Tây Tiến | |
---|---|
Thơ bảy chữ | |
Thông tin tác phẩm | |
Tên gốc | Nhớ Tây Tiến |
Tác giả | Quang Dũng |
Quốc gia | Việt Nam |
Ngôn ngữ | Tiếng Việt |
Thể loại | Thơ bảy chữ |
Bài thơ Tây Tiến được sáng tác bởi nhà thơ Quang Dũng vào năm 1948 và lần đầu tiên được công bố trên Tạp chí Văn nghệ số 11 và 12, năm 1949.
Tổng quan
'Trung đoàn Tây Tiến' là một đơn vị quân đội được thành lập năm 1947, nơi Quang Dũng đảm nhiệm vai trò Đại đội trưởng của tiểu đoàn 212. Nhiệm vụ của đơn vị là phối hợp cùng quân đội Lào chống lại thực dân Pháp trong giai đoạn Kháng chiến chống Pháp (1945-1954). Các chiến sĩ của trung đoàn chủ yếu là thanh niên Hà Nội, bao gồm nhiều học sinh, sinh viên (như nhà thơ Quang Dũng). Họ hoạt động khắp các vùng Sơn La, Lai Châu, Hòa Bình, miền Tây Thanh Hóa, Sầm Nưa (Lào), đối mặt với nhiều khó khăn, thiếu thốn, và bệnh sốt rét nghiêm trọng, nhưng vẫn duy trì tinh thần lạc quan và chiến đấu dũng cảm.
Về cơ cấu của Trung đoàn Tây Tiến, theo thông tin từ báo Quân đội nhân dân, trung đoàn không hoàn toàn như mô tả trong sách giáo khoa Ngữ văn 12. Trung đoàn bao gồm các đơn vị như Tiểu đoàn 212 Liên khu 3 (sau đổi thành Tiểu đoàn 150), Tiểu đoàn 90 thuộc Trung đoàn 41 chiến khu 3 Hải Phòng (sau đổi thành Tiểu đoàn 57), Tiểu đoàn 60 thuộc Trung đoàn 37 chiến khu 2 Hòa Bình và Tiểu đoàn 145 Liên khu 3 Hà Nội (sau đổi thành Tiểu đoàn 164).
Theo Quang Dũng, Trung đoàn Tây Tiến 'gồm các chiến sĩ tình nguyện từ khu III, khu IV và tự vệ thành Hà Nội trước thuộc trung đoàn Thủ Đô'. Do đó, khi giảng dạy, cần chú ý cẩn thận về thành phần của trung đoàn này.
Quang Dũng sử dụng thuật ngữ 'Miền Tây' để chỉ vùng hoạt động của mình ở phía Tây Thanh Hóa, Tây Bắc và Lào. Tuy nhiên, định nghĩa cụ thể của 'Miền Tây' vẫn chưa rõ ràng, có thể là các khu vực phía Tây Hà Nội như Tây Bắc và phía Tây Thanh Hóa. Sách giáo khoa Ngữ văn 12 hiện sử dụng thuật ngữ 'miền Tây' để chỉ các địa danh trong bài thơ Tây Tiến, trước đây cho rằng đó là vùng Tây Bắc.
Một số tài liệu cho rằng bài thơ tập trung vào vùng Tây Bắc (bao gồm các tỉnh như Hòa Bình, Sơn La, Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Yên Bái), nhưng bài thơ cũng đề cập đến các địa danh như Sài Khao và Mường Lát ở tỉnh Thanh Hóa, thuộc vùng Bắc Trung Bộ. Vì vậy, việc đánh giá và phân tích các địa danh trong bài thơ cần được thực hiện một cách khách quan và chính xác.
Các địa danh được nhắc đến trong bài thơ
- Sông Mã: Một con sông bắt nguồn từ Lào, chảy qua tỉnh Điện Biên và Sơn La trước khi quay lại Lào và tiếp tục vào Việt Nam qua xã Tam Chung, huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hóa. Sông Mã dài tổng cộng 512 km, trong đó đoạn chảy qua Điện Biên dài 58 km (11%), đoạn qua Sơn La dài 82 km (16%), đoạn qua Hủa Phăn (Lào) dài 102 km (20%), và đoạn qua Thanh Hóa dài 270 km (53%).
- Sài Khao: Một trong 16 bản thuộc xã Mường Lý, huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hóa, cách trung tâm xã khoảng 22 km về phía Tây. Tên Sài Khao trong tiếng Thái có nghĩa là cát trắng.
