Đối với tác giả và tác phẩm Đò lèn trong chương trình Ngữ văn lớp 12, đây được xem là bài thơ hay nhất với việc trình bày chi tiết về bố cục, tóm tắt nội dung quan trọng nhất của bài Đò lèn, cũng như giá trị nội dung và nghệ thuật, dàn ý, phân tích,...
Bài thơ Đò lèn (của Nguyễn Duy) - Môn Ngữ văn lớp 12
Nội dung chính của bài thơ Đò lèn
Dàn ý Phân tích bài thơ Đò Lèn - mẫu 2
I/ Khai mạc
- Giới thiệu một số thông tin về tác giả và tác phẩm:
+ Nguyễn Duy được biết đến là nhà thơ tôn vinh vẻ đẹp của cuộc sống đời thường và những giá trị bền vững và khiêm nhường.
+ Bài thơ Đò lèn được sáng tác vào tháng 9 năm 1938 khi Nguyễn Duy trở về thăm quê ngoại để gặp bà. Tuy nhiên, ông đã phải đối mặt với việc bà đã ra đi sau bao năm xa cách.
II/ Thân bài
* Luận điểm 1: Sự xuất hiện của hình ảnh người bà trong kí ức của người cháu
- Những ký ức về tuổi thơ của một cậu bé lớn lên trong một gia đình nghèo, với những niềm vui, ham chơi và tính nghịch:
+ Thích thú với những trò chơi như bắt chim, trộm nhãn, đi chợ cùng bà, và câu cá.
+ Mê mẩn với thế giới kỳ diệu: thăm đền Cây Thị, tham gia lễ hội đền Sòng, và cảm nhận hương thơm của huệ trắng, khói trầm, và những điệu nhảy văn lảo của bóng cô đồng.
+ Tạo lại những kỷ niệm xưa, thể hiện sự trân trọng tuổi thơ, tình yêu quê hương, nhớ nhung người bà thân yêu.
+ Bài thơ cũng là lời nhắc nhở bản thân về sự vô tâm trước khi chưa biết quý trọng và quan tâm đến người bà khi còn có thể ở bên bà.
- Hình ảnh người bà qua ký ức của tác giả:
+ Bà đã vượt qua mọi khó khăn, kiếm sống qua nhiều ngành nghề khác nhau để nuôi dưỡng người cháu mồ côi trong thời kỳ chiến tranh khốc liệt.
+ Bà kiếm cua, xúc tép, bán chè xanh ở Ba Trại, vất vả giữa những đêm lạnh giá và nguy hiểm của bom Mĩ. Ngôi nhà của bà bị tàn phá, và bà phải bán trứng ở ga Lèn.
=> Hình ảnh về người bà trong bài thơ thực tế và sâu sắc, đồng thời gần gũi với mỗi gia đình Việt Nam.
+ Người bà là một phần không thể thiếu của tuổi thơ, gắn bó và thân thương, như việc níu kéo váy bà đi chợ Bình Lâm,...
+ Bà là một người hiền lành, tâm hồn bà tràn đầy lòng từ bi và lòng bác ái, như một vị tiên, Phật, hoặc Thánh sáng ngời.
+ Sống dưới tình thương mạnh mẽ của bà, đứa cháu mới hiểu được tấm lòng và tâm hồn của bà.
=> Trước người bà giản dị và nhân hậu, đầy yêu thương dành cho con cháu, người cháu không chỉ yêu quý và trân trọng bà mà còn ngưỡng mộ vẻ cao quý và lòng hy sinh của bà, như một hình mẫu phụ nữ Việt Nam kiên cường, biết hy sinh trong cuộc sống.
* Luận điểm 2: Sự tỉnh táo muộn màng của người cháu
- Tình cảm của nhà thơ khi nhớ về bà ngoại:
+ Hiểu biết và cảm nhận sâu sắc về những khó khăn, tình yêu và sự tận tụy của bà.
+ Dành cho bà tình yêu thương, tôn trọng và lòng biết ơn sâu sắc.
