Qua bài thơ Hầu Trời, Tản Đà đã dũng cảm tỏ ra bản thân 'cái tôi' cá nhân - một cái tôi kiêu căng, tự do. Từ đó, nhà thơ thể hiện sự tự nhận biết về tài năng và giá trị thực sự của mình, cũng như mong muốn tự khẳng định trong cuộc sống. Tác phẩm này thường được học trong chương trình môn Ngữ văn lớp 11.
Hôm nay, Mytour sẽ cung cấp tài liệu giới thiệu về nhà thơ Tản Đà và phân tích chi tiết về bài thơ Hầu trời. Kính mời các bạn học sinh tham khảo.
Khơi vũ trời
Đêm qua không hay cũng không biết,
Không mơ mộng, không hoảng sợ.
Thật lòng, thật dũng, thật chân thật!
Thật may mắn được lên thiên đường.
Một mình nằm suy tư giữa đêm,
Chân vắt dưới bóng đèn xanh.
Buồn rồi lại dậy đun nước uống,
Uống xong ấm lòng, nằm ngâm văn.
Chơi văn ngâm chán rồi lại ngắm trăng.
Ra sân, bóng đồng đi tung tăng.
Trên trời đột nhiên thấy hai cô xuống,
Miệng cười nói với nhau:
- 'Tiếng ngâm ai kia vang vọng,
Tiếng vang cả sông Ngân Hà!
Để Trời mất ngủ, Trời phải mắng,
Có nghe không, Trời sẽ biết.”
Ước mãi mới gặp tiên thân!
Tiên nghe tiếng lại quen thân!
Văn chương hay sao mà lắm thế?
Trời đã sai gọi phải lên.
Theo hai tiên đi trên đám mây
Vù vù không cánh mà như bay.
Cửa son đỏ rực, oai rỡ
Thiên môn đế khuyết như là đây!
Đến trông thấy Trời, sụp xuống lạy
Trời sai tiên nữ dắt đi.
Ghế bành như tuyết vân như mây
Truyền cho văn sĩ ngồi đọc đấy.
Chư tiên ngồi quanh đã yên lặng
Trời sai pha nước để nhấp giọng.
Truyền cho văn sĩ đọc nghe!
- 'Dạ bẩm lạy Trời con xin đọc'.
Đọc hết văn vần, lại văn xuôi
Hết văn thuyết lý, lại văn chơi
Đắc ý đọc đã thích
Chè trời nhấp giọng càng tốt hơn.
Văn dài vẫn làm say lòng người!
Trời nghe, Trời cũng đều thấy hay,
Tâm hồn mở rộng, từng từng lời
Hằng Nga, Chức Nữ cười khúc khích
Song Thành, Tiểu Ngọc lắng tai nghe
Đọc mỗi bài cũng vỗ tay đấy.
- 'Con dám xin nhận thiệt ngưỡng mộ
Những tác phẩm đã in ra rồi
Hai quyển về tình thảo văn lý
Hai quyển về tình là văn chơi
Thần tiền, Giấc mộng văn tiểu thuyết
Đài gương, Lên sáu vị văn hiệu
Quyển Đàn bà Tàu lối văn dịch
Và quyển Lên tám, bây giờ mười
Chỉ nhờ Trời, văn con bán được
Bao nhiêu in ra cũng hết tiền”.
Văn đã phong phú, lại đa dạng
Trời nghe Trời cũng vui mừng!
Chư tiên ao ước tranh nhau nói:
- “Anh hãy bán ở chợ Trời này!”
Trời lại phê bằng: “Văn thật tuyệt!”
Văn thế này, không phải nhiều!
Văn chuẩn đẹp như ánh sao!
Khí văn mạnh mẽ như mây cuồn!
Êm như gió, tinh như sương!
Đầm như mưa, lạnh như tuyết!
Tên văn sĩ, quê quán gì?
Chưa biết ở đâu, tên là gì?”.
- “Dạ, con xin thưa Trời vài lời
Con tên Khắc Hiếu, họ Nguyễn
Quê ở Á Châu và trên trái đất
Sông Đà, núi Tản, nước Nam Việt”.
Nghe xong Trời suy nghĩ một lúc lâu
Quyết định sai thiên tào lấy sổ xét.
Thiên tào kiểm tra sổ xét vừa xong
Nộp sổ lên trình Thượng đế trông
- “Quả có tên Nguyễn Khắc Hiếu
Xuống hạ giới vì tội ngông.”
