Phân tích bài thơ Tự tình 2 của Hồ Xuân Hương với 19 bài văn mẫu cực hay kèm theo 3 gợi ý viết chi tiết. Qua việc phân tích bài thơ Tự tình 2, học sinh có thể chọn cách tiếp cận và giọng văn phù hợp để hiểu sâu hơn về tác phẩm.

Top 19 mẫu phân tích bài Tự tình 2 dưới đây được viết rất chất với văn phong rõ ràng, dễ hiểu giúp tự học và nâng cao kiến thức môn Ngữ văn. Ngoài ra, để học tốt môn Văn, hãy tham khảo phân tích Cảm xúc mùa thu, Câu cá mùa thu.
Dàn ý phân tích bài thơ Tự tình 2
I. Khai quật nội dung
- Nhìn nhận về nữ thi sĩ Hồ Xuân Hương: Nữ văn sĩ được biết đến với danh hiệu “Bà chúa thơ Nôm”, sáng tác nhiều bài thơ thể hiện lòng trân trọng và tình cảm thương xót đối với phụ nữ.
- Giới thiệu bài thơ Tự tình II: Đây là một trong ba bài thơ trong bộ sưu tập Tự tình, thể hiện sự buồn bã trước sự bi thương của cuộc sống.
II. Nội dung
1. Hai dòng đầu: Khúc nhạc buồn, trầm lắng
• Dòng thứ nhất: Phản ánh qua bối cảnh:
- Thời gian: Đêm đen tối, tiếng trống vang xa – nhịp điệu vội vã, liên tục của tiếng trống thể hiện sự vội vã, bất ổn của thời gian ⇒ Con người chứa đựng nỗi buồn, lo âu
- Không gian: “vắng vẻ”: mô tả động tĩnh ⇒ không gian rộng lớn nhưng yên bình
⇒ Đối diện với khó khăn, con người trở nên nhỏ bé, cô đơn
• Câu 2: Miêu tả trực tiếp nỗi buồn bằng cách sử dụng từ ngữ gây ấn tượng mạnh:
- Từ “trơ” được nhấn mạnh: nỗi đau, hoàn cảnh “trơ trụi”, đau lòng, đồng thời thể hiện lòng kiêu hãnh đương đầu với những điều không công bằng.
- Cái hồng nhan: Sử dụng từ hiếm diễn tả sự tàn nhẫn
⇒ Hai phần đối lập: “cái hồng nhan” so với “với nước non”
⇒ Bi kịch của phụ nữ trong xã hội
2. Hai câu chính: Mô tả rõ hơn tình trạng cô đơn và nỗi buồn
• Câu 3: Hình ảnh người phụ nữ lẻ loi trong đêm tối tăm với nỗi buồn sâu sắc
- Chén rượu mờ ám: Sự cô đơn, sử dụng rượu để dập tắt nỗi buồn
- Say lại tỉnh: Cuộc rượu say rồi tỉnh như cuộc tình thoáng qua, để lại sự lỡ lạc
⇒ Cuộc quay vòng đó thể hiện số phận biến đổi duyên phận thành trò đùa
• Câu 4: Nỗi chán chường, đau đớn và hụt hẫng
- Biểu tượng thơ chứa hai lần bi kịch:
- Ánh trăng bóng tối: Trăng dần khuất ⇒ tuổi xuân đã qua
- Khuyết không tròn: Số phận chưa hoàn hảo, hạnh phúc chưa trọn vẹn, không đầy đủ ⇒ sự uất ức của con người
- Nghệ thuật đối lập → làm sâu thêm nỗi buồn lẻ loi của người bị lỡ dở
⇒ Mong muốn thoát khỏi hiện thực nhưng không tìm được lối ra.
3. Hai câu phê phán: Sự bất mãn, sự chống đối của Xuân Hương
- Sự tưởng tượng về cảnh đẹp của tự nhiên qua góc nhìn của những người mang trong lòng nỗi buồn và sự đặc biệt của họ:
- Rêu: một sinh vật nhỏ bé, mảnh mai nhưng vẫn giữ được sự cứng cỏi
- Đá: yên bình nhưng nay trở nên mạnh mẽ hơn, sắc bén hơn để có thể 'đâm thẳng vào đám mây'
- Động từ 'đâm' được kết hợp với bổ ngữ 'toạc' mạnh mẽ, làm nổi bật sự kiêu kỳ, cá tính
- Nghệ thuật đảo ngữ, đối chiếu ⇒ Sự chống đối mãnh liệt, mạnh mẽ và quyết liệt
⇒ Sức mạnh đã bị kìm hãm đang dần bộc phát mạnh mẽ và mãnh liệt
⇒ Sự chống lại của tự nhiên cũng chính là sự chống lại của con người
4. Hai câu kết: Quay về cảm xúc mệt mỏi và uất ức
• Mục 7:
- Ngán ngẩm: cảm giác mệt mỏi, chán chường
- Xuân đi lại về: 'Xuân' không chỉ là mùa xuân mà còn là tuổi thanh xuân
⇒ Mùa xuân lặp lại theo chu kỳ nhưng tuổi xuân của con người không thể quay lại, gợi lên cảm giác đắng cay, chán ngấy.
• Mục 8:
- Mảnh tình: Tình yêu không hoàn thiện
- Mảnh tình chia sẻ: Gây thêm nỗi đau và cảm giác thiếu vắng, tình yêu không đủ hoàn thiện nhưng còn phải chia sẻ
- Tí con con: 'Tí' và 'con con' đều chỉ sự nhỏ bé, việc đặt chúng cạnh nhau tăng thêm cảm giác yếu đuối, hèn mọn
⇒ Tình yêu đã không hoàn thiện lại phải được chia sẻ để cuối cùng trở thành một phần nhỏ bé
⇒ Số phận đau đớn, đối lập của phụ nữ trong xã hội truyền thống, phải chấp nhận vai trò được định sẵn
5. Nghệ thuật
- Lối diễn đạt thơ phong phú, thể hiện rõ tài năng và phong cách của tác giả:
+ Sử dụng ngôn từ, hình ảnh sắc sảo, mang lại giá trị thẩm mỹ, đa chiều
- Sử dụng kỹ thuật nghệ thuật đảo ngữ: câu 2, câu 5 và câu 6
- Sử dụng động từ mạnh mẽ: xiên ngang, đâm thẳng.
III. Kết luận
- Tiếp tục khẳng định những đặc điểm quan trọng về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm
- Thể hiện thông qua bài thơ giá trị thực tế và tâm hồn nhân đạo sâu sắc của một nhà thơ 'nữ giới viết về nữ giới'
Sơ đồ tư duy phân tích Tự tình

Phân tích Tự tình 2 - Mẫu 1
Trong một xã hội nam quyền độc tài, phụ nữ thường bị tách biệt, mất đi giọng nói. Ngay cả trong thơ của Bà Huyện Thanh Quan, giọng của phụ nữ dường như bị lãng quên, chỉ còn lại tiếng than của những người hiền nhân, quân tử:
“Nhớ quê đau lòng con nước nước
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia”
Hồ Xuân Hương nổi bật như một hiện tượng đặc biệt. Với tính cách sắc sảo, độc đáo của mình, 'bà chúa thơ Nôm' đã đấu tranh mạnh mẽ chống lại trật tự, quy định của xã hội phong kiến. Trong bài thơ 'Tự tình II', Hồ Xuân Hương mở lòng, chia sẻ những cảm xúc, suy tư của mình một cách trực tiếp. Thông qua đó, bà thể hiện sự đồng cảm, lòng thương hại với số phận khốn khổ của phụ nữ Việt Nam trong xã hội phong kiến, đồng thời tôn vinh vẻ đẹp và khao khát hạnh phúc của họ.