+ Hối tiếc, ân hận, và nỗi đau muộn màng:
“Khi tôi nhận ra tình thương của bà, thì đã quá muộn
Bà giống như chỉ còn là một nấm cỏ duy nhất'
+ Cảm xúc của đứa cháu khi đứng trước mộ bà ngoại:
Dòng sông quen thuộc: sông Chu, sông Mã, sông Đò Lèn.
'Dòng sông quen thuộc vẫn lặng lẽ trôi qua': ý nghĩa về sự thay đổi của cuộc sống, của quê hương, và của thời gian.
'Bà chỉ còn là một nấm cỏ duy nhất': cảm giác buồn bã, triết lý về sự phù phiếm của cuộc đời trong dòng chảy bất tận của thời gian và vũ trụ; nỗi hối tiếc của người cháu vì đã lãng quên và không biết quý trọng bà.
* Tính độc đáo trong nghệ thuật
- Sử dụng kỹ thuật so sánh đối lập và đối chiếu
- Giọng điệu chân thành, trung thực
- Sự kết hợp hài hòa giữa phong cách dân gian và cổ điển.
- Hình ảnh đơn giản, gần gũi với cuộc sống hàng ngày, mang tính chất hóm hỉnh dân gian.
III/ Kết luận
- Tóm tắt giá trị nội dung của bài thơ
- Chia sẻ cảm xúc của bạn về bài thơ.
Phân tích bài thơ Đò Lèn
Ngoài những tác phẩm thành công như “Cát trắng”, “Ánh trăng”, “Đãi cát tìm vàng”,... bài thơ “Đò Lèn” của Nguyễn Duy cũng đã ghi dấu trong lòng độc giả bằng những ấn tượng sâu sắc. Được sáng tác vào năm 1983, trong một kỳ nghỉ trở về quê hương, bài thơ này tái hiện lại những ký ức đan xen nhiều cảm xúc từ tuổi thơ của tác giả.
Khi nhắc đến tuổi thơ, người ta thường nghĩ đến những hình ảnh đẹp và yên bình, nhưng Nguyễn Duy lại đưa ra những ký ức về thời kỳ chiến tranh loạn lạc:
“Lúc nhỏ, tôi thường đi câu cá ở cống Na
Nắm tay bà đi chợ Bình Lâm
Bắt chim sẻ ở bên tai tượng Phật
Và đôi khi trộm nhãn ở chùa Trần.”
Tuổi thơ của tác giả là thời kỳ đi câu cá, theo bà đi chợ, bắt chim sẻ, và thỉnh thoảng trộm nhãn. Không chỉ thế, trong tuổi thơ ấy, tác giả còn được dẫn đi đền Cây Thị, tham dự lễ đền Sòng, và nghe nhạc văn của cô đồng. Đó là thời gian của một cậu bé hồn nhiên, tinh nghịch, và rất hiếu động. Những ký ức của tuổi thơ không liên quan đến bạn bè đồng trang lứa mà thay vào đó là mối quan hệ mật thiết với người bà ngoại. Nhờ bà mà tác giả hiểu được về văn hóa tâm linh và tinh thần của con người. Bà và cháu có một mối liên kết chặt chẽ, vì cậu bé luôn theo bà, dù đi chợ hay lên đền chùa.
Chính sự vô tư đó khiến cho khi tác giả nhận ra sự vất vả của bà, ông tràn ngập trong niềm hối tiếc:
“Khi tôi nhận ra cuộc đời đầy khó khăn của bà tôi
Bà đi bắt cua và tép ở đồng Quan
Bà mang gánh chè xanh ra Ba Trại
Quán Cháo, Đồng Giao lặng lẽ vào những đêm lạnh.”
Tuổi thơ của tôi rất ham chơi, nên tôi không nhận ra được những gánh nặng cuộc sống mà bà đã phải chịu, những vất vả mưu sinh hàng ngày. Khi tôi đi chơi, bà lại phải đi làm công việc gánh nặng như bán chè, trứng. Bà không chỉ gánh vác trách nhiệm của một người cha mà còn của một người mẹ để nuôi tôi lớn khôn. Từ đây, tác giả không còn nhắc đến những trò chơi tuổi thơ mà thay vào đó là hình ảnh mạnh mẽ, sự hy sinh của người bà.
