưu của Mĩ và Pháp bị ngăn chặn bởi chính những tuyên ngôn, lời răn dạy của tổ tiên chúng. Nếu họ xâm phạm quyền tự do của dân tộc ta thì đó là đi ngược lại với đạo lí của họ. “Đó là một lời lẽ không ai có thể chối cãi được”, Bác đã khẳng định và chắc chắn , kiên quyết về lập trường chính nghĩa của dân tộc ta. Khi trích dẫn hai bản tuyên ngôn này, tác giả đã tỏ ra rất trân trọng những tuyên ngôn bất hủ đồng thời sử dụng lập luận của chúng để ngăn chặn âm mưu xâm lược của Đế quốc. Việc đặt ba bản tuyên ngôn này cùng một cấp độ và giá trị như ba cuộc cách mạng là một sự tự hào lớn lao cho dân tộc ta, thể hiện sự sáng suốt và lòng tự tin của tác giả, đồng thời khích lệ các nước thuộc địa chiến đấu chống lại thực dân trên toàn thế giới.
Dựa trên cơ sở pháp lý của bản tuyên ngôn, Bác đã trình bày những sự thật lịch sử, những bằng chứng sống qua hàng chục năm đấu tranh của nhân dân Việt Nam. Đây là những lập luận thuyết phục vì chúng được chứng minh bằng thực tế, được nhân dân chứng kiến và tham gia, làm xao động hàng triệu trái tim trên khắp thế giới. Lời phê phán đầy cay đắng và đau lòng:
“Trên hết, trong hơn 80 năm qua, thực dân Pháp đã lợi dụng lá cờ của tự do, bình đẳng, và nhân ái, để xâm chiếm đất nước ta, áp bức nhân dân ta. Hành động của họ là hoàn toàn không nhân đạo và không công bằng”.
Cuộc sống của nhân dân đầy khổ cực, đất nước gặp nhiều vấn đề, với bao nhiêu gia đình mất mát: chồng mất vợ, mẹ mất con, con mất cha... Tất cả đều là do sự xâm lược của thực dân đế quốc.
“Về mặt chính trị, chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào.
Chúng thi hành các luật pháp dã man. Chúng tạo ra ba chế độ khác nhau ở Trung, Nam, Bắc để ngăn cản sự thống nhất của dân tộc ta, để chia rẽ dân tộc ta.”
Chúng xây dựng nhiều nhà tù hơn cả trường học. Chúng tàn ác giết chết những người yêu nước, những con tim ruột của dân tộc chúng ta. Chúng ngâm trong máu của những cuộc khởi nghĩa của chúng ta.
Chúng kiềm chế dư luận, thực hiện các chính sách dốt nát.
Chúng sử dụng ma túy, rượu cồn để làm cho dòng dõi của chúng ta suy đồi.
Về mặt kinh tế, chúng bóc lột dân ta đến tận xương tủy, khiến cho dân ta nghèo đói, đất nước ta nơi nghèo khó, tàn phá. Chúng chiếm đoạt ruộng đất, mỏ quặng, và tài nguyên.
Chúng kiểm soát độc quyền việc in tiền, xuất nhập khẩu hàng hóa.
Chúng áp đặt hàng trăm loại thuế vô lí, khiến cho dân ta, đặc biệt là dân cày và dân buôn, chìm trong đau khổ.
Chúng không cho các nhà tư sản của chúng ta phát triển. Chúng tàn ác khai thác công nhân của chúng ta một cách vô cùng tàn bạo.”
Bác đã phơi bày bản chất nịnh bợ, lòe loẹt ra sự tàn ác, đô hộ thực sự của thực dân mà thực ra lại là sự thôi thúc, sự chà đạp vào dân tộc của chúng ta. Mỗi từ ngữ truyền đạt sâu vào lòng người đọc, mỗi câu chữ đậm đặc máu và nước mắt của nhân dân. Cảm xúc căm phẫn, xót xa, đau thương đều được thể hiện rõ trong những luận điệu, những phán quyết được trình bày.
Với lời nói súc tích, những câu từ tràn ngập cảm xúc, chứa đựng trong đó nỗi oán hận vô số lần, đau đớn và hình ảnh sâu sắc, Bác đã khắc sâu vào tâm trí thế giới một giai đoạn lịch sử đau buồn của dân tộc Việt Nam. Chỉ trích tội ác “trời không dung, đất không tha” của Pháp, hành vi của họ là mưu mẹo, là lừa đảo, là tàn bạo”. Dân tộc ta đã đứng lên chiến đấu kiên cường và dũng cảm đối diện với một Pháp kìm hãm, đê tiện.
“Thực tế là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã trở thành thuộc địa của Nhật, không còn là thuộc địa của Pháp nữa. Khi quân Nhật rút lui, nhân dân cả nước đã nổi dậy, chiếm lấy quyền lực, lập ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Dân ta giành lại nước Việt Nam từ tay Nhật, không phải từ tay Pháp”.
Cách mạng tháng Tám thành công đã đồng thời thực hiện hai mục tiêu quan trọng là độc lập cho dân tộc và dân chủ cho nhân dân. Từ sự đấu tranh của nhân dân, Bác khẳng định những thành tựu đã đạt được. Đó là tuyên bố thoát ly khỏi Pháp, hủy bỏ các hiệp ước với Pháp. Đồng thời, Bác rõ ràng khẳng định quyền tự do và quyền dân tộc của Việt Nam.
“Một dân tộc đã kiên quyết chống lại sự áp bức của Pháp trong hơn 80 năm, một dân tộc đã dũng cảm đứng về phía Đồng Minh chống phát xít suốt mấy năm qua, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!
Nước Việt Nam có quyền tự do và độc lập, và sự thật là nước Việt Nam đã trở thành một quốc gia tự do và độc lập”.