“Tự tình II” được viết theo dạng thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Bằng sự tài năng và tinh tế, Hồ Xuân Hương đã biến hóa từ một dạng thơ nổi tiếng của Trung Quốc thành một phong cách riêng của mình. Đúng như Lê Trí Viễn đã nói: “Dưới bút pháp của Hồ Xuân Hương, Đường luật không còn dáng vẻ quý phái mà thay vào đó là âm điệu tự do của bản thân và được sử dụng một cách sáng tạo”. Tự tình là cách thể hiện, bày tỏ tình cảm của bản thân. Đây là một kiểu thơ phổ biến trong thơ Trung Đại như: “Tự thuật” – Nguyễn Trãi, “Tỏ lòng” – Phạm Ngũ Lão… Các nhà thơ thường sử dụng thể loại này khi cảm xúc, tâm trạng đầy mình, mong muốn được thể hiện. Đây là quy luật của thơ.
Bắt đầu bài thơ, tác giả đã dẫn chúng ta bước vào một không gian và thời gian rất quen thuộc, nỗi cô đơn của con người hiện ra:
“Đêm khuya vẫn vọng về âm thanh của trống canh,
Trước vẻ đẹp tươi sáng vốn có với non nước.”
Khi đêm buông xuống, mọi vật đều chìm trong giấc ngủ, đây là lúc tâm hồn con người trở nên sâu sắc nhất, là thời khắc đối diện với chính mình. Đây cũng là khoảnh khắc mà con người thường có nhiều suy tư nhất, yếu đuối nhất và chân thành nhất. Từ từ 'vọng vẳng' đã gợi lên cho chúng ta một không gian rộng lớn, yên bình nhưng cũng trống trải, con người bỗng trở nên nhỏ bé, lạc lõng và cô đơn hơn. Câu thơ đầu của bài thơ đã đem lại nỗi buồn. Nỗi buồn bắt nguồn từ sự yên lặng của đêm khuya. Tiếng trống không gần (vọng vẳng) nhưng vẫn cảm nhận được nhịp điệu vội vã, hối hả, đó là vì tiếng trống gợi lên sự đi và của thời gian, gợi lên sự hủy hoại và nó được cảm nhận bằng tâm trạng. Chính vì thế mà trong nhịp điệu vội vã, liên tục của tiếng trống đang dồn ta nhưng nghe thấy cả bước đi vội vã của thời gian và sự rối bời trong tâm trạng của nhân vật trữ tình.
Cùng với tâm trạng cô đơn, người phụ nữ bỗng nhận ra sự thất bại trong số phận của mình “Trước vẻ đẹp tươi sáng vốn có với non nước.” “Vẻ đẹp tươi sáng” là vẻ đẹp của người phụ nữ. Nhưng đã được gọi là “vẻ đẹp tươi sáng” thì có nghĩa là vẻ đẹp ấy không còn nữa. Bởi từ “trước” đặt ở trước từ “vẻ đẹp tươi sáng” đã làm cho danh từ đó trở nên cụ thể hóa. Từ “trước” luôn làm cho sự vật trở nên cụ thể hơn, có thể chạm vào, sờ vào, ngửi thấy mùi của nó mà “vẻ đẹp tươi sáng” là một danh từ chỉ vẻ đẹp của dung mạo, thần thái, khí chất của người phụ nữ. Nhưng khi đặt từ “trước” trước đó, điều này ngụ ý rằng vẻ đẹp đó đã phai mờ, đã phai màu, đã không còn đẹp nữa. Phép đảo ngữ này như làm sâu sắc thêm vào sự thất bại của tâm trạng. “Trước” là sự thất bại, là sự mất đi, không còn cảm xúc. Tuy nhiên, cảm xúc này của nhân vật trữ tình không phải là cảm xúc phổ biến, vì nhà thơ đang đối diện với bản thân mình, với non nước. Cụm từ “với non nước” thể hiện nỗi lòng, tâm trạng của nhà thơ lan tỏa khắp nơi, trải rộng qua cảnh vật theo tầm mắt của nhà thơ. Nó không phải là cảm xúc thông thường, bé nhỏ. Ngược lại, nó là cảm xúc sâu lắng, thấu suốt cả cuộc đời, thấu suốt cả thế giới. Đó là lý do tại sao từ “trước” cũng thể hiện sự kiên nhẫn của nhân vật trữ tình. Từ “trước” kết hợp với “non nước” thể hiện sự kiên cường, sự đối mặt. Nó gợi lên cho ta hình ảnh một câu thơ của Bà Huyện Thanh Quan trong bài “Thăng Long thành hoài cổ”:
“Đá vẫn kiên cường bên cạnh tuế nguyệt”
Nếu hai câu đề đã giúp người đọc hiểu về tình trạng tâm lý thì hai câu chính xác hơn miêu tả về hoàn cảnh và tâm trạng của Hồ Xuân Hương:
“Ly rượu thơm ngát đưa say rồi tỉnh,
Ánh trăng lung linh nhưng chưa tròn.”
Nỗi buồn quá lớn khiến nhà thơ phải tìm đến rượu để giải tỏa. Cụm từ “say rồi tỉnh” như một vòng luẩn quẩn không lối thoát, cuộc say rồi tỉnh cũng giống như cuộc tình, chóng tàn để lại sự mệt mỏi, rời rạc. Vòng luẩn quẩn đó gợi lên một câu chuyện tình duyên như một trò đùa của số phận. Đứng trước vẻ đẹp của thiên nhiên rộng lớn, Hồ Xuân Hương mong nhận được sự an ủi và thông cảm. Tác giả sử dụng câu thơ tả cảnh ngụ tình để thể hiện sự đồng điệu giữa tâm trạng và bối cảnh. Bức tranh thiên nhiên cũng chia sẻ nỗi buồn của nữ thơ, thật sự:
“Khung cảnh nào cũng chứa đựng nỗi buồn
Người buồn thì sao có thể vui được bao giờ”
(“Truyện Kiều” – (Nguyễn Du))
Tại thời điểm đó, cụm từ “say lại tỉnh” cũng chỉ ra rằng việc say chỉ là một khoảnh khắc ngắn ngủi trong khi tỉnh lại lại kéo dài mãi mãi. Thậm chí, trước khi say, nỗi buồn đã đầy đặn nhưng khi tỉnh dậy, nỗi buồn đó lại tăng lên gấp bội. Tương tự như cảm giác của thiền sư Lí Bạch đã từng trải qua:
“Con dao chém xuống nước, dòng nước càng chảy mạnh,
Mang chén tiêu sầu, nỗi buồn càng trầm trọng”
Dịch:
“Rút dao chém xuống nước, dòng nước càng chảy mạnh hơn
Mang chén tiêu sầu, nỗi buồn càng trầm trọng hơn”
Quy luật của tình cảm con người chính là như vậy, nỗi buồn thường gắn liền với tâm trạng: “Nỗi buồn không có lối thoát để giải phóng/ Nỗi buồn không có nguyên nhân để tan biến”. Uống rượu có thể là cách nhà thơ Hồ Xuân Hương tìm kiếm sự an ủi nhưng cũng là cách để người đọc thấy rằng tâm trạng của nhà thơ đang rất buồn, đang đối mặt với bản thân mình, cô đơn và lạc lõng giữa đêm tĩnh mịch. Thi nhân đối diện với nỗi buồn bằng cách nhìn về ánh trăng. Tuy nhiên, Hồ Xuân Hương không cảm thấy thư thái khi nhìn thấy ánh trăng vì nhà thơ nhận ra rằng: “Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”. Trăng đã tàn, đã xuống khuyết cũng như tuổi đời của con người không còn trẻ trung nữa. Có thể thấy, nỗi buồn của nhà thơ được thể hiện qua cặp từ “say - tỉnh” và “khuyết - tròn” một cách chân thực nhất. Buồn vì tuổi đã cao mà duyên chưa đến, buồn vì cô đơn, lẻ loi một mình.
Đến với hai câu mở đầu, từ ngôn từ đến hình ảnh và giọng văn, cho chúng ta thấy phần nào tâm trạng phẫn uất, đau đớn tột cùng của tác giả:
“Bò ngang qua mặt đất, rêu phủ khắp nơi,
Một chuỗi động từ mạnh mẽ “bò, đâm” cùng với sự kết hợp của các từ bổ nghĩa “ngang, đâu” thể hiện sự bứt phá, phản kháng. Những sinh vật nhỏ bé, yếu đuối như “rêu” cũng không chịu khuất phục mà muốn “bò ngang qua mặt đất” để thể hiện sức mạnh. “Đá” vốn đã rắn chắc nhưng lại mong muốn trở nên cứng cáp hơn, nhọn hoắt hơn để có thể “đâm vào chân mây”. Sử dụng phép đảo ngữ nhấn mạnh rằng dù trong hoàn cảnh khó khăn nhất, vẫn tồn tại một khát vọng mạnh mẽ, muốn vượt lên trên thực tại đau buồn, thể hiện sự phản kháng dữ dội, quyết liệt. Với sự khéo léo trong việc sử dụng từ ngữ mạnh mẽ, hình ảnh sắc nét, và cảnh ngụ tình, hai câu thơ gợi lên cảnh vật sống động, đầy sức sống mãnh liệt. Sức sống bị đàn áp đã bắt đầu trỗi dậy mạnh mẽ giống như sự phản kháng của thiên nhiên cũng chính là sự phản kháng của con người.
Tuy nhiên, Xuân Hương dù có tư tưởng tiên tiến nhưng trong thực tế vẫn không thể vượt qua thân phận của mình. Do đó, những hành động phản đối, ngông cuồng, dù có táo bạo thế nào cũng chỉ là những đợt sóng dữ dội giữa ranh giới của ngôn từ. Nhà thơ chấp nhận số phận của mình bằng một tiếng thở dài đầy ngao ngán:
“Chán nản với sự thay đổi của thời gian,
Trái tim tan nát từng chút một”
Mùa xuân của vũ trụ, đất trời có thể tuần hoàn trở lại nhưng xuân của đời người thì mãi mãi không bao giờ có thể. Vì vậy, sự trở lại của xuân trên đất trời khiến con người cảm thấy vô nghĩa và buồn tủi. Dù cố gắng đến mức nào, mảnh tình của họ vẫn không trọn vẹn, chỉ là “san sẻ” một chút nhỏ nhoi. Từ “lại lại” không phải là từ láy mà là hai từ đơn hoàn toàn tách biệt. Từ “lại” đầu tiên là phó từ để nhấn mạnh mong muốn sự lặp lại của một sự việc, còn “lại” thứ hai là động từ chỉ sự hướng trở lại. Xuân Hương dùng từ “mảnh tình” thay vì “tấm tình” hay “cuộc tình”, cho thấy sự mong manh, nhỏ bé của hạnh phúc đến đắng cay, đáng thương.
“Tự tình II” được coi là một kiệt tác của Hồ Xuân Hương với ngôn ngữ thơ đẹp, thể hiện sự thất ngôn bát cú gần gũi hơn với người Việt. Bài thơ bộc lộ tài năng và phong cách của nữ sĩ thông qua từ ngữ sắc sảo, hình ảnh sâu sắc, và giá trị biểu cảm đa chiều. Tác giả khéo léo sử dụng các thủ pháp ngôn từ, hình ảnh phong phú, và động từ mạnh mẽ để thể hiện sự thương cảm với phụ nữ và khẳng định vẻ đẹp và khát vọng của họ khi đối mặt với áp lực của xã hội phong kiến.
Khát khao hạnh phúc bao nhiêu thì hiện thực trả về càng buồn tủi bấy nhiêu, khát vọng hạnh phúc càng trở nên buồn tủi, đáng thương. Câu hỏi lớn mà Hồ Xuân Hương đặt ra là: Tại sao phụ nữ luôn phải chịu bất hạnh và thiệt thòi? Tại sao họ không được hưởng hạnh phúc một cách công bằng? Câu hỏi này làm nổi lên nỗi đau lòng trong bài thơ và là cách gián tiếp chỉ trích xã hội phong kiến và đòi quyền hạnh phúc cho phụ nữ. Để trả lời câu hỏi này trong thời đại hiện nay, cần phải khẳng định rằng phụ nữ chỉ thực sự hạnh phúc khi họ tự tạo ra hạnh phúc cho bản thân mình mà không phụ thuộc vào người khác.
Kết thúc trang sách ở đây, ta nhớ đến lời của giáo sư Lê Trí Viễn: “Thơ của Hồ Xuân Hương là tiếng nói tâm tình của phụ nữ, thể hiện một bản lĩnh sống mạnh mẽ khác thường”. Thực sự, hồn thơ của bà đã cho độc giả cảm nhận được sự tàn bạo của xã hội phong kiến và nỗi đau của phụ nữ. Bằng cách này, bài thơ đã thể hiện được giá trị thực tế và lòng nhân đạo sâu sắc của một nhà thơ “phụ nữ viết về phụ nữ”.
Phân tích Tự tình 2 hay nhất - Mẫu 2
Thơ là ngôn ngữ của trái tim, là nơi dừng chân của tâm hồn thi sĩ, phản ánh cuộc sống và xã hội để người nghệ sĩ thể hiện nỗi lòng. Mỗi bài thơ như một tiếng hát của trái tim, một tác phẩm nghệ thuật cao quý, tinh tế. Hồ Xuân Hương, với tư cách là “bà chúa thơ Nôm”, đã mang “tiếng lòng” của mình và của phụ nữ xã hội xưa vào thơ ca. Bài thơ của bà, như “Tự tình II”, đã thể hiện tâm trạng buồn bã và phẫn uất trước số phận éo le và khát vọng hạnh phúc trong tâm hồn nhà thơ.
Bài thơ “Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn, Trơ cái hồng nhan với nước non” thể hiện sự cô đơn và bất lực của người phụ nữ trước thời gian và vận mệnh. Tiếng trống canh vang lên là âm thanh của thời gian đang trôi qua với tốc độ gấp gáp, gợi lên nỗi buồn của nhà thơ trong cô đơn của đêm khuya.
“Tự tình II” trong bộ thơ Tự tình của Hồ Xuân Hương đã viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật, nhưng bằng chữ Nôm, thể hiện suy nghĩ và tâm hồn người Việt. Bài thơ hé mở nỗi lòng của tác giả và mang đậm dấu ấn văn hóa dân tộc.