“Tôi bất lực giữa thực tại và ảo mộng
Ở giữa bà tôi và những vị thần hiền
Những năm đó đói nghèo, chỉ có củ dong riềng luộc sượng
Nhưng lại cảm nhận hương thơm của huệ trắng, hương trầm”
Tình yêu thương của bà giống như của tiên, Phật, thánh thần, luôn hi sinh, chịu đựng những vất vả, khó khăn để nuôi dưỡng tôi lớn. Dù phải trải qua bao nhiêu khó khăn, bà vẫn kiên nhẫn, không từ bỏ. Trong những năm đó đói nghèo, chỉ có củ dong riềng luộc sượng, nhưng tôi vẫn cảm nhận được mùi thơm của huệ trắng, hương trầm. Có lẽ mùi hương ấy là kí ức về quá khứ, về những ngày tôi cùng bà tham dự lễ hội tôn giáo.
Người bà đã chịu nhiều khổ cực, và hiện giờ lại phải kiên cường đối diện với sự tàn bạo của cuộc chiến tranh:
“Nhà bà tôi bị bom Mỹ tấn công, tan hoang mất trắng
Đền Sòng bay, mất hết cả chùa chiền
Cả thánh và Phật cũng không còn đâu nữa
Bà tôi chỉ biết đi bán trứng ở ga Lèn.”
Cuộc sống gian khổ thế đó, nhà bà tôi bị bom Mỹ tấn công, mất hết, những nơi linh thiêng như chùa chiền cũng tan hoang. Bà tôi phải một mình kiếm sống bằng nghề bán trứng. Có gì đau khổ hơn những gì bà phải trải qua? Đạn bom không thể hủy diệt sự sống của bà mà lại làm cho bà trở nên kiên cường, mạnh mẽ hơn. Sức mạnh ấy chính là sức mạnh của những anh hùng, những người vĩ đại.
Thời gian trôi đi nhanh chóng, không chút chậm trễ, cậu bé ngày nào đã trưởng thành:
“Tôi nhập ngũ, lâu rồi không về thăm quê hương
Dòng sông xưa vẫn lặng lẽ chảy, bên lở, bên bồi
Khi tôi nhận ra tình thương dành cho bà, thì đã quá muộn
Bà chỉ còn lại như một cọng cỏ yếu ớt.”
Tác giả cảm thấy xót xa, hối tiếc khi chỉ khi trưởng thành mới hiểu được sự hi sinh, nỗi cực khổ của người bà. Khi muốn báo đáp lòng ơn của bà thì bà đã ra đi mãi mãi. Nỗi đau trong lòng là không gì so sánh được, vì mất đi người thân yêu, gần gũi nhất. Khi trở về từ nơi xa xôi, muốn gặp lại, báo đáp lòng ơn của bà thì “bà chỉ còn là một cọng cỏ yếu ớt”, nỗi buồn không gian trời đã trào dâng thành tiếng khóc rơi nức nở. Ai cũng sẽ cảm thấy xúc động, lòng nghẹn ngào trước cảnh tượng đó. Sự hối tiếc trở nên tràn ngập, lòng tác giả đau đớn.
Với lối viết chân thành, sâu sắc và việc sử dụng phép so sánh giữa thực tại và tưởng tượng, giữa người bà với các thần linh, và sự hiếu động, vô tư của người cháu với những khó khăn, hi sinh của người bà, tác giả đã đóng góp vào sự thành công của tác phẩm. Nguyễn Duy không cần phải dùng một hình tượng biểu tượng nào để thể hiện tình cảm với người bà mà ông đã trực tiếp thể hiện tình cảm đó qua hình ảnh của người bà khiêm nhường, chân thành. Điều đó đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả.