Bài tập viết lớp 5: Kể chuyện (Kiểm tra viết) mang đến những bài viết mẫu hay, độc đáo nhất, giúp các bạn học sinh lớp 5 có thêm nhiều ý tưởng mới để hoàn thiện bài viết kể về những kỷ niệm khó quên về tình bạn, kể về câu chuyện mà bạn yêu thích nhất trong những truyện đã đọc, hoặc kể về câu chuyện cổ tích theo góc nhìn của nhân vật.
Nhờ đó, các bạn sẽ hiểu được cấu trúc của một bài viết kể chuyện, cũng như cải thiện vốn từ vựng và ý tưởng cho bài viết của mình, từ đó làm cho bài kiểm tra viết tuần 22 trở nên sinh động và thu hút. Mời các bạn theo dõi bài viết dưới đây của Mytour:
Bài 1: Hãy kể về một kỷ niệm đáng nhớ về tình bạn
Mẫu 1
Một kỷ niệm đáng nhớ nhất giữa tôi và người bạn thân nhất, chính là một kỷ niệm diễn ra vào chiều mùa hè hai năm trước.
Hôm đó, buổi trưa trời mát, tôi và Khải đã rủ nhau ra sông tắm mát. Dưới ánh nắng gay gắt, nước sông được cây khế, cây dừa che mát rất hấp dẫn. Vì vậy, chúng tôi đã lơ là, không khởi động mà ngay lập tức lao xuống dòng nước mát. Trong lúc đang thích thú bơi lội, tôi bất ngờ cảm thấy phần bắp chân cứng lại. Sau vài giây giật mình, tôi nhận ra mình đã bị chuột rút. Chao ôi, cơ thể tôi nhanh chóng mất cân bằng và hai tay tôi đập nước liên tục.
May mắn thay, Khải ở gần đó nhận ra tình hình của tôi, vội bơi lại để ứng cứu. Vì tôi to hơn Khải nhiều, nên quá trình cứu giúp gặp khá nhiều khó khăn. Xung quanh lại không có người lớn nào vì đang giữa trưa. Dù vậy, Khải vẫn kiên trì kéo tôi vào bờ từng chút, từng chút một. Sau gần hai mươi phút, chúng tôi mới lên bờ. Mặt Khải đỏ bừng vì mệt, thở hổn hển, nhưng vẫn quan tâm xoa chân cho tôi, nhằm giúp tôi sớm hồi phục. Nhờ có Khải, tôi đã an toàn vượt qua tình huống nguy hiểm đó.
Cũng từ hôm đó, tình bạn giữa tôi và Khải càng trở nên thân thiết hơn. Tôi xem cậu ấy như là người anh trai thân thiết nhất của mình.
Mẫu 2
Thấy tôi về nhà trễ hơn mọi bữa, mẹ tôi hỏi: 'Hôm nay sao con về trễ vậy? Thường ngày độ 11 giờ hay hơn một chút là con về. Chắc ở lớp có sinh hoạt gì phải không con?' 'Chút nữa, con kể mẹ nghe, mẹ nhé'. Trả lời mẹ xong, tôi vào cất cặp rồi ra bể nước rửa chân tay mặt mũi sạch sẽ mới vào ngồi cạnh mẹ thỏ thẻ.
- Chuyện là thế này mẹ ạ! Tan học, con và Phương em của dì Tư đi về sau cùng. Cả hai đều đi xe về trước, chỉ mình con và Phương đi bộ. Trời nắng quá, hai đứa nép vào lề đường mà đi. Đến ngã tư đầu làng, vừa mới bước sang bên kia đường, cả hai đứa đều nghe một tiếng rên nho nhỏ. Con bảo Phương dừng lại:
- Phương ơi! Hình như có tiếng ai rên?
- Mình cũng nghe như vậy.
Chúng tôi nhìn xung quanh nhưng không thấy ai. Đột nhiên, tiếng rên lại vang lên. Chúng tôi như đã biết nguồn tiếng từ đâu. Chúng tôi đi đến gần gốc cây me sâu trong lề đường.
- Ôi! Một bà cụ.
Phương phát hiện trước và kéo tôi theo chạy đến. Bà đang nằm với đầu gối dựa vào rễ cây me. Bộ quần áo bụi bặm, màu nâu sậm. Cạnh chân bà có một cây gậy tre trơn. Tóc bạc phơ đã trắng. Khuôn mặt nhăn nheo xanh xao. Tôi đặt tay lên trán bà và cảm thấy lạnh lẽo.
- Chúng ta sẽ làm gì bây giờ, Phương ơi?
Phương đặt cặp xuống và run run nói:
- Cậu có mang theo dầu không?
Lúc này, tôi vội vã nhớ đến chiếc cặp, nhanh chóng kéo dây khóa lấy ra một lọ dầu gió Kim mà mẹ mới mua cho tôi hôm trước. Tôi thoa dầu lên trán, mũi và thái dương của bà, xoa nhẹ nhàng. Khoảng mười lăm phút sau, chúng tôi thấy bà ấm dần và hơi thở bắt đầu đều lại. Bà mở mắt nhìn chúng tôi và thì thầm:
- Cho bà một chút nước.
Nghe bà nói xong, tôi quay lại và nhanh chóng đáp:
- Cậu ngồi đây với bà, tôi sẽ đi mua nước nhé!
- Phương chạy về gần quán cô Lựu, mua một túi nước chanh có ống hút rồi vội vã trở lại, đưa cho tôi. Tôi cầm túi nước, từ từ uống. Uống được một nửa túi, tôi bảo nghỉ một tí. Phương ngồi xuống bên cạnh tôi. Sau một lúc, tôi uống tiếp hết túi nước, nhìn hai đứa chúng tôi:
- Tôi từ làng bên kia đi thăm đứa cháu gái ở xóm Đông. Khi qua đây, thấy nắng quá, tôi dừng lại nghỉ tạm ở gốc me này. Không ngờ, ngồi được một lúc thì mặt tôi xây xẩm, không có ai để kêu cứu.
- Bây giờ, tôi đã cảm thấy tốt hơn chưa?
- Tôi cảm thấy nhẹ nhàng hơn nhưng vẫn cảm thấy mệt.
Ngồi một lúc, chúng tôi thảo luận với nhau. Một đứa đi ra đường để đón xe, đưa tôi vào bệnh viện và thông báo cho người nhà của tôi. Tôi đứng chờ ở ngoài đường. Từ xa, một chiếc Honda tiến tới. Tôi vẫy tay để xe dừng lại. Bác này có vẻ quen thuộc, dừng lại, nhìn tôi và hỏi:
- Con đi về đâu vậy?
- Thưa bác, con không đi nhưng có một bà cụ bị mệt. Chúng tôi đi học về, thấy bà ngất xỉu ở đây. Mong bác đưa bà vào bệnh viện giúp ạ!
Bác xuống xe cùng tôi đi đến gốc me. Thấy bà cụ đang nằm tựa vào Phương, bác vội nói:
- Một đứa đứng chờ ở đây. Còn một đứa theo bác đưa bà vào bệnh viện.
Bác bế bà cụ trên tay rồi cùng Phương lên xe. Hai mươi phút sau, bác đưa Phương trở lại. Khi chia tay với chúng tôi, bác nói:
- Hai cháu thật là hiếu thảo. Bác rất vui vì hành động của hai cháu. Bây giờ hai cháu yên tâm mà về. Bác đến xóm Đông, báo cho cô cháu gái của bà đến bệnh viện ngay.
Khi lên xe, bác còn quay lại mỉm cười với chúng tôi. Chuyện chúng tôi về trễ là vì lí do thế đấy, mẹ ạ!
Bây giờ thì Phương - người bạn gái thân thiết của tôi đã theo gia đình về Thành phố Hồ Chí Minh. Chúng tôi vẫn thường xuyên liên lạc với nhau. Câu chuyện trên là một kỷ niệm đáng nhớ trong tình bạn của chúng tôi.
Đề 2: Hãy kể lại một câu chuyện mà em thích nhất trong những truyện đã được học.
Kể câu chuyện Thầy cúng đi viện
Ở lớp 5, tôi được học rất nhiều câu chuyện thú vị và bổ ích. Trong số đó, tôi đặc biệt yêu thích câu chuyện về ông Nguyễn Khoa Đăng.
Câu chuyện kể về ông Nguyễn Khoa Đăng - một quan có uy tín, luôn xử lí công bằng và nhiều biện pháp giải quyết khôn ngoan cho dân. Đây là một câu chuyện thú vị tôi muốn chia sẻ với mọi người.
Câu chuyện về ông Nguyễn Khoa Đăng đã lan tỏa thông điệp về sự quan trọng của công bằng và khôn ngoan trong xã hội. Đồng thời, nó cũng giúp phổ biến về lối sống khoa học và đẩy lùi mê tín trong dân gian.