Bài thơ “Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn, Trơ cái hồng nhan với nước non” thể hiện sự cô đơn và bất lực của người phụ nữ trước thời gian và vận mệnh. Tiếng trống canh vang lên là âm thanh của thời gian đang trôi qua với tốc độ gấp gáp, gợi lên nỗi buồn của nhà thơ trong cô đơn của đêm khuya.
Bài thơ “Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn, Trơ cái hồng nhan với nước non” thể hiện sự cô đơn và bất lực của người phụ nữ trước thời gian và vận mệnh. Tiếng trống canh vang lên là âm thanh của thời gian đang trôi qua với tốc độ gấp gáp, gợi lên nỗi buồn của nhà thơ trong cô đơn của đêm khuya.
“Chén rượu thơm bay làm say tỉnh lại,
Vầng trăng nhạt nhòa chưa tròn bóng.”
Trong hai câu thơ đề, nhà thơ tài ba đã tái hiện một không gian đêm khuya tĩnh lặng. Ở thời điểm này, khi tâm hồn vẫn chưa thể yên giấc, chắc chắn có những lo âu. Như một thách thức với số phận, nhà thơ sử dụng rượu để quên đi nỗi buồn. Cụm từ “say tỉnh lại” như một vòng lặp, cho thấy sự phức tạp, khi cảm xúc mơ hồ giữa say và tỉnh, giữa niềm vui và nỗi buồn. Bằng cách mô tả cảnh vật tự nhiên, như vầng trăng sáng nhạt chưa hoàn hảo, nhà thơ truyền đạt tâm trạng đắng cay của mình trong bài thơ.
Từ hình ảnh “vầng trăng”, nhà thơ dần chuyển sang mô tả tâm trạng:
“Ngang ngược mặt đất, rêu phủ đầy,
Đâm mạnh vào chân mây, đá gặp hòn.”
Hai câu thơ tả cảnh được truyền đạt thông qua tâm trạng và niềm phẫn nộ của con người. Những sinh vật nhỏ nhặt như đám rêu cũng không nhượng bộ, mà phải ngang ngược trên mặt đất, biểu hiện sức mạnh và sự đối đầu. Đá vẫn cứng rắn, đâm mạnh vào chân mây, gặp hòn, mô tả sự mạnh mẽ và quyết đoán. Sự đảo ngữ trong hai câu thơ làm nổi bật sự phản kháng của cây cỏ, cũng như sự phản kháng trong tâm trạng. Những động từ mạnh mẽ như “ngang ngược”, “đâm” kết hợp với từ ngữ như “rêu phủ đầy”, “đá gặp hòn” thể hiện sự mạnh mẽ và quyết đoán của con người. Đó là phong cách của Xuân Hương, không chấp nhận số phận đau đớn, muốn vươn lên bằng sức mạnh của bản thân. Với việc sử dụng từ ngữ và hình ảnh mạnh mẽ, hai câu thơ đã tạo ra cảnh vật sống động, đầy sức mạnh, phản ánh tâm hồn đầy khao khát của nhà thơ.
“Chán nản trước cuộc đời chồng chất mùa xuân,
Tình yêu chỉ còn lại một chút phận phận.”
Ở hai câu cuối, Hồ Xuân Hương đã thể hiện hết nỗi đắng cay của cuộc sống. “Chán nản” bày tỏ sự chán chường trước những biến động của số phận, của thời gian. Từ “xuân” ở đây có ý nghĩa kép, là mùa xuân và là tuổi thanh xuân. Mùa xuân đi qua lại trở về, nhưng tuổi thanh xuân thì không bao giờ quay lại. Hai từ “lại” trong “xuân đi xuân lại lại” mang hai ý nghĩa khác biệt. Từ “lại” đầu tiên chỉ sự lặp lại, từ “lại” thứ hai chỉ sự trở lại. Sự trở lại của mùa xuân đồng nghĩa với việc tuổi thanh xuân phải trôi đi. Sử dụng thủ pháp ngôn ngữ tinh tế, nhấn mạnh sự nhỏ bé, làm cho bức tranh càng thêm bi thương. “Tình yêu” đã nhỏ bé lại chỉ còn “một chút phận phận” nên càng thêm xót xa, tội nghiệp. Câu thơ kết thúc với nỗi đau, mỉa mai đến sự tội nghiệp của “cái hồng nhan” trong xã hội phong kiến xưa. Đó là nỗi lòng của người phụ nữ gặp nhiều khó khăn, đau buồn, nhưng vẫn kiên trì và mạnh mẽ.
Trái tim của Xuân Hương thức dậy để đồng điệu với những tâm hồn phụ nữ. Dù thời gian đã qua đi, tâm hồn và bài học của bà vẫn sống mãi trong thế hệ sau. Đó là bài học về việc vượt qua khó khăn, chiến thắng cả những nỗi đau. Cuộc đời của Xuân Hương có thể đã trải qua nhiều biến cố, nhưng tâm hồn của bà vẫn giữ lại hy vọng và niềm tin vào hạnh phúc và tình yêu.
Tự tình II là bài thơ thể hiện sự thổ lộ, sự bộc bạch của một người phụ nữ gặp nhiều khó khăn trong tình yêu nhưng vẫn khao khát có một tình yêu đích thực, xứng đáng với tình cảm của mình. Đặc điểm nổi bật của bút pháp của bà là tài năng thi ca, với việc sử dụng nghệ thuật lấy động tả tĩnh, thủ pháp tả cảnh ngụ tình, dùng động từ mạnh kết hợp với đảo ngữ và các từ láy càng làng để làm sâu sắc, thấm nhuần tâm trạng và cảm xúc của người phụ nữ.
Những hình ảnh giản dị với tâm trạng uất ức, xót xa cho số phận bi thảm và cũng là bi kịch, khao khát hạnh phúc của Xuân Hương nói riêng và của phụ nữ nói chung. Bài thơ truyền tải ý nghĩa nhân văn sâu sắc: Dù sống trong hoàn cảnh khắc nghiệt nhưng con người vẫn cố gắng vươn lên, thay đổi số phận, mong muốn một cuộc sống tốt đẹp hơn. Tự tình II mà Xuân Hương để lại sẽ vẫn có giá trị đến muôn đời. Thật sự, Xuân Hương xứng đáng với danh hiệu “Bà chúa thơ Nôm” khi để lại cho thế hệ sau những tác phẩm vĩ đại.
Phân tích Tự tình - Mẫu 3
Vai trò giản dị của phụ nữ trong xã hội truyền thống là một đề tài phổ biến trong văn học cũng như văn hóa hiện đại. Tình yêu và hạnh phúc gia đình luôn là mối quan tâm lớn của văn học từ xưa đến nay, thể hiện tinh thần nhân đạo trong nền văn hóa. Bài thơ Tự tình là một trong những ví dụ điển hình về vai trò của phụ nữ trong văn học Việt Nam, qua bàn tay của Hồ Xuân Hương.
Một người phụ nữ đơn côi giữa đêm tối im lặng nghe tiếng trống canh báo thời gian trôi qua. Đêm canh là khoảnh khắc từ nửa đêm đến sáng sớm. Cô cảm nhận tiếng trống canh như một cảnh báo về thời gian đang trôi đi mong chờ điều gì đó. Nhưng mong chờ càng lớn lại càng không có gì. Tiếng trống canh đang vang dội là dấu hiệu của thời gian đang lặng lẽ trôi qua, thể hiện nỗi chờ đợi lo lắng, thiếu tự tin, đầy lo sợ và tuyệt vọng của người phụ nữ.