Với trí tuệ sâu rộng và tinh thần cách mạng sáng suốt, Bác đã vạch trần bản chất giả dối của kẻ thù. Với lập luận chặt chẽ, Bác đã cung cấp cơ sở pháp lý thuyết phục. Với tình yêu thương sâu sắc đối với nhân dân, lòng yêu nước mãnh liệt, Bác đã thức tỉnh niềm tự hào, ý chí chiến đấu và khẳng định quyền lợi chính đáng của con người trên khắp thế giới. Tuyên ngôn độc lập xứng đáng là một tác phẩm bất hủ của một nhân vật vĩ đại, một tinh thần lớn, một con người lớn. Như Nguyễn Đăng Mạnh đã từng phát biểu:
“Tài nghệ ở đây là xây dựng một lập luận chặt chẽ, đưa ra những điểm, bằng chứng không thể bác bỏ và sau những lý lẽ ấy là một tầm tư tưởng, tầm văn hóa lớn, rút ra từ kinh nghiệm của hàng thế kỷ đấu tranh vì độc lập, tự do, vì nhân quyền của dân tộc và nhân loại”.
Phân tích Bản Tuyên ngôn độc lập - Mẫu 5
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nhà lãnh đạo vĩ đại, tất cả khát vọng và phẩm chất cao đẹp của Người được thể hiện trong sự nghiệp cách mạng, quân sự, ngoại giao, giáo dục, văn hóa,... Trong đó, văn chương là một điểm sáng quan trọng khi nói về tư tưởng đạo đức và phong cách của Hồ Chí Minh. Việc viết văn không chỉ để làm hài lòng sở thích của những nhà văn, nhà triết học, mà trong thời kỳ văn hóa chiến tranh, văn thơ của Người luôn đóng vai trò quan trọng trong việc phục vụ kháng chiến, phục vụ cách mạng đạt được thành công. Có thể nói rằng trong hành trình cách mạng suốt đời mình, văn thơ của Người luôn bên cạnh và hỗ trợ mọi lúc mọi nơi. Tuyên ngôn độc lập là một tác phẩm quan trọng của Hồ Chí Minh, một văn kiện mang ý nghĩa lịch sử vô cùng quan trọng, đánh dấu sự độc lập của dân tộc và phát triển của quốc gia Việt Nam.
Với bối cảnh lịch sử quan trọng, Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, phát xít Nhật đầu hàng, nhận thấy thời cơ giải phóng đã đến, Đảng đã khơi mào cuộc nổi dậy giành chính quyền từ tay Nhật. Với sự thành công của cuộc nổi dậy, ngày 26/8/1945, Hồ Chí Minh trở về Hà Nội, nhanh chóng soạn thảo bản Tuyên ngôn độc lập tại nhà số 48, phố Hàng Ngang. Ngày 2/9/1945, Hồ Chí Minh tuyên đọc bản Tuyên ngôn độc lập trước hàng triệu người Việt Nam tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, chấm dứt hơn 80 năm xiềng xích nô lệ, độc lập từ Pháp và Nhật. Đồng thời, cũng chính thức chấm dứt chế độ phong kiến, quân chủ đã tồn tại hàng nghìn năm trên đất nước, mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc, kỷ nguyên của độc lập, tự do và tự chủ. Tuyên ngôn độc lập cũng là một lời công kích mạnh mẽ đến các thế lực thù địch, đập tan những âm mưu thâm độc của chúng. Khuyến khích, cổ vũ các dân tộc bị áp bức trên thế giới, giành lại quyền lợi và tự chủ cho đất nước của mình.
Tuyên ngôn độc lập, không chỉ là một văn kiện lịch sử to lớn, mà còn là một tác phẩm văn chính luận xuất sắc, với hệ thống luận điểm chặt chẽ, ngắn gọn và thuyết phục, thể hiện tài năng văn chương của Hồ Chí Minh.
Trong tác phẩm này, Bác đặt ra luận điểm ban đầu bằng cách sử dụng cơ sở pháp lý dựa trên văn kiện lịch sử của các nước lớn, làm nền tảng cho bản tuyên ngôn của mình. Người trích dẫn một đoạn ấn tượng từ bản Tuyên ngôn độc lập của Mỹ (1776), đưa ra lập luận rằng tất cả mọi người sinh ra đều bình đẳng, có quyền sống, tự do và mưu cầu hạnh phúc. Bác mở rộng ý kiến và nhấn mạnh rằng tất cả các dân tộc trên thế giới đều xứng đáng được đối xử công bằng, hưởng quyền con người như nhau. Bác cũng trích dẫn một đoạn từ Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp (1791) để minh chứng rằng quan điểm này không chỉ của Mỹ mà còn của Pháp. Việc sử dụng những tuyên ngôn từ hai đế quốc mạnh mẽ như Mỹ và Pháp đã làm đập tan âm mưu và luận điệu xảo trá của thực dân Pháp, đồng thời tăng thêm tính thuyết phục và độ tin cậy cho bản tuyên ngôn. Bác kết luận mạnh mẽ rằng những luận điệu này là những lẽ phải không thể bác bỏ, thể hiện sự quyết tâm của Người trong việc đem lại tự do, bình đẳng và công bằng cho dân tộc Việt Nam.