- Mường Lát: Một huyện của tỉnh Thanh Hóa, nằm ở khu vực biên giới với Lào.
- Pha Luông: Đỉnh núi Pha Luông có độ cao gần 2.000m, nằm ở phía Đông huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La, cách thị trấn Mộc Châu khoảng 30 km. Từ đỉnh cao Sài Khao có thể nhìn thấy dãy núi Pha Luông. Trong tiếng Thái, “Pha Luông” có nghĩa là bức tường lớn, vách lớn.
- Mường Hịch: Còn gọi là Mai Hịch, xã nằm ở phía Tây Nam huyện Mai Châu, cách trung tâm huyện 13 km, giáp với hai xã của huyện Quan Hóa, tỉnh Thanh Hóa.
- Mai Châu: Huyện thuộc tỉnh Hòa Bình.
- Châu Mộc: Huyện thuộc tỉnh Sơn La, nơi tập kết của Trung đoàn Tây Tiến trong Kháng chiến chống Pháp, từ đây các lực lượng quân đội được phân tán ra các chiến trường Tây Bắc - Thượng Lào. Khu di tích Trung đoàn 52 Tây Tiến nằm tại đây.
- Viên Chăn: Thủ đô của Lào.
- Sầm Nứa: Còn được gọi là Sầm Nưa, là thị trấn hiện nay là thủ phủ của tỉnh Huổi Phăn, Lào.
Phát hành và tiếp nhận
Theo sách Ngữ văn lớp 12 (cơ bản):
Với cảm hứng lãng mạn và tài năng sáng tác đặc sắc, Quang Dũng đã thành công trong việc khắc họa hình ảnh người lính Tây Tiến giữa khung cảnh thiên nhiên núi rừng Tây Bắc hùng vĩ, dữ dội nhưng cũng rất đẹp. Hình tượng người lính Tây Tiến với vẻ đẹp lãng mạn, bi tráng sẽ luôn thu hút người đọc lâu dài.
.
Theo lời tác giả: “Khi đó, tôi viết theo cảm xúc và tâm trạng của mình mà không có lý thuyết gì về thơ cả. Bài thơ Tây Tiến mang hơi thở lãng mạn của thời kỳ kháng chiến anh hùng của dân tộc. Sau Tây Tiến, tôi đã sáng tác nhiều bài thơ khác như Đường mười hai, Ngược đường số 6, Đôi mắt người Sơn Tây...”,
Bài thơ
- Sông Mã cách biệt rồi, Tây Tiến ơi!
- Nhớ về núi rừng, lòng thổn thức.
- Sài Khao mây phủ đoàn quân mệt mỏi,
- Mường Lát hoa nở trong đêm tĩnh.
- Đường dốc khúc khuỷu, thăm thẳm,
- Vắng vẻ mây bay, súng vươn trời.
- Ngàn thước cao, ngàn thước thấp,
- Nhà ai Pha Luông mưa bềnh bồng.
- Bạn ơi dãi dầu không tiếp bước,
- Ngã quỵ bên súng, quên cả đời!
- Chiều chiều thác gầm oai phong,
- Đêm đêm Mường Hịch cọp dọa người.
- Nhớ ôi Tây Tiến, cơm khói bay,
- Mai Châu mùa em thơm xôi nếp.
- Doanh trại rực rỡ hội đuốc hoa,
- Em kia xiêm áo tự bao giờ.
- Khèn ngân điệu cô gái e ấp,
- Nhạc về Viên Chăn tạo hồn thơ.
- Người lữ hành Châu Mộc chiều sương đó,
- Có nhìn thấy hồn lau trên bến bờ?
- Có nhớ hình dáng người trên chiếc độc mộc,,
- Trôi trên dòng nước lũ, hoa vẫy đưa?
- Đoàn binh Tây Tiến không mọc tóc,
- Quân xanh như lá dữ tợn như hùm.
- Mắt trừng gửi mộng qua biên cương,
- Đêm mơ Hà Nội dáng kiều xinh.
- Rải rác mồ viễn xứ nơi biên cương,
- Chiến trường đi không tiếc cuộc đời xanh.
- Áo bào thay chiếu, về đất,
- Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
- Tây Tiến người đi không lời hẹn,
- Đường lên thăm thẳm chia phôi.
- Ai lên Tây Tiến mùa xuân đó,
- Hồn về Sầm Nứa không về xuôi.