Hồ Xuân Hương miêu tả tâm trạng cô đơn của người vợ trong việc chờ đợi chồng mà chồng không đến, chỉ để lại từ 'trơ' - trơ trọi, trơ cái hồng nhan, trơ phận phụ nữ với cả nước non, với cuộc sống, với tình yêu.
Ở hai câu tiếp theo, Hồ Xuân Hương diễn tả tâm trạng tuyệt vọng của người vợ khi chờ đợi chồng.
Câu thơ giấu ý chỉ hành động và tình trạng diễn ra. Chén rượu mang nghĩa là uống để quên nỗi sầu của cuộc sống, nhưng sau khi say tỉnh, vẫn còn đau khổ!
Trăng gần tàn trong câu thứ tư, nhưng vẫn chưa tròn, thể hiện sự hạnh phúc chưa đầy đủ. Vầng trăng bóng xế cũng có thể ám chỉ tuổi già mà hạnh phúc chưa trọn.
Nếu bốn câu đầu diễn tả sự chờ đợi mệt mỏi, tuyệt vọng, thì ở hai câu sau, Hồ Xuân Hương bất ngờ vẽ ra một cảnh tượng khác. Rêu trên đất được trăng chiếu xiên ngang, đá bên dưới được ánh trăng đâm vỡ mây soi sáng. Đây có thể chỉ là hình ảnh trong tâm tưởng, nhưng tạo ra một cảm giác bức bối, muốn phá vỡ sự cô đơn, chán nản. Đó là cá tính mạnh mẽ, táo bạo của Hồ Xuân Hương.
Rêu từng đám xiên ngang mặt đất,
Đá mấy hòn đâm vỡ chân mây.
Hai câu này cũng có thể hiểu là đảo ngữ: rêu từng đám xiên ngang mặt đất, còn đá mấy hòn đâm vỡ chân mây. Đây không chỉ là hình ảnh ngoại cảnh, mà còn là biểu hiện của tâm trạng muốn giải thoát khỏi cảm giác cô đơn, chán chường, thể hiện tính cách mạnh mẽ, táo bạo của Hồ Xuân Hương.
Những dồn nén, bức bôi, đập phá của tâm trạng nhà thơ bất ngờ bộc phát, và cũng bất ngờ lắng dịu, nhường chỗ cho sự trở lại của nỗi buồn chán và bất lực, chấp nhận và cam chịu. Câu thơ Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại chứa đựng biết bao nhiêu là thời gian và sự chán nản kéo dài. Cuộc đời cứ trôi đi, thời gian cứ trôi đi, tình yêu và hạnh phúc thì chỉ được hưởng tí chút. Tác giả đã đi, tình yêu mà hạnh phúc thì chỉ được hưởng tí chút. Tác giả đã dùng từ mảnh tinh để nói cái tình bé như mảnh vỡ. Lại nói san sẻ - Chắc là san sẻ với chồng, san sẻ với vợ cả chăng? Hai câu thơ cuối khép lại bài thơ, như một tổng kết, như một lời than thở thầm kín của người phụ nữ có số phận lẽ mọn về tình yêu và hạnh phúc lứa đôi không trọn vẹn trong xã hội xưa.
Bài thơ là lời than thở cho số phận hẩm hiu của người phụ nữ chịu cảnh lẽ mọn, thể hiện thái độ bi quan, chán nản của tác giả và thân kiếp thiệt thòi của con người.
Đặc sắc nhất về nghệ thuật của bài thơ là sử dụng những từ ngữ và hình ảnh gây ấn tượng mạnh. Tác giả chủ yếu sử dụng các từ thuần Việt giàu hình ảnh, màu sắc, đường nét với sắc thái đặc tả mạnh, bằng những động từ chỉ tình thái: dồn, trơ, xế, xiên ngang, đâm toạc, đi, lại lại, san. sẻ, ... và tính từ chỉ trạng thái: say, tỉnh, khuyết, tròn... để miêu tả những cảm nhận về sự đời và số phận.
Hình ảnh trong bài thơ gây ấn tượng rất mạnh bởi nghệ thuật đặc tả. Nhà thơ thường đẩy đối tượng miêu tả tới độ cùng cực của tình trạng mang tính tạo hình cao. Nói về sự cô đơn, trơ trọi đến vô duyên của người phụ nữ thì: Trơ cái hồng nhan với nước non. Mấy chữ xiên ngang, đâm toạc đều là những hành động mạnh mẽ như muốn tung phá, đầy sức sống thể hiện những cảm xúc trẻ trung.
Tác phẩm trình bày một cách nghệ thuật mối mâu thuẫn giữa khát vọng hạnh phúc lứa đôi trọn vẹn của người phụ nữ trong cảnh lẽ mọn với hiện thực phũ phàng là sống trong cô đơn, mòn mỏi mà họ phải chịu đựng, giữa mong ước chính đáng được sống trong hạnh phúc vợ chồng với việc chấp nhận thân phận thiệt thòi do cuộc sống đem lại.
Bài thơ thể hiện lòng cảm thông sâu sắc của tác giả đối với nỗi khổ đau của người phụ nữ, lên án mạnh mẽ chế độ đa thê trong xã hội phong kiến, đồng thời thể hiện sự bất lực và sự chấp nhận của con người trước cuộc sống hiện tại.
Bài thơ diễn đạt một cảm xúc đáng thương, một số phận đáng cảm thông, một khát vọng đáng quý, một tâm trạng xứng đáng được chia sẻ của người phụ nữ trong xã hội xưa. Những ước mơ hạnh phúc đó là hoàn toàn chính đáng nhưng không thể thực hiện được trong điều kiện xã hội lúc bấy giờ, đó là bi kịch không thể giải thoát. Do đó, giọng điệu của bài thơ vừa đầy tiếc nuối vừa đầy oán trách. Yêu cầu giải phóng con người, giải phóng tình cảm chỉ có thể được thực hiện dựa trên nền tảng của những điều kiện lịch sử - xã hội mới.
Phân tích bài thơ Tự tình - Mẫu 4
Kho tàng văn học Việt Nam ghi dấu ấn của nhiều nhà văn, nhà thơ với các quan điểm sáng tạo và phong cách nghệ thuật đa dạng và độc đáo. Trong số đó, không thể không nhắc đến nữ thi sĩ Hồ Xuân Hương với bản tính mạnh mẽ và trái tim khát khao tình yêu. Tài năng của bà được thể hiện rõ qua bài thơ Tự tình 2 từ tập thơ cùng tên.
Bài thơ mở đầu với bối cảnh thời gian và không gian, lộ ra tâm trạng của nữ thi sĩ:
Đêm khuya, tiếng trống canh vọng lại vang vọng,
Trơ cái hồng nhan giữa vùng quê vắng vẻ
Thời gian trôi vào đêm khuya, khi mọi vật đều chìm trong bóng tối, không gian trở nên im lặng, đủ để nghe thấy tiếng trống canh vọng lại từ xa xôi. Âm thanh 'vang vọng' phản xạ từ một khoảng cách xa xôi, nhưng chỉ nghe thấy thoáng qua gió thổi và người nghe phải lắng nghe rất kỹ mới cảm nhận được. Từ 'cái' đặt trước 'hồng nhan' làm mất đi giá trị của hai từ này. Hồng nhan nhưng lại là 'cái hồng nhan' ẩn chứa sự khinh miệt, thể hiện rõ ý thức của người phụ nữ. Trước 'cái hồng nhan' là tính từ 'trơ', chỉ trạng thái lẻ loi, không nơi nương tựa. Trong không gian yên bình của đêm tối, khi mọi thứ đều yên bình, lẻ loi ở đây vẫn còn nhiều nỗi lòng, nhiều tâm sự đối lập với vẻ rộng lớn của bóng đêm.
Tiếp nối không gian và thời gian là hình ảnh của người phụ nữ lẻ loi:
Chén rượu hương đưa, say mà lại tỉnh,
Vầng trăng bóng xế tối chưa tròn
Thường thì con người tìm đến rượu khi họ cảm thấy đau khổ, bế tắc, thất vọng để nó trở thành một loại thuốc an ủi tâm hồn, nhưng cuối cùng, nữ thi sĩ vẫn không thể tránh khỏi hiện thực đau đớn của mình. Cụm từ 'say mà lại tỉnh' gợi lên một vòng luẩn quẩn. Để mô tả về vầng trăng, Hồ Xuân Hương sử dụng ba cụm từ: bóng xế, tối chưa tròn. Cả ba từ này đều diễn tả về một vầng trăng không trọn vẹn. Điều này gợi nhớ đến số phận éo le của nữ thi sĩ, làm cho tâm sự của nhân vật trở nên sâu sắc hơn và đầy ẩn chứa.
Hai câu thơ thực sự là những hình ảnh độc đáo và rất cá tính, khác biệt của tự nhiên:
Rêu mọc xiên ngang đất, từng đám chắc chắn,
Đá đâm toạc chân mây, mấy hòn vững vàng
Đám rêu phải mọc xiên ngang mặt đất. Đá đã rắn chắc, càng phải trở nên vững vàng hơn để vượt lên “đâm toạc chân mây”. Biện pháp nghệ thuật đảo ngữ trong hai câu thơ làm nổi bật sự phẫn uất của thân phận đất đá cỏ cây, cũng là sự phẫn uất của tâm trạng. Những động từ mạnh mẽ “xiên”, “đâm” được kết hợp với bổ ngữ “ngang”, “toạc” độc đáo thể hiện sự bướng bỉnh, ngang ngạnh như một lời thách thức những khó khăn, cay đắng trong cuộc sống của nhân vật trữ tình.
Kết thúc bài thơ là tâm tình, thái độ của nữ thi sĩ trước số phận bất hạnh:
Chán nản với mùa xuân đi và lại về,
Mảnh tình chia sẻ nhỏ bé!
Ngán, nỗi chán ngán, ngán ngẩm cuộc sống khốn khó, đầy bạc bẽo, với thế cục xoay vần của tự nhiên mà mình vẫn đơn độc. 'Xuân' không chỉ là mùa xuân mà còn là tuổi xuân. Mùa xuân quay vòng theo tự nhiên nhưng tuổi xuân của con người đã qua đi thì không bao giờ trở lại. Hai từ “lại lại” vang vọng nỗi cô đơn, tạo ra sự đối lập giữa con người và tự nhiên, làm cho tình huống trở nên khốn khổ hơn. Một “mảnh tình” đã rất bé nhỏ và giờ đây trở thành “san sẻ” chỉ còn “tí con con”. Điều đó đối với một người thông thường đã là ít, nhưng với một người mạnh mẽ như Hồ Xuân Hương, lại càng khó chấp nhận. Từ đây, ta cũng thấy được ý thức, cá tính mạnh mẽ của Hồ Xuân Hương khiến tình cảnh trở nên thêm đau đớn, xót xa và đáng thương.
Bài thơ làm lộ tâm tư, tình cảm của phụ nữ trong xã hội xưa đối diện với số phận bất công của mình. Qua bài thơ, ta hiểu và đồng cảm với hoàn cảnh của họ, đồng thời trân trọng những giá trị mà chúng ta đang có ngày nay. Bài thơ đã làm phong phú văn học Việt Nam và giúp tên tuổi của Hồ Xuân Hương trở nên gần gũi hơn với độc giả.
Phân tích bài Tự tình - Mẫu 5
Phận đàn bà đầy đau đớn
Nhưng lời rằng bạc mệnh là điều chung
Lâu nay, thân phận của phụ nữ trong xã hội đã liên kết với sự bèo bọt, trôi nổi, bất hạnh. Chắc hẳn, ai cũng đã khóc thương cho nàng Kiều tài hoa nhưng đầy bạc mệnh, đã cảm thấy đau lòng vì Vũ Nương và nỗi oan khuất không lời của mình. Và giờ đây, khi ta đọc tác phẩm “Tự tình 2” của Hồ Xuân Hương, ta cảm thấy thêm xót xa cho số phận trôi nổi của phụ nữ trong xã hội xưa. Bài thơ chứa đựng những tâm trạng sâu thẳm của nữ thi sĩ.
Với hình thức thơ Thất ngôn bát cú Đường luật được viết bằng ngôn ngữ Nôm thuần Việt, có thể nữ sĩ đã sáng tác về cuộc đời của chính mình, trong một khoảnh khắc suy tư. Bà cảm nhận cuộc sống qua âm thanh, cảnh vật lạnh lẽo, vắng vẻ và cảm thông với số phận cô đơn của mình. Điều này cũng là số phận chung của phụ nữ trong xã hội hiện đại.
Giữa đêm khuya, tiếng trống canh vẫn vọng vang,
Chân mây vẫn bước đi, hồng nhan vẫn trơ với vẻ đẹp hoang sơ
Hai dòng thơ đầu tiên còn được gọi là dòng đề trong thể thơ độc đáo này. Khi nhắm mắt suy tư về cuộc sống, người phụ nữ nghe nhịp thở trong đêm khuya tan đi theo tiếng trống canh dồn, thể hiện sự trôi qua nhanh chóng của thời gian. Đêm nay, cô đơn, lẻ loi. Không tiếng vang nào khác, chỉ tiếng trống canh cùng người phụ nữ. Từ “trơ” - biểu hiện sự cô đơn và sự đối lập với vẻ đẹp của 'hồng nhan' và 'nước non'. Nữ sĩ Hồ Xuân Hương muốn diễn đạt thân phận không chỉ của mình mà còn của phụ nữ khác trong xã hội cổ truyền.
Bước qua hai dòng thơ tiếp theo, cũng là hai dòng thực, liệu chúng ta có cảm nhận được điều gì sáng sủa hơn, tươi đẹp hơn hay không?
Chén rượu thơm mời gọi, say lại tỉnh,
Vầng trăng mờ nhạt, chưa tròn đầy
Trong không gian tĩnh lặng, bầu trời đêm vắng vẻ, người phụ nữ tìm đến chén rượu để trút bớt nỗi buồn của cuộc sống. Sử dụng nghệ thuật 'Mượn cảnh ngụ tình' trong hai dòng thơ này rất độc đáo. Chúng ta cảm nhận được sự trầm buồn của cuộc sống, nỗi đau của sự cô đơn và sự tiêu tan của mơ mộng.
Trong lúc suy tư, với những người trẻ tuổi, ánh trăng là biểu tượng của hạnh phúc, còn đối với người phụ nữ, ánh trăng là dấu hiệu của sự suy tư. Hai dòng thơ luận đã đánh thức người đọc khỏi suy tư về nỗi đau của phụ nữ trong xã hội cổ đại.
Mặt đất phủ đầy rêu,
Đá vươn cao, mây trôi
Người phụ nữ nhìn lên bầu trời đêm, quan sát những sự vật xung quanh. Điều đó đã đánh thức người đọc ra khỏi tâm trạng u uất của người phụ nữ trong bóng tối, để cảm nhận sự mạnh mẽ và sự sống mãnh liệt của thiên nhiên.
Dường như cuộc đời đang mở ra một cánh cửa mới cho phụ nữ trong xã hội phong kiến, nhưng nữ sĩ Hồ Xuân Hương đã nhắc nhở chúng ta về hiện tại đắng cay của cuộc sống, qua hai dòng thơ kết của bài thơ.
Ngán nỗi xuân qua lại,
Mảnh tình chút con con!
Tâm trạng mong chờ của người phụ nữ trỗi dậy mỗi khi bắt đầu một ngày mới. Thời gian luôn trôi đi theo một hướng, không bao giờ quay lại. Mùa xuân đến rồi đi, mỗi ngày đều mang một điều mới mẻ. Người phụ nữ vẫn hi vọng vào một tình yêu trọn vẹn, một hạnh phúc thực sự, nhưng thất vọng khi thấy tình cảm nhỏ bé và tan nát dần đi.
Có lẽ khi đọc đến đây, chúng ta mới hiểu được nỗi đau của những người phụ nữ hi sinh cho gia đình, hoặc những số phận khốn khổ trong xã hội. Tuy nhiên, cũng có những người phụ nữ được sống trong hạnh phúc, được yêu thương, quan tâm, dù cuộc sống có đầy gian khó. Điều này đã được thể hiện trong thơ của Tú Xương với bài thơ “Thương vợ”.
“Tự tình 2” là tiếng lòng chân thành của Hồ Xuân Hương, thể hiện sự u buồn kết hợp với hy vọng và khao khát hạnh phúc. Qua hàng thế kỷ, tác phẩm vẫn ghi dấu sâu trong tâm trí người đọc.
Phân tích bài thơ Tự tình - Mẫu 6
Trong tập thơ của Hồ Xuân Hương, bài thơ “Tự tình” nổi bật với tâm trạng buồn bã, cô đơn của người phụ nữ, luôn tìm kiếm tình yêu nhưng lại gặp phải sự thất vọng.
Sinh ra và lớn lên trong thời kỳ đầy sóng gió, Hồ Xuân Hương chứng kiến sự thay đổi trong xã hội và phải đối mặt với những bi kịch trong cuộc đời. Bài thơ “Tự tình” phản ánh tâm trạng của bà thông qua cảnh khuya buồn và cô đơn.
Câu thứ hai của bài thơ tận dụng hình ảnh đêm tối vắng vẻ để thể hiện tâm trạng của người phụ nữ:
“Trơ cái hồng nhan với nước non”
Từ “trơ” giúp nhà thơ diễn tả sự cô đơn, lẻ loi của người phụ nữ, nhấn mạnh vào nỗi buồn của bà khi phải đối diện với thực tại khắc nghiệt.
“Chén rượu đưa hương, say lại tỉnh”.
Câu thơ của nữ sĩ gợi nhớ một câu thơ đầy ý nghĩa của Lí Bạch:
“Gươm chém nước, nước vẫn không ngừng
Uống rượu xua tan buồn phiền, buồn vẫn còn”
Bất lực, câu thơ dịch chuyển sang một cảnh tượng đau lòng. Hồ Xuân Hương miêu tả:
“Vầng trăng bóng xế chưa tròn đủ”
Trong quan điểm thẩm mỹ cổ, vầng trăng đại diện cho cuộc sống, tuổi thọ của người phụ nữ. Câu 'Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn' không chỉ là một hình ảnh đẹp mắt mà còn mang theo nỗi buồn sâu thẳm của một “vầng trăng không tròn”. Đối với thơ cổ, cảnh là tình, vầng trăng khuyết đem lại sự u sầu, kỷ niệm về cuộc đời bà. Trong bài “mời trầu”, bà đã ẩn chứa ý nghĩa đó.
Đến câu 5, 6, bố cục thơ bất ngờ chuyển đổi. Sự cụ thể trong miêu tả khiến cho việc diễn tả cảnh trở nên trong trẻo. Một cảnh vật chân thực đến từng chi tiết:
'Rêu trải mặt đất ngang ngửa xiên,
Chân mây bước đến đá mấy đàn”
Nghệ thuật chơi chữ và sự tương phản tạo ra hình ảnh sống động và sinh động. Một sinh khí tràn đầy nhờ vào sự quan sát tinh tế của bà như việc chế ngự, trải nghiệm. Cảnh này chỉ có thể thuộc về 'Bà chúa thơ nôm' mà không phải ai khác. Rõ ràng, mặc dù đang chịu đựng sự buồn rầu và cô đơn, nhưng điều đó không làm giảm đi bản chất của Hồ Xuân Hương. Tinh thần mạnh mẽ, sự sống mãnh liệt và niềm khát khao với cuộc sống khiến cho dù bà đầy nỗi buồn, bà vẫn nhìn nhận cuộc sống với ánh mắt yêu thương, sự quý trọng, và niềm tin sâu sắc vào cuộc sống. Đó là lý do tại sao những phản đối và sự tương phản trong bản chất của bà tạo nên những vần thơ châm biếm và trái ngược. Cách sử dụng vũ khí ấy vượt xa hơn so với chén rượu “say lại tỉnh”. Đó là công cụ kỳ diệu đỡ đầu cho tâm hồn của bà. Chỉ như vậy mới có thể hiểu được tâm trạng, tiếng thở dài của Hồ Xuân Hương, như ở hai câu thơ cuối:
“Chán chường xuân đi, xuân lại đi,
Tình thắm chia sẻ từng chút một!”.
Yêu cuộc sống là như thế, sức sống mãnh liệt là như thế nhưng cuộc sống của mỗi người vẫn: “Xuân đi xuân lại lại.”, điều này chỉ ra sự lặp lại đau đớn và vô vị của thời gian, cuộc sống. Điều này làm cho bà không thể tránh khỏi một tiếng thở dài đầy chua xót. Càng đau lòng hơn khi giữa vòng lặp thời gian đó là một “mảnh tình” đang bị mất đi, chia sẻ lại... sự xới lật. Đối với trái tim chân thành với cuộc sống kia, điều đó như một vết thương, đau đớn.
Người ta thường nói rằng thơ là cảm xúc, là một thông điệp về vẻ đẹp. Đọc “Tự tình”, là hiểu được tâm trạng bi kịch của Hồ Xuân Hương. Là một con người luôn khao khát hạnh phúc, là một tâm hồn tràn đầy sức sống, yêu cuộc sống nhưng lại gặp phải nhiều khó khăn, bất hạnh, điều đó khiến trong thơ bà có lúc là một tiếng thở dài. Một tiếng thở dài có ý nghĩa quý báu của một người có ước mơ nhưng không thể thực hiện được, trách nhiệm thuộc về xã hội phong kiến, một xã hội mà hạnh phúc cá nhân luôn đối lập với cấu trúc xã hội chung. Trong ngữ cảnh đó, “Tự tình' là một bài thơ yêu cầu quyền lợi hạnh phúc, một lời phản đối đặc biệt mang theo tiếng nói bảo vệ của người phụ nữ, tạo ra sự hiểu biết, đồng cảm với những hoàn cảnh khó khăn, gian truân.
Phân tích Tự tình - Mẫu 7

Hồ Xuân Hương, một nhà thơ nổi tiếng của văn học Việt Nam, được biết đến với tên Bà chúa thơ Nôm. Những bài thơ của bà tập trung vào việc mô tả người phụ nữ với sự nhận thức sâu sắc về vẻ đẹp ngoại hình và tâm hồn. Nhưng đằng sau những bài thơ đó là nỗi đau về vị thế bị coi thường. Nỗi đau ấy được thể hiện trong nhiều bài thơ của bà, và một trong những bài thơ đó không thể không nhắc đến là Tự tình II.
