- Hình ảnh Lầu Hoàng Hạc từ năm 1920, tác phẩm của Thôi Hiệu thời Đường.
- Lý Bạch từng thấy thơ Thôi Hiệu tại đây.
- Thơ miêu tả lầu Hoàng Hạc khi người xưa đã cưỡi hạc vàng bay đi.
- Chữ '去' có cách đọc khác nhau và được sử dụng trong thơ Đường.
- Nhiều bản dịch tiếng Việt nổi bật từ Tản Đà, Ngô Tất Tố.
- Thơ mô tả cảnh thiên nhiên và nỗi lòng con người trước khung cảnh Hoàng Hạc Lâu.
Hình ảnh lầu Hoàng Hạc chụp vào những năm 1920
Hoàng Hạc Lâu là một tác phẩm nổi tiếng của nhà thơ Thôi Hiệu (崔顥) từ thời Đường. Theo truyền thuyết, khi Lý Bạch đến thăm Hoàng Hạc Lâu và định viết thơ, ông đã thấy bài thơ của Thôi Hiệu viết trên vách, đọc xong liền bỏ bút, ngửa mặt lên trời mà than thở:
Nhãn tiền hữu cảnh đạo bất đắc
Thôi Hiệu đề thi tại thượng đầu...
Dịch nghĩa:
Trước mắt thấy cảnh không tả được
Vì Thôi Hiệu đã đề thơ trên đầu
Chữ Hán - Phiên âm - Dịch nghĩa
Chữ Hán
黃鶴樓
昔人已乘黃鶴去,
此地空餘黃鶴樓。
黃鶴一去不復返,
白雲千載空悠悠。
晴川歷歷漢陽樹,
芳草萋萋鸚鵡洲。
日暮鄉關何處是,
煙波江上使人愁。
Hán-Việt
Hoàng Hạc Lâu
Tích nhândĩ thừa hoàng hạc khứ,
Thử địa không dư Hoàng Hạc Lâu.
Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản,
Bạch vân thiên tải không du du.
Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ,
Phương thảo thê thê Anh Vũchâu.
Nhật mộ hương quan hà xứ thị,
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.
Dịch nghĩa
Lầu Hoàng Hạc
Người xưa đã cưỡi hạc vàng bay đi,
Nơi đây chỉ còn lại lầu Hoàng Hạc
Hạc vàng một khi bay đi đã không trở lại
Mây trắng ngàn năm vẫn phiêu diêu trên không
Mặt sông lúc trời tạnh, phản chiếu cây cối Hán Dương rõ mồn một
Cỏ thơm trên bãi Anh Vũ mơn mởn xanh tươi
Trời về chiều tối, tự hỏi quê nhà nơi đâu?
Trên sông khói tỏa, sóng gợn, khiến buồn lòng người!
Chữ 'khứ' (去)
Ảnh chụp năm 2006
Trước đây, chữ 去 thường được đọc với dấu sắc. Một số người cho rằng đây là một bài thơ luật Đường bị 'phá thể' hoặc 'lạc vận'. Cũng có người cố gắng dịch sang quốc ngữ (abc) bằng cách sử dụng thanh trắc cho câu đầu tiên.
Chữ 去, trong thời của Thôi Hiệu hoặc khu vực của ông, đôi khi được đọc là 'Hôi' hoặc 'Khu'. Trong Hán Việt Từ điển - Thiều Chửu, cũng ghi nhận điều này:
Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khu/khâu
Thử địa không dư hoàng hạc lâu.
Các phiên bản dịch
Ngôn ngữ Việt Nam
Tại Việt Nam, nhiều người đã dịch Hoàng Hạc Lâu sang tiếng Việt. Tản Đà là một trong những dịch giả đầu tiên, và tài năng của ông đã giúp bài thơ trở nên phổ biến trong cộng đồng người Việt. Các bản dịch nổi bật khác bao gồm của Trần Trọng Kim, Trần Trọng San, Ngô Tất Tố, và Vũ Hoàng Chương...
Bản dịch của Tản Đà
Hạc vàng ai cưỡi đi đâu?
Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ
Hạc vàng đi mất từ xưa
Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay
Hán Dương sông tạnh cây bày
Bãi xa Anh Vũ xanh dày cỏ non
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai
Bản dịch của Ngô Tất Tố
Người xưa cưỡi hạc đã cao bay
Lầu hạc còn suông với chốn này
Một vắng hạc vàng xa lánh hẳn
Nghìn năm mây bạc vẩn vơ bay
Vàng gieo bến Hán, ngàn cây hửng
Xanh ngát châu Anh, lớp cỏ dày
Hoàng hôn về đó quê đâu tá?
Khói sóng trên sông não dạ người.
Chú giải
Theovi.wikipedia.org
Copy link
2
Nội dung từ Mytour nhằm chăm sóc khách hàng và khuyến khích du lịch, chúng tôi không chịu trách nhiệm và không áp dụng cho mục đích khác.
Nếu bài viết sai sót hoặc không phù hợp, vui lòng liên hệ qua email: [email protected]
Trang thông tin điện tử nội bộ
Công ty cổ phần du lịch Việt Nam VNTravelĐịa chỉ: Tầng 20, Tòa A, HUD Tower, 37 Lê Văn Lương, Quận Thanh Xuân, Thành phố Hà NộiChịu trách nhiệm quản lý nội dung: 0965271393 - Email: [email protected]