Trời nói: “Không phải là Trời đày,
Trời định sai con một việc này
Là việc “thiên lương” của nhân loại,
Cho con xuống làm cùng đời này.”
- “Bẩm Trời, cuộc sống của con thực nghèo khó
Trần gian thước đo cũng không có
Nhờ Trời học ít nhiều trong năm xưa
Vốn vẫn còn một lòng văn ấy.
Giấy của người, mực của người, người thuê, người in
Mướn cửa hàng của người, bán phố phường.
Văn chương hạ giới rẻ như bèo
Kiếm được đồng lãi thật rất khó.
Kiếm được thời gian ít, tiêu thời gian nhiều
Làm mãi quanh năm chẳng đủ tiêu
Lo ăn lo mặc hết ngày tháng
Học ngày càng kém, tuổi ngày càng cao
Sức khỏe suy giảm, ngoài cản rấp
Một cây chống bốn mùa.
Trời lại sai con việc nặng quá
Biết có thể làm được nhưng dám không?”
Rằng: “Con không cần nói, Trời đã biết
Trời dù ở trên cao, Trời thấu hết
Thôi, con cứ về và làm ăn
Trái tim thông suốt, không sợ gì sương tuyết!”
Vâng, nhờ Trời chỉ dạy, lạy xin ra
Trời sai Khiên Ngưu đóng xe tiễn
Xe trời đã chờ ngoài thiên môn
Chư tiên ra tiễn biệt.
Hai hàng lụy biệt giọt sương rơi
Trông xuống trần gian vạn dặm xa.
Thiên tiên ở lại, trích tiên xuống
Theo đường không khí về phàm trần.
Đêm khuya gió lạnh, sao thưa vắng
Trăng mờ dẫn lối về non Đoài.
Non Đoài đã đến nơi thế gian,
Trông lên chư tiên không thấy ai.
Tiếng gà kêu rộn, tiếng người tỉnh giấc
Giữa sân vẫn đứng một mình buồn bã
Một năm ba trăm sáu mươi đêm
Làm sao mỗi đêm được lên hầu Trời.
I. Một chút về Tản Đà
- Tản Đà (1889 - 1939), tên thật là Nguyễn Khắc Hiếu.
- Quê ở làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây (nay thuộc Ba Vì, Hà Nội).
- Ông sinh ra và lớn lên trong thời kỳ chuyển đổi, Hán học đã sụp đổ mà Tây học cũng mới bắt đầu, vì thế con người ông, cả về kiến thức, lối sống và sự nghiệp đều phản ánh hai thế kỷ (Hoài Thanh).
- Ông ban đầu theo đạo Nho, đã hai lần cố gắng tham gia kỳ thi họa nhưng đều không thành công. Sau đó, Tản Đà chuyển sang viết văn bằng tiếng Việt và sớm tạo nên tiếng vang lớn trong những năm 20 của thế kỷ XX.
- Thơ của ông đong đầy cảm xúc lãng mạn nhưng vẫn giữ được bản sắc dân tộc với nhiều yếu tố sáng tạo mới.
- Ngoài thơ, Tản Đà cũng viết văn xuôi với nhiều tác phẩm tản văn, tùy bút và tự truyện.
- Các tác phẩm nổi bật: Khối tình con I, II (thơ, 1917); Giấc mộng con I (tiểu thuyết, 1917), Thề non nước (tiểu thuyết, 1920), Giấc mộng con II (Du ký, 1932), Giấc mộng lớn (tự truyện, 1932)...
II. Giới thiệu về bài thơ Hầu trời
1. Nguồn gốc
Bài thơ “Hầu trời” được đăng trong tập “Còn chơi”, phát hành lần đầu vào năm 1921. Trong tập thơ này còn có các tác phẩm như Còn chơi, Lo văn ế, Tống biệt…
2. Hình thức thơ
Bài thơ “Hầu trời” được viết theo dạng thơ thất ngôn trường thiên.
3. Cấu trúc
Gồm 3 phần:
- Phần 1: Từ đầu đến “Thật được lên tiên - sướng lạ lùng”. Giới thiệu về thời gian và hoàn cảnh được lên trời chơi.
- Phần 2: Tiếp tục đến “Anh gánh lên đây bán chợ Trời!”. Thi nhân đọc thơ cho Trời và chư tiên nghe.