Sau khi nêu ra và khẳng định tính chân lý của cơ sở pháp lý, Bác tiếp tục đưa ra những luận cứ về cơ sở thực tiễn để phá tan âm mưu cùng những luận điệu xảo trá mà thực dân Pháp đưa ra nhằm biến nước ta thành thuộc địa như sự “khai sáng văn minh” hay “nền bảo hộ”,... Đầu tiên Hồ Chủ tịch nêu ra chứng cứ vô cùng xác đáng và rõ ràng rằng: “Thế mà hơn 80 năm nay, bọn thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta. Hành động của chúng trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa”. Sau đó Người triển khai những luận điểm mạnh mẽ để bác bỏ, phá vỡ những luận điệu xảo trá được cho là “khai hóa” dân tộc ta của thực dân Pháp lần lượt trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế và văn hóa. Thứ nhất về chính trị và văn hóa, chúng đã “khai hóa” chúng ta bằng cách “tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào”, lại liên tục lập ra nhà tù nhiều hơn trường học, giết hại, tàn sát đồng bào ta không thương tiếc, đem thứ thuốc phiện ghê gớm, cùng thứ rượu chè bê tha để tiêu diệt và làm suy thoái giống nòi của ta một cách từ từ. Quả thật không biết thực dân Pháp đã “khai hóa” gì với những trò bẩn thỉu, ghê tẩm ấy. Về kinh tế, chúng lại “khai hóa” bằng cách “bóc lột dân ta đến xương tủy, khiến cho dân ta nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều”, rồi đặt ra đủ các loại sưu thuế vô lý, chèn ép nhân dân ta đến cùng đường mạt vận. Như vậy, với những dẫn chứng rõ ràng và sắc bén ấy, Bác đã giáng một đòn chí mạng vào thực dân Pháp, đặc biệt là những kẻ nắm quyền luôn ấp ủ cái luận điệu “khai hóa” cốt để lừa bịp nhân dân ta và nhân thế giới, để thuận bề xâm chiếm và đồng hóa dân tộc ta. Tuy nhiên, chúng đã quá coi thường dân tộc Việt Nam, quá trắng trợn khi thực thi việc “khai hóa” điên rồ của chúng, dẫn đến bị bóc trần mà không thể chối cãi.
Bên cạnh việc tuyên truyền luận điệu “khai hóa” hài hước, thực dân Pháp vẫn cố gắng giảng giải luận điệu “bảo hộ” một cách trang trọng, tuy nhiên, những mưu mẹo đó không thể che đậy được kế hoạch đen tối của chúng. Hồ Chủ tịch đã nhanh chóng bác bỏ chúng bằng cách đưa ra bằng chứng vô cùng thuyết phục và rõ ràng, chỉ ra rằng, dù tự nhận là bảo hộ, nhưng thực tế Pháp đã hai lần đầu hàng nước ta cho phát xít Nhật trong vòng 5 năm. Điều này dẫn đến hậu quả là hơn 2 triệu người dân ta phải chịu đói, ngoài ra, họ từ chối liên minh với chúng tôi chống Nhật, thậm chí thực hiện hành vi khủng bố, gây tổn thất nặng nề cho quân dân chúng tôi và tàn sát cả những người tù chính trị. Với những bằng chứng về hành động vô trách nhiệm của thực dân Pháp, nói về luận điệu “bảo hộ” chỉ khiến mọi người cảm thấy buồn cười, liệu họ có thực sự không cảm thấy xấu hổ và nhục nhã không? Bằng việc sử dụng trí tuệ và sự khéo léo, Hồ Chủ tịch đã vạch trần được âm mưu và sự xảo trá của thực dân Pháp với hai luận điệu “khai hóa” và “bảo hộ”, không thể phủ nhận, tạo ra một đòn đau cho kẻ thù.
Sau khi đã làm rõ cơ sở pháp lý và cơ sở thực tiễn bằng những lập luận chặt chẽ, ngắn gọn nhưng sâu sắc và thuyết phục, Hồ Chủ tịch đã sử dụng những lời lẽ hùng hồn, mạnh mẽ, kết cấu lặp lại, liên tục nhấn mạnh vào hai khái niệm “độc lập” và “tự do” để tuyên bố nền độc lập của dân tộc: “Nước Việt Nam có quyền tự do và độc lập, và thật sự đã trở thành một quốc gia tự do độc lập. Toàn bộ dân tộc Việt Nam quyết định dành tất cả tinh thần và sức mạnh, tính mạng và của cải để bảo vệ quyền tự do, độc lập ấy!”. Đó là những lời lẽ từ trái tim của một người yêu nước, yêu dân, yêu chuộng hòa bình sâu sắc, là ước mơ không chỉ của Hồ Chủ tịch mà còn của toàn bộ dân tộc Việt Nam. Muốn tuyên bố với cả thế giới rằng nước Việt Nam là một quốc gia độc lập, có chủ quyền lãnh thổ, và nhân dân Việt Nam sẵn sàng hi sinh để bảo vệ nền độc lập thiêng liêng, cao quý ấy.
Như vậy, Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh không chỉ là một tác phẩm văn chính luận xuất sắc với luận điểm sắc sảo và thuyết phục, mà còn là một văn kiện lịch sử quan trọng, là bản tuyên ngôn khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Xác nhận sự độc lập của dân tộc sau hơn 80 năm nô lệ, mở ra một bước ngoặt lớn trong lịch sử dân tộc, một kỷ nguyên mới của độc lập, tự do và tự chủ.
Phân tích bản Tuyên ngôn độc lập - Mẫu 6
Vị lãnh tụ vĩ đại của nước Việt Nam chính là Bác Hồ. Người là danh nhân văn hóa thế giới khiến ai cũng phải ngưỡng mộ. Ông đã để lại cho văn học nước nhà một kho tàng tác phẩm quý giá. Và bản tuyên ngôn độc lập là một phần của nó.
Tác phẩm này được viết vào ngày 26 tháng 8 năm 1945 tại số 48 Hàng Ngang. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, tại quảng trường Ba Đình, Bác đã đọc bản tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Bản tuyên ngôn này được chia thành ba phần: cơ sở pháp lý - cơ sở thực tiễn - khẳng định.
Bắt đầu bằng việc trích dẫn từ “tuyên ngôn độc lập Mỹ” và “tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền” của Pháp, cả hai tài liệu này đều nói về quyền tự do, quyền sống và quyền bình đẳng của con người. Bác đã tôn trọng, ca ngợi những lời này. Bác khẳng định: “Đó là những sự thật không thể phủ nhận được”. Đây là thành tựu của cuộc cách mạng tháng Tám và những giá trị nhân văn mà con người đang hướng tới. Từ hai tài liệu này, Bác đã sáng tạo. Từ quyền con người, Bác đã đưa ra quyền của cả dân tộc. Tầm nhìn sâu rộng của Bác đã tạo ra một lời khẳng định mạnh mẽ: “Tất cả mọi dân tộc trên thế giới đều được sinh ra bình đẳng, mọi dân tộc đều có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Việc trích dẫn hai tài liệu này có tác dụng lớn. Đây như là một cách “gậy ông đập lưng ông”, làm sập mọi lời xảo trá của kẻ thù, tố cáo tội ác của chúng. Đồng thời, thông qua điều này, Bác đã đưa tuyên ngôn của Việt Nam lên cùng tầm với tuyên ngôn của Pháp và Mỹ, kích thích mạnh mẽ phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc. Cuối cùng, phần mở đầu kết thúc bằng lời khẳng định: “Đó là những sự thật không thể phủ nhận được”.
Cơ sở thực tế của bản tuyên ngôn không gì khác ngoài tội ác của thực dân và lập trường chính nghĩa của chúng tôi. Để tố cáo sự thối nát của thực dân Pháp, Bác đã sử dụng một cách khẳng định và phủ định. Bác đã đảo ngược vấn đề: “mà hơn 80 năm qua”. Bác đã vạch trần luận điệu xảo trá của thực dân Pháp, tấn công chúng. Tội ác của thực dân đã được vạch trần trên nhiều phương diện: chính trị - văn hóa, kinh tế. “Về chính trị, chúng hoàn toàn không cho nhân dân chúng tôi một chút tự do dân chủ nào. Chúng thi hành những luật pháp tàn ác, lập ba chế độ khác nhau ở Trung, Nam, Bắc, chúng xây nhiều nhà tù hơn là trường học, chúng sử dụng bạo lực chém giết những người yêu nước của chúng tôi. Chúng chôn vùi những cuộc nổi dậy của chúng tôi trong đại dương máu; thực hiện chính sách ngu dân; sử dụng rượu và ma túy để làm cho dân tộc chúng tôi suy nhược. Thực dân Pháp nói về việc khai hóa, văn minh, tự do, bình đẳng, nhưng lại làm ngược lại. Tất cả những tội ác trên đã cho thấy sự lừa dối, dối trá của chúng. Về kinh tế, chúng cướp bóc dân tộc chúng tôi đến xương tủy, làm cho dân tộc chúng tôi nghèo nàn thiếu thốn, đất nước chúng tôi khô cằn. Chúng chiếm giữ đất ruộng, mỏ, tài nguyên. Chúng kiểm soát độc quyền tiền bạc, xuất khẩu và nhập khẩu.
Chúng áp đặt hàng trăm loại thuế vô lý, khiến cho dân tộc chúng tôi, đặc biệt là những người nông dân và thương nhân, trở nên nghèo đói. Chúng không cho phép các doanh nhân của chúng tôi phát triển. Chúng lợi dụng đối xử tàn bạo với công nhân của chúng tôi. Để làm rõ sự lũ lượt tội ác của chúng, Bác đã sử dụng phong cách lặp đi lặp lại cấu trúc câu kết hợp với việc liệt kê. Lời văn của Bác thể hiện sự oán hận, khiến cho người đọc, người nghe cảm thấy tức giận. Đặc biệt là hình ảnh “nổi dậy trong đại dương máu”. Hình ảnh này có sức mạnh gợi lên tất cả những cảm xúc mạnh mẽ. Nhưng tội ác của chúng chưa dừng lại ở đó. Trong vòng năm năm chúng bán nước chúng tôi hai lần cho Nhật. Vào mùa thu năm 1940, Nhật xâm lược Đông Dương, Pháp đã “quỳ gối đầu hàng”. Từ đó, nhân dân chúng tôi lại phải chịu hai lần ách xiềng xích của Pháp - Nhật, làm cho hơn hai triệu người dân của chúng tôi từ Quảng Trị đến Bắc Kỳ chết đói. Chúng cũng thực hiện việc đàn áp, khủng bố Việt Minh của chúng tôi. Tội ác của chúng khiến cho dân tộc chúng tôi chịu đau đớn.
Chúng tôi đã lập trường chính nghĩa của chúng tôi. Nhân dân của chúng tôi vẫn giữ một tinh thần nhân đạo và khoan dung. Sự thật là từ mùa thu năm 1940, đất nước của chúng tôi đã trở thành thuộc địa của Nhật. Khi Nhật đầu hàng, toàn dân nước ta đã nổi dậy chiếm quyền lãnh đạo. Pháp bỏ chạy, Nhật bị đánh bại, vua Bảo Đại thoái vị, dân ta đã đánh đổ những xiềng xích thực dân kéo dài gần 100 năm để xây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Bằng cách sử dụng lời nói mạnh mẽ, nhanh nhảu và sự sử dụng từ ngữ khẳng định nhiều, Bác đã thành công trong việc khẳng định sự chính nghĩa của chúng tôi, sự phi nghĩa của Pháp, và sự cần thiết của sự độc lập tự do.
Phần kết của bản tuyên ngôn là lời tuyên bố. Lời tuyên bố này gửi đến Pháp, đến Đồng minh, đến nhân dân Việt Nam và đến thế giới. Đồng thời khẳng định ý chí kiên định của nhân dân Việt Nam trong việc bảo vệ độc lập tự do: “toàn thể dân tộc Việt Nam quyết tâm dùng mọi tinh thần và sức mạnh, tính mạng và của cải để bảo vệ quyền tự do độc lập đó”.
Tương tự như “Bình ngô đại cáo” và “Nam quốc sơn hà”, bản “Tuyên ngôn độc lập” là một tác phẩm văn học vĩ đại của dân tộc ta.
Phân tích về bản Tuyên ngôn độc lập - Mẫu 7
Mùa thu năm 1945, khắp cả nước ta đều rộn ràng trong niềm vui sướng. Thành công của cách mạng tháng Tám đã giải phóng nhân dân Việt Nam khỏi xiềng xích nô lệ và áp bức, đưa họ bước qua ngưỡng cửa tăm tối, tiến vào thế giới sáng sủa của độc lập và tự do. Sáng ngày 2/9, dưới bầu trời trong xanh ấm áp, trước hàng triệu người trên quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập, chính thức ra đời một nước Việt Nam mới, một nước Việt Nam tự do, độc lập và dân chủ. Bản tuyên ngôn được viết ra với tâm trạng vui sướng nhất. Bằng tất cả tâm hồn và trí tuệ, bằng những xúc cảm mãnh liệt, người đã truyền đạt đến hàng triệu trái tim nhân dân những cảm xúc sâu xa và thấm đẫm, đồng thời tuyên bố một cách mạnh mẽ và kiêu hùng với thế giới về sự tồn tại độc lập có chủ quyền của nước ta.
Toàn văn bản tuyên ngôn không dài, nhưng vô cùng súc tích và chặt chẽ. Bản Tuyên ngôn được chia thành ba phần rõ ràng, mỗi phần đề cập đến một ý tưởng, liên kết mạch lạc với nhau theo một cấu trúc chặt chẽ. Phần đầu bản Tuyên ngôn nêu bật những chân lý về nhân quyền và dân quyền. Tác giả trích dẫn lời hai bản Tuyên ngôn nổi tiếng thế giới, bản “Tuyên ngôn độc lập” của Mỹ và bản “Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền” của Pháp, nhấn mạnh ý nghĩa sâu sắc của chúng. Bản tuyên ngôn độc lập của Mỹ ra đời sau khi nước Mỹ; đã chiến thắng trong cuộc đấu tranh giành độc lập.
Bản 'Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền' cũng được ra đời trong bối cảnh chiến thắng của cách mạng Pháp, cuộc cách mạng của những người dân và nông dân chống lại áp bức, bất công. Hai bản tuyên ngôn này đã thể hiện những chân lý và đại diện cho những cuộc cách mạng tiên tiến của các quốc gia có ảnh hưởng lớn trên thế giới, mang tính quốc tế, khiến cho không ai có thể phủ nhận tính chính xác của chúng. Tuyên ngôn này đã sử dụng sáng tạo: 'Tất cả dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do'. Điều đáng chú ý là sự sử dụng khéo léo của trí tuệ: 'Thế mà hơn tám mươi năm nay, bọn thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do… hành động của chúng trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa'.
Phần hai mô tả một cách ngắn gọn và chi tiết các tội ác mà thực dân Pháp đã gây ra trên lãnh thổ Việt Nam suốt gần một thế kỷ đô hộ. Từ việc tước đoạt tự do chính trị, đến việc áp bức và giết hại các tù nhân chính trị, việc thi hành luật pháp dã man, lập ba chế độ khác nhau để ngăn cản sự thống nhất của dân tộc, tất cả đều được trình bày một cách minh bạch. Từ những hành động tàn bạo nhất của thực dân Pháp như giết người và khủng bố Việt Minh, tác giả dẫn dắt chúng ta đến những hành động nhân đạo. Tuyên ngôn này kêu gọi chống lại sự phát xít, đứng về phía mặt trận dân chủ chống phát xít, và khẳng định vai trò của dân tộc trước thế giới.
Sự tự do mà chúng ta giành được là không thể đong đếm được, đòi hỏi những hy sinh, xương máu và tâm huyết không ngừng. Mặc cho thế lực thù đang âm mưu tiêu diệt nước Việt Nam mới vừa ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đứng lên thay mặt nhân dân tuyên bố một cách trang trọng và kiên quyết.
Đây là lần đầu tiên một bản Tuyên ngôn tuyên bố với thế giới về việc ra đời của một nhà nước mới, đánh dấu một kỷ nguyên mới của độc lập tự do cho một dân tộc kiên cường. Nó là một tác phẩm văn học chính trị mẫu mực, vững chắc và cuốn hút với lý lẽ và lập luận chặt chẽ, từ ngữ và hình ảnh sâu sắc, chính xác và mạnh mẽ, với câu văn gọn ngắn nhưng đầy uy nghi, giản dị nhưng hùng biện, vừa là sự cảnh báo và lên án kẻ thù, vừa là sự khích lệ và động viên tinh thần nhân dân, cũng như thu hút sự đồng cảm của thế giới.
Phân tích Tuyên ngôn độc lập - Mẫu 8
Trong số các tác phẩm của Bác, Tuyên ngôn Độc lập nổi bật như một kiệt tác với giọng văn hùng hồn và lập luận sắc bén. Nó là kết quả của sự hy sinh và nỗ lực của hàng triệu người anh hùng Việt Nam.
Tuyên ngôn Độc lập bắt đầu với việc nêu rõ vấn đề và các căn cứ pháp lý không thể chối cãi. Bản tuyên ngôn nêu lên các nguyên tắc quan trọng từ hai bản tuyên ngôn nổi tiếng của Pháp và Mỹ, đồng thời đặt nó ngang hàng với tuyên ngôn của Việt Nam.
Bác sử dụng lời bất hủ từ các tuyên ngôn của Pháp và Mỹ để kết án thực dân Pháp. Bản tuyên ngôn không chỉ phê phán mà còn cung cấp các dẫn chứng cụ thể về tội ác của thực dân Pháp, làm lộ mặt nạ 'bảo hộ' của chúng.
Bác kết tội thực dân Pháp về mặt kinh tế, chỉ ra sự bóc lột và đau khổ của dân ta. Bác lập luận mạnh mẽ để thu hút sự ủng hộ của toàn dân trong cuộc chiến bảo vệ độc lập.