Kể câu chuyện về Cụ Ún - thầy cúng đi viện
Trong các câu chuyện tôi đã học ở Tiểu học, câu chuyện về Cụ Ún - thầy cúng đi viện là câu chuyện tôi ấn tượng nhất. Đây là một câu chuyện sâu sắc và ý nghĩa tôi muốn chia sẻ với mọi người.
Một lần, có một anh hàng dầu đang gánh hàng ra chợ bán. Trong lúc anh đang bận rộn đong dầu cho khách, có một người đã lợi dụng lúc ấy để lấy trộm tiền của anh. Khi anh phát hiện ra mình bị mất tiền, anh mới nhớ lại sự việc trước đó. Anh nhận ra rằng, có một người mù luôn quanh quẩn bên gánh hàng, và dường như anh nghi ngờ người đó đã làm việc gian lận. Anh đã nhờ một người quen trông gánh hàng và sau đó đi tìm kiếm người đó. Người mù đã phủ nhận và bào chữa rằng mình bị mù và không biết gì về việc lấy trộm tiền. Sau một cuộc tranh cãi, cả hai bị bắt giữ và dẫn về quan.
Trước vị quan Nguyễn Khoa Đăng, người mù tiếp tục phủ nhận và cho rằng anh hàng dầu đã vu cáo. Quan hỏi:
- Anh có tiền không?
Người mù đáp:
- Có, nhưng đó là tiền của tôi.
- Xin hãy đưa ra đây!
Khi người mù lấy tiền ra, quan yêu cầu người lấy nước múc một chậu, rồi đặt số tiền vào chậu. Dầu nổi lên. Người mù không còn cách nào khác ngoài việc thú nhận. Tưởng rằng vụ án đã kết thúc, nhưng bất ngờ, quan phán:
- Kẻ ăn cắp này là kẻ giả mù. Vì nếu thật sự mù thì làm sao hắn biết chỗ để lấy tiền.
Sau đó, quan sai lính đưa kẻ ăn cắp ra để trừng phạt. Bị đánh đau, kẻ ăn cắp buộc phải mở cả hai mắt, kêu van xin quan tha thứ.
Đó là câu chuyện về tài xử lý của ông. Còn câu chuyện sau đây là minh chứng cho lòng can đảm, trí tuệ và mưu mẹo của ông Nguyễn Khoa Đăng trong việc tiêu diệt bọn gian phi để bảo vệ dân làng. Trong thời gian làm quan, ông đã làm cho khu vực Truông Nhà Hồ ở Quảng Trị trở nên an toàn hơn bao giờ hết. Trước đó, khu vực này hoang sơ, con đường Bắc Nam phải đi qua đây. Bọn gian phi đã sử dụng nơi này làm nơi ẩn náu để thực hiện các hành vi trộm cắp và tấn công dân làng.
Để truy bắt bọn cướp, ông đã cho chế tạo một hòm gỗ kín có lỗ thông hơi, đủ rộng để một người ngồi, và có khoá bên trong để người bên trong có thể mở ra dễ dàng. Ông đã cho những võ sĩ giỏi võ nghệ mang vũ khí ngồi trong những hòm đó, rồi sai quân lính mặc trang phục bình thường khiêng những hòm đó đi qua con đường dẫn vào truông. Lại tung ra tin đồn rằng: một quan lớn ở Bắc sắp về quê và đi qua truông với hàng hóa quý giá. Bọn cướp vui mừng khi nghe tin này, tin rằng chuyến này sẽ mang lại lợi nhuận lớn. Chúng hí hửng mang những hòm về sào huyệt. Tuy nhiên, khi mở ra, những hòm bất ngờ bung ra. Những võ sĩ tinh nhuệ của triều đình đã kéo đến với vũ khí sẵn sàng. Bọn cướp không còn lựa chọn nào khác ngoài việc đầu hàng và xin tha mạng. Ông quan đã sử dụng chúng để khai khẩn đất hoang ở biên giới và xây dựng thành những đồn điền lớn. Sau đó, ông đã đưa dân làng đến định cư ở hai bên con đường truông, biến một khu rừng u ám và hoang sơ trở thành những xóm làng đông đúc và yên bình.
Tôi rất ngưỡng mộ ông Nguyễn Khoa Đăng và tôi sẽ cố gắng học tập chăm chỉ để trở thành một người tài năng, trung trực như ông ấy.
Đề 3: Kể về câu chuyện cổ tích theo góc nhìn của một nhân vật trong đó
Tôi là một nhân vật trong câu chuyện về Cây Khế. Mỗi khi nhớ lại câu chuyện, tôi cảm thấy lòng nặng trĩu với nỗi buồn. Đó là nỗi buồn vì anh tôi đã mất đi mãi mãi vì lòng tham vô độ.
Khi còn sống, bố mẹ tôi để lại cho chúng tôi một gia sản khá lớn. Khi họ qua đời, anh tôi chiếm đoạt tất cả, từ nhà cửa, ruộng đất cho đến tài sản. Anh chỉ để lại cho tôi một cái lều nhỏ và một cây khế. Tôi luôn vâng lời và không dám yêu cầu gì thêm.
Mỗi ngày, vợ chồng tôi cố gắng chăm sóc cây khế, khiến nó ra hoa và cho trái rất nhanh. Nhìn thấy cây khế đầy trái, tôi và vợ vui mừng biết bao. Cây khế đã trở thành nguồn sống của gia đình tôi.
Một ngày, một chú chim lạ bay đến và đậu trên cây khế. Chim thật xinh đẹp, lông mịn và thân hình lớn như đại bàng. Chim ăn hết trái khế nhà tôi, từ trái này sang trái khác. Tôi thấy xót xa nhưng không dám đuổi chú đi. Thay vào đó, tôi chỉ đứng dưới gốc cây và than thở với chú chim:
- Gia đình chúng ta phụ thuộc vào cây khế này để sống, nếu chú ăn hết thì chúng ta sẽ sống sao?
Ngay sau khi tôi nói xong, chú chim kêu lên một cách lạ thường:
“Một quả khế, một cục vàng, Cầm túi ba gang, đi mà dùng.”
Thật bất ngờ! Tôi không ngờ rằng chú chim có thể giúp tôi giàu sang. Tuy vậy, tôi vẫn yêu cầu vợ may một cái túi chỉ vừa đủ chứa ba gang. Sáng hôm sau, khi tôi nhận được vàng từ chú chim, tôi rất vui vẻ vì lượng vàng quá lớn, nhưng tôi chỉ lấy đủ để đựng vào túi rồi cưỡi lên lưng chim để về nhà. Gia đình tôi từ đó trở nên giàu có. Tôi cũng có cơ hội giúp đỡ những người nghèo trong làng. Vợ chồng tôi âm thầm biết ơn chú chim đã giúp đỡ chúng tôi. Không lâu sau, anh trai tôi biết được điều này và đến yêu cầu tôi trả lại cây khế. Dù lòng tôi rất mừng lòng anh trai, nhưng tôi chỉ mong mọi thứ trong gia đình hòa thuận và ấm áp. Vậy là, mỗi ngày anh ấy đứng dưới gốc cây khế, chờ đợi chú chim lạ.
Sự chờ đợi của anh ấy đã được đền đáp. Chú chim lạ đến và anh ấy đã nói chuyện với chú. Chim vẫn kêu lên như lần trước. Anh ấy vô cùng vui sướng và lòng tham của anh ấy lại bắt đầu trỗi dậy. Anh ấy yêu cầu vợ may một cái túi vừa đủ chứa mười hai gang để chuẩn bị nhận vàng. Sáng sớm hôm sau, chim đến và anh ấy cưỡi lên để đi lấy vàng. Khi nhìn thấy vàng, anh ấy sung sướng không tả nổi. Anh ấy cố lấy thật nhiều vàng, đựng vào túi và còn giấu thêm trong người. Khi trở về, chim gặp cơn gió mạnh giữa biển. Chim khuyên anh ấy hãy thả bớt vàng xuống nhưng anh ấy không nghe lời, vẫn ôm chặt túi vàng. Đột nhiên, cánh chim lảo đảo và chim không thể nào cầm cự được vì quá nặng, cuối cùng đã đánh mất anh ấy cùng túi vàng xuống biển.
Tôi rất thương xót cho anh ấy. Nếu không có lòng tham của anh ấy, thì chuyện không sẽ không kết thúc bi thảm như vậy. Từ câu chuyện về cây khế và chim thần, tôi muốn gửi đến mọi người một thông điệp:
“Nhân quả như bóng, chạy đến đâu, chạy mình.”