- Phần 3: Phần còn lại. Thi nhân bày tỏ nỗi niềm tâm sự với Trời về bản thân.
4. Chủ đề
Qua bài thơ Hầu trời, Tản Đà đã can đảm thể hiện “bản ngã” cá nhân - một bản ngã rất kiêu căng, tự do. Từ đó, nhà thơ đã thể hiện được sự tự nhận thức về tài năng, giá trị thực sự của bản thân, cũng như mong muốn khẳng định trong cuộc sống.
5. Mỹ thuật
Loại thơ thất ngôn trường thiên, ngôn từ tự nhiên, phong phú, ngôn ngữ trực tiếp, sinh động, hài hước…
III. Phân tích nội dung Hầu Trời
(1) Bắt đầu
Hướng dẫn, giới thiệu về bài thơ Hầu Trời.
(2) Nội dung chính
a. Giới thiệu về thời gian và tình hình khi được lên trời chơi
- Thời gian: ban đêm, dưới ánh trăng
- Tình hình: Thi nhân đọc thơ, tiếng thơ vang vọng khiến Trời không ngủ được. Trời sai người xuống mời thi nhân lên làm vị hầu của Trời.
- Cảm nhận của thi nhân: “Không biết có hay không, chẳng hoảng sợ, không mơ màng/ Thật lòng! Thật kiên định! Thật thân thể!/ Thật được lên tiên - sung sướng lạ lùng”.
=> Tạo ra một cảm giác xen kẽ giữa thực và ảo. Cách kể chuyện duyên dáng, cuốn hút và độc đáo.
b. Thi nhân đọc thơ cho Trời và chư tiên nghe
- Bầu không khí trên trời, cách tiếp đón “trời sai tiên nữ dắt lôi dậy, truyền cho văn sĩ ngồi chơi đấy, chư tiên ngồi quanh đã yên ổn”: cách tiếp đón trang trọng, lịch sự và phù hợp với buổi đọc thơ.
- Thi nhân xin phép được đọc, nhiệt huyết và có phần tự tin: đọc từ thơ vần sang thơ trơn, từ thơ lý thuyết sang thơ vui vẻ… để thể hiện hết tài năng của mình.
- Cảm nhận của Trời và chư tiên: “văn dài hơi tốt”, “Trời cũng thấy hay”, “Tâm như mở dạ, Cơ lè lưỡi”, “Hằng Nga, Chức Nữ nhíu mày’’, “Song Thành, Tiểu Ngọc dừng tai chú ý”, “đọc xong mỗi bài cũng vỗ tay”. Tất cả đã thể hiện sự thích thú, say mê với thơ của thi sĩ.
- Thi sĩ bắt đầu giới thiệu các tác phẩm của mình một cách đầy đủ: tên sách - thể loại.
- Lời khen từ Trời: “văn phong giàu thay đổi, lại lắm ý tưởng”, “Trời nghe xong cũng phải cười”, chư tiên cùng nhau kêu thi sĩ “gánh lên bán chợ Trời”...
=> Thể hiện cái tôi kiêu ngạo của Tản Đà: tự tin vào tài năng của mình, trần gian không ai hiểu thấu về thơ của ông, chỉ có thể tìm được bạn đồng hành ở trên trời.
c. Thi nhân thổ lộ lòng tâm với Trời về bản thân
- Hoàn cảnh: Sau khi khen ngợi văn chương của thi sĩ, Trời hỏi về nguồn gốc của ông.
- Thi sĩ giới thiệu về bản thân:
- Tên: Tên Khắc Hiếu, họ Nguyễn.
- Quê quán: núi Tản, sông Đà, nước Việt.
- Thân thế: một vị tiên bị đày xuống hạ giới vì tội “ngông”.
- Thiên chức: Trời giải thích rằng không phải do Trời đày, mà muốn giao cho thi sĩ truyền bá thiên thương cho nhân loại.
=> Qua lời giới thiệu, ta thấy được ý thức trách nhiệm, khát vọng của nhà thơ Tản Đà.
- Thi sĩ nói về tình cảnh của người theo đuổi nghề văn:
- Văn học ở hạ giới rẻ như bèo.
- Đời sống của những người sáng tác văn chương nghèo khó, thân phận bị hèn mọn…
(3) Tóm tắt
Xác nhận giá trị nội dung và nghệ thuật của bài văn Hầu Trời.