Tội ác lớn nhất của thực dân Pháp là nạn đói năm 1945. Thực dân Pháp đầu hàng trước Nhật, làm gia tăng khổ cực cho dân ta. Kết quả là hàng triệu người dân chết đói từ Quảng Trị đến Bắc Kì.
Tác giả cũng không bỏ qua những tội ác khác của thực dân Pháp như việc bán đất cho Nhật trong năm năm, tội khủng bố Việt Minh và tội giết số lượng lớn tù chính trị tại Yên Bái và Cao Bằng.
Tác giả kết án thực dân Pháp một cách mạnh mẽ để phơi bày sự tàn bạo và dã man của chúng, lột mặt nạ 'khai hoá', 'bảo hộ' trước thế giới, gợi lên lòng căm thù của nhân dân với chúng.
Tác giả ca ngợi sức mạnh dân tộc trong cuộc chiến chống lại thực dân phong kiến và giành lại độc lập. Bằng chín chữ 'Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị', Bác tái hiện một giai đoạn lịch sử oanh liệt của dân tộc ta.
Tiếp theo, Người nêu lên cơ sở chính nghĩa của việc thành lập nước Việt Nam mới. Việt Minh đại diện cho toàn bộ dân tộc Việt Nam, đã chiến đấu chống lại thực dân Pháp và Nhật Bản và giành chính quyền từ tay Nhật.
Dựa trên cơ sở đó, Người tuyên bố thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, tuyên bố ly khai hoàn toàn với thực dân Pháp, xoá bỏ mọi quan hệ với họ trên lãnh thổ Việt Nam.
Cuối cùng, đại diện cho cả một dân tộc mới giành được tự do độc lập, Người tuyên thề 'quyết lòng dùng tất cả tinh thần và sức mạnh, tính mạng và của cải để bảo vệ quyền tự do Độc lập ấy'. Tuyên ngôn Độc lập là tác phẩm vĩ đại của Hồ Chí Minh, thể hiện sự kiên cường và tài năng của dân tộc đang nổi dậy chống đế quốc, thực dân phong kiến, để giành lại Độc lập tự do cho quê hương. Với Tuyên ngôn Độc lập, lần đầu tiên Việt Nam ghi danh trên sân chơi quốc tế như một quốc gia tự do và Độc lập, và nhân dân thế giới cũng nhìn thấy quyết tâm bảo vệ Độc lập của dân tộc Việt Nam.
Tuyên ngôn Độc lập trước hết là một văn kiện lịch sử quan trọng nhất của Việt Nam. Để có được Tuyên ngôn Độc lập, đã có biết bao đồng bào, đồng chí hi sinh trong suốt 80 năm chiến đấu chống lại Pháp. Nó đánh dấu sự kết thúc của thời kỳ mất nước, cuộc sống bần cùng, nô lệ của dân tộc, mở ra một kỷ nguyên mới: kỷ nguyên Độc lập tự do.
Với hệ thống lập luận chặt chẽ, lí lẽ sắc bén, giọng văn hùng hồn và sắc sảo, Tuyên ngôn Độc lập xứng đáng được so sánh với các văn kiện tuyên bố trên thế giới và các tác phẩm văn học lịch sử của các dân tộc khác như Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn, Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi.
Phân tích Tuyên ngôn Độc lập - Mẫu 9
'Tuyên ngôn Độc lập' là một tài liệu lịch sử có giá trị to lớn do Chủ tịch Hồ Chí Minh viết. Đây là tuyên bố chấm dứt chế độ thực dân phong kiến tại Việt Nam và mở ra một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của độc lập tự do.
'Tuyên ngôn độc lập' được phát hành trong tình hình lịch sử đặc biệt quan trọng. Nó ra đời khi chính quyền cách mạng mới thành lập phải đối mặt với nhiều thách thức, với sự kết hợp của các lực lượng phản động nhằm đánh cắp thành quả mà chúng ta đã đạt được. Mặc dù vậy, tuyên ngôn vẫn được ra đời và có ý nghĩa lịch sử quan trọng đối với dân tộc chúng ta.
Trong bản Tuyên ngôn độc lập, Bác Hồ trích dẫn một đoạn tuyên ngôn của nước Mỹ trong phần cơ sở pháp lý. Bác sử dụng nó như một cơ sở pháp lý, một nguyên tắc cơ bản quan trọng nhất để xây dựng toàn bộ tư tưởng của tác phẩm, để phát triển từ quyền bình đẳng của con người thành quyền bình đẳng của các dân tộc trên thế giới. Đó là sự sáng tạo đầy tài năng, trí tuệ và khôn ngoan của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đây là sản phẩm của tư duy lý luận sắc bén, sáng tạo và là một đóng góp lớn của Người. Nó không chỉ mang ý nghĩa thiết thực đối với cách mạng Việt Nam mà còn có ý nghĩa đối với phong trào giải phóng dân tộc trên toàn cầu. Bên cạnh đó, Bác cũng trích dẫn tuyên ngôn của Pháp, đầy đủ tinh thần và ý nghĩa của tuyên ngôn Pháp, với việc tôn vinh quyền tự do và bình đẳng của con người - quyền cơ bản, không thể chối bỏ và được công nhận như một sự thật.
Sử dụng hai tuyên ngôn nổi tiếng của nhân loại và hai cường quốc lớn trên thế giới có âm mưu thôn tính nước ta, Bác muốn tăng cường sức thuyết phục của bản tuyên ngôn độc lập của nước mình. Đồng thời, thể hiện sự khéo léo, trí tuệ của người viết. Bác vừa tôn vinh truyền thống bình đẳng, tự do, nhân đạo, tinh thần tiến bộ của nhân dân hai nước Mỹ và Pháp lại vừa ngăn chặn âm mưu xâm lược của chúng. Đó là nghệ thuật 'gậy ông đập lưng ông'. Người cũng sử dụng những lập luận sắc bén nhất, lời văn ngắn gọn, súc tích và giọng văn hùng hồn. Đó là tiếng nói khẳng định đầu tiên của cuộc đấu tranh chính nghĩa của dân tộc.
Ở phần bản cáo trạng, Bác đưa ra những lập luận và dẫn chứng cụ thể trên mọi phương diện. Từ chính trị, kinh tế đến quân sự, văn hóa, Bác liệt kê đầy đủ những thủ đoạn áp bức, bóc lột mà nhân dân ta phải chịu đựng. Đây được coi như một tố cáo chi tiết về tội ác của thực dân Pháp. Sự tàn nhẫn, độc ác và nhẫn tâm của thực dân Pháp được Bác nhắc lại rõ ràng và đầy đủ, tái hiện lại hình ảnh của đất nước Việt Nam trong quá khứ. Tiếp theo, Bác kể về quá trình giành độc lập tự do của nhân dân ta, kể về những hành động anh hùng và nhân đạo của dân tộc ta. Đó là những cuộc chiến tranh chính nghĩa dũng cảm và kiên cường của toàn dân. Bác thề danh dân tộc khẳng định quyết tâm đánh bại âm mưu xâm lược của thực dân Pháp. Sự quyết tâm được thể hiện như một lời thề không thể nào quên, là lời thề của non sông cất lên mạnh mẽ, rõ ràng.
Phần cuối cùng của bản tuyên ngôn cũng là phần được coi là tổng kết lại toàn bộ: tuyên bố độc lập khẳng định quyết tâm bảo vệ độc lập. Một lần nữa, Bác khẳng định rằng độc lập tự do là quyền tất yếu của dân tộc Việt Nam, đó như một sự thật lịch sử mà không ai có thể chối cãi. Những câu văn ngắn gọn, súc tích nhưng vẫn thể hiện niềm tự hào và tinh thần tự tôn của dân tộc. Bản tuyên ngôn độc lập cũng mang một ý nghĩa vô cùng trọng đại. Hồ Chí Minh đã giải quyết được hai vấn đề, là độc lập cho dân tộc và dân chủ cho nhân dân.
'Tuyên ngôn độc lập' có thể được coi là một tác phẩm văn chính luận ngắn gọn, lập luận sắc bén, dẫn chứng chính xác, thể hiện sự tài năng và tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Và với điều đó, Tuyên ngôn độc lập trở thành 'cột mốc lịch sử' không thể phai nhạt.
Phân tích Tuyên ngôn độc lập - Mẫu 10
Ngày 2 tháng 9 năm 1945 là một sự kiện lịch sử, một dấu ấn không thể quên trong lịch sử của dân tộc, trong tâm trí của người Việt Nam. Hơn sáu mươi năm đã trôi qua nhưng mỗi khi nhìn lại những hình ảnh tư liệu, chúng ta lại nhớ về Quảng trường Ba Đình năm ấy, và cảm thấy xúc động và tự hào khi nghe giọng của Bác trong bản Tuyên ngôn độc lập - một tác phẩm văn chính luận đặc biệt, một di sản vô giá.
Toàn văn bản tuyên ngôn độc lập không quá dài, chỉ khoảng dưới một ngàn từ nhưng rất súc tích và chặt chẽ. Bản Tuyên ngôn được chia thành ba phần rõ ràng, mỗi phần diễn đạt một ý nghĩa riêng, nhưng lại liền mạch với nhau theo một cấu trúc chặt chẽ.
Phần đầu tiên của bản Tuyên ngôn độc lập tập trung vào những chân lý về nhân quyền và dân quyền. Tác giả trích dẫn hai bản Tuyên ngôn nổi tiếng của thế giới, bản Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ và bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp để đặt nền tảng cho lập luận. Bản Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ ra đời sau khi Mỹ giành độc lập thành công. Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền cũng ra đời trong bối cảnh chiến thắng của cách mạng Pháp, cách mạng của những thương dân và nông dân chống lại áp bức và bất công. Những lời của hai bản Tuyên ngôn này tự thân nó đã nêu lên những chân lý, là kết quả của những cuộc cách mạng. Tính tiên phong của những nước có ảnh hưởng lớn trên thế giới khiến không ai có thể phủ nhận tính đúng đắn của chúng. Bác Hồ đã vận dụng sáng tạo: 'Suy rộng ra câu ấy có nghĩa là: Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do', từ khái niệm con người sang khái niệm dân tộc một cách tổng quát và thuyết phục. Điều đáng chú ý là việc trích dẫn bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền đã phơi bày rõ hình ảnh của thực dân Pháp ở Việt Nam, làm nổi bật sự trái ngược giữa lý tưởng và thực tế. Kết thúc phần này là một câu khẳng định ngắn gọn đầy sức thuyết phục: 'Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được'.
Phần thứ hai đề cập đến một cách rõ ràng và chi tiết về những tội ác mà thực dân Pháp đã gây ra tại Việt Nam trong suốt hơn một thế kỷ đô hộ. Ban đầu, họ đã tước đoạt quyền tự do chính trị, “tuyệt đối không để cho nhân dân Việt Nam có bất kỳ tự do dân chủ nào”. Tiếp theo là “họ áp đặt những luật pháp tàn bạo, cản trở quá trình thống nhất đất nước của chúng ta, để ngăn cản sự đoàn kết của dân tộc Việt Nam...” Mỗi từ, mỗi câu đã phản ánh rõ bản chất của kẻ xâm lược. Thực dân Pháp đã thực hiện những chính sách tàn bạo, tiêu diệt văn hóa, nhằm tiêu diệt hoàn toàn bản sắc dân tộc, ý thức lịch sử và truyền thống dân tộc bằng cách “thành lập nhiều nhà tù hơn cả trường học”. Họ đàn áp mạnh mẽ và dã man những người yêu nước, 'cho họ chết trong những cuộc khởi nghĩa, trong những cánh đồng máu”, cướp đoạt một cách trắng trợn và bất công quyền lợi thiêng liêng nhất của con người: quyền sống. Điều này chính là hình thức của việc mở rộng văn minh, mà thực tế là sự phá hoại môi trường sống của những người bản xứ. Họ còn “bóc lột nhân lao động đến tận xương tuỷ... cướp đoạt ruộng đất, mỏ, nguyên liệu... đặt ra hàng trăm loại thuế vô lý, làm cho dân Việt trở nên mất lòng tin... họ bóc lột công nhân Việt Nam một cách tàn nhẫn”. Hành động của họ thực sự thiếu nhân đạo. Hơn nữa, khi bị Nhật tước quyền lực, họ đã bỏ chạy, đầu hàng, bán nước ta hai lần cho Nhật Bản. Sự thật lịch sử đã phơi bày bản chất giả dối, hèn nhát của kẻ xâm lược. Chỉ trong một đoạn ngắn hai mươi mốt câu, tác giả đã phơi bày sự giả dối của chúng, mà bấy lâu nay chúng đã sử dụng để che giấu những hành động xấu xa và độc ác. Tác giả sử dụng những từ ngữ như hắn, tuyệt đối không cho, dã man, thẳng thừng chém giết, tắm... trong những dòng máu, bóc lột đến tận xương tuỷ.... ngôn ngữ phong phú, sắc bén, đầy hình ảnh cụ thể, chính xác, gợi lên sự tức giận sâu sắc trước những tội ác đáng sợ đó. Điệp từ chúng xuất hiện dày đặc, lồng trong những câu song hành, đồng nghĩa, như những nhát búa đập thẳng vào lớp vỏ hoa mĩ của kẻ thực dân, tạo ra những sóng gió lớn, nhấn mạnh và nhấn mạnh, như một sự tuyên truyền luận tội đồng thời cho thấy sức mạnh của chúng ta, sức mạnh của chính nghĩa. Đối lập với những hành động thiếu nhân đạo đó của thực dân Pháp, cuộc đấu tranh của nhân dân ta vẫn giữ vững tính nhân đạo, chính nghĩa. Từ những hành động tàn bạo của thực dân Pháp như khủng bố Việt Minh, giết những người hoạt động chính trị, tác giả đã dẫn dắt chúng ta đến những hành động nhân đạo, khoan hồng của quân và dân ta: giúp nhiều người Pháp qua biên giới, giải cứu nhiều người Pháp ra khỏi nhà tù của Nhật, bảo vệ tính mạng và tài sản của họ. Điệp ngôn Sự thật là... đã chứng minh chiến thắng của chúng ta: chúng ta đã tái chiếm lại đất nước từ tay Nhật, đất nước mà thực dân Pháp đã cướp đi và bán cho phát xít Nhật. Chúng ta đã chiến đấu chống lại phát xít, đứng về mặt trận dân chủ chống phát xít, có vai trò và vị trí đáng giá trước thế giới chính do sức mạnh tự chủ tự lập của dân tộc. Vì vậy, các quốc gia tiên tiến trên thế giới phải đồng lòng ủng hộ quyền tự do và độc lập mà dân tộc Việt Nam đã xứng đáng nhận được. Câu tuyên bố “Pháp bỏ chạy, Nhật phá hàng, vua Bảo Đại thoái vị” ngắn gọn và súc tích, nghe như một lời reo hò vui mừng. Câu này cũng có thể là một ví dụ điển hình cho phong cách văn học của Hồ Chí Minh: ngắn gọn, chính xác và đầy sức mạnh ý nghĩa. Bằng cách sử dụng những cụm từ sắc bén và quyết liệt, tác giả đã thể hiện một cách rõ ràng và quyết định sự phủ định tuyệt đối của mọi mối quan hệ phụ thuộc vào Pháp, kết thúc mọi liên kết cuối cùng đối với Việt Nam, để đất nước này có thể tự do hoàn toàn, xây dựng một chế độ mới.
Tự do mà chúng ta vừa giành được thật sự là vô giá. Để có được nó, nhân dân Việt Nam đã phải đánh đổi bằng rất nhiều sự hy sinh, bao nhiêu lời tưởng niệm và xương máu. Nhưng vẫn còn nhiều thù địch đang âm mưu hủy diệt sự sống mới chỉ mới bắt đầu hình thành của đất nước non trẻ Việt Nam. Hiểu được điều đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt nhân dân nói lên một cách nghiêm túc và quyết liệt rằng “Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và thật sự đã trở thành một quốc gia tự do và độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết tâm dùng tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”. Đó chính là tinh thần của một dân tộc anh hùng, quyết tâm hi sinh tất cả để bảo vệ độc lập và tự do. Việc lặp lại cụm từ “tự do và độc lập” ba lần như thế như một cách để khắc sâu vào tâm trí hàng triệu người dân Việt Nam, vang lên mạnh mẽ và rung động như tiếng kèn xung trận vang vọng. Lời tuyên bố nghe như một lời thề vững chắc và thiêng liêng, vừa khích lệ nhân dân vừa cảnh báo kẻ thù.
Đây là lời Tuyên ngôn Độc lập đầu tiên, tôn vinh sức mạnh của một dân tộc quyết tâm giành tự do và độc lập. Nó không chỉ là một bước ngoặt lịch sử mà còn là biểu tượng của lòng kiên trì và quyết tâm của nhân dân Việt Nam. Với từ ngữ sắc bén và logic rõ ràng, Tuyên ngôn này đã ghi điểm với cả mạnh và yếu của đối thủ, đồng thời truyền cảm hứng và động viên tinh thần cách mạng.
Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là sự kết hợp tinh tế giữa truyền thống lịch sử và tinh thần hiện đại mà còn là một tác phẩm văn học đích thực. Vì vậy, nó luôn được coi là một biểu tượng vĩnh cửu của lòng yêu nước của người Việt Nam.
..........
Tải về tài liệu để đọc thêm 10 phân tích về Tuyên ngôn Độc lập