Văn bản nằm trong tập thơ Tự tình bao gồm ba bài. Cả ba bài đều thể hiện một cách nhất quán nỗi tự thương mình trong tình cảnh cô đơn, trống rỗng và mong ước hạnh phúc vợ chồng mãnh liệt. Những bài thơ cũng thể hiện sự nỗ lực, cố gắng để tìm kiếm hạnh phúc cho bản thân, nhưng cuối cùng vẫn phải đối mặt với thất bại đắng cay.
Trước hết, thân phận của người phụ nữ trong bài thơ được thể hiện đầy đau lòng, họ nhận thức về số phận của mình, nhận thức về việc tuổi thanh xuân trôi đi nhanh chóng mà hạnh phúc gia đình vẫn chưa được hoàn thiện:
Đêm khuya vắng vẻ, tiếng trống vọng lại
Đối diện với sự trống trải vẻ đẹp với thiên nhiên.
Chén rượu đưa hương, say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế chưa tròn.
Trong đêm khuya yên bình, mọi vật trở về trạng thái yên lặng, tiếng trống “vắng vẻ” nghe thêm da diết, ám ảnh hơn, nó như đẩy người phụ nữ về sự trôi qua của thời gian, của tuổi trẻ. Câu thứ hai diễn tả sự lạc lõng, cô đơn của những người phụ nữ trong không gian vắng vẻ đó. Từ “lạc lõng” được đặt ở đầu câu càng làm nổi bật hơn vào thân phận không may của họ. Từ “hồng nhan” trước đây được hiểu là vẻ đẹp của phụ nữ. Nhưng đến thế kỉ XVIII, “hồng nhan” thường kèm theo ý nghĩa của sự không may: để diễn tả số phận không tốt của người phụ nữ trong xã hội phong kiến: “Rằng hồng nhan tự thuở xưa/ Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu” hay “Hồng nhan quen thói má hồng đánh ghen”. Trong bài thơ này, Hồ Xuân Hương sử dụng từ “hồng nhan” để chỉ sự hồng nhan không may mắn, miêu tả nỗi đau buồn trước thân phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Trong nỗi đau của người hồng nhan không may mắn, nhân vật trìu mến tìm đến rượu để quên, tìm đến trăng để tìm kiếm sự đồng hành nhưng chén rượu uống vào muốn say mà lại càng tỉnh, nhìn trăng lại càng nhận ra rõ thân phận không may của mình. Trăng sắp tàn mà vẫn còn khuyết, cũng giống như con người thanh xuân sắp qua mà tình cảm vẫn còn mập mờ, rối ren.
Bốn câu thơ đầu tiên, khung cảnh mang màu sắc của tâm trạng của nhân vật trìu mến, kết hợp với phương pháp tương phản: một bên là con người cô đơn, yếu đuối với một bên là không gian bao la của thiên nhiên, vũ trụ (hồng nhan/ nước non), thời gian đêm lặng im, vắng vẻ, lạnh lùng với sự nhỏ bé của người phụ nữ (vầng trăng, tiếng trống); rượu không thể làm cho con người phê phán, say lại tỉnh,… tất cả những yếu tố đó đã góp phần làm nổi bật sự cô đơn, buồn bã của nhân vật trữ tình – người phụ nữ.
Không chỉ thế, người phụ nữ còn nhận thức về hạnh phúc và nỗi đau của mình. Ý thức về hạnh phúc ngày càng xa cách, nhân vật trìu mến có những phản ứng rất mạnh mẽ:
Dọc ngang đất phủ lên rêu mốc
Chọc chạm chân mây đá mấy viên
Hai câu thơ thể hiện sức sống mạnh mẽ, khỏe khoắn thông qua những hình ảnh độc đáo: rêu và đá. Rêu, thường được coi là loài cây mềm mại, nhỏ bé, nhưng dưới góc nhìn của tác giả, những đám rêu nhỏ bé và yếu đuối lại “dọc ngang đất” để tìm kiếm sự sống; và đá, mặc dù dường như đứng im trước sự trôi chảy của thời gian, nhưng cũng có thể “chọc chạm chân mây”. Dưới góc nhìn của Hồ Xuân Hương, tất cả các vật thể dường như tĩnh lặng, không có sự sống lại được tác giả truyền đạt sức sống tràn đầy và mạnh mẽ. Nhưng không chỉ dừng lại ở đó, hình ảnh của những vật thể này kết hợp với cụm từ “dọc ngang” và “chọc chạm” đã thể hiện sự bứt phá, không chịu khuất phục số phận đau khổ của nhân vật trữ tình. Trong bối cảnh xã hội lúc đó, khi phụ nữ thường được giáo dục với tinh thần nhẫn nhục và an phận, câu thơ mang nhiều ý nghĩa tích cực và tiến bộ. Người phụ nữ trong bài thơ không chấp nhận số phận mà thể hiện khao khát tình yêu và hạnh phúc, mở ra khả năng đấu tranh để đạt được tình yêu và hạnh phúc cho bản thân. Ý thơ này tương tự như những bài thơ khác trong bộ sưu tập Tự tình của bà: “Thân này chẳng sợ già đi” – một khao khát tình yêu nhất quán.
Tuy nhiên, trước thực tại đắng cay, dường như người phụ nữ cũng phải chấp nhận: “Chán nản với sự thay đổi của thời gian/ Tình yêu giản dị một chút thôi”, câu thơ truyền đạt một tâm trạng đau buồn và bi thương. Trong một bài thơ khác, Hồ Xuân Hương đã viết: “Đấm vỡ mặt mẹ rồi đi lấy chồng/ Có người che mền còn người lạnh lùng” để đẩy mạnh hơn sự bất hạnh của phụ nữ trong xã hội truyền thống. Tuổi xuân của phụ nữ mang lại bao nhiêu niềm vui, nhưng mỗi khi mùa xuân trôi qua lại làm tuổi xuân của họ ngắn hơn, và vì vậy mà tình yêu cũng phải san sẻ, giảm đi. Câu thơ với cách sử dụng từ ngữ độc đáo thể hiện sự suy giảm của tình yêu: tình yêu – nhỏ bé, san sẻ – càng ít đi và cuối cùng chỉ còn lại một ít ít.
Qua việc sử dụng ngôn từ một cách tinh tế, Hồ Xuân Hương đã làm cho độc giả hiểu được một phần của cuộc sống đau khổ của phụ nữ trong xã hội truyền thống, tình yêu bị san sẻ, hạnh phúc không thể tới. Nhưng đồng thời, cô cũng thể hiện được lòng khao khát hạnh phúc mãnh liệt của họ. Thông qua những bài thơ đó, Hồ Xuân Hương cũng lên án xã hội truyền thống đã kiềm chế nhu cầu hạnh phúc chính đáng của con người.
Phân tích Tự tình - Mẫu 8
Hồ Xuân Hương, một trong những nữ thi sĩ tài năng của Việt Nam, để lại nhiều tác phẩm đáng chú ý, và phong cách sáng tác chủ yếu của bà là tả cảnh ngụ tình. Bà nổi tiếng với việc miêu tả thân phận của phụ nữ, ca ngợi vẻ đẹp, sự hi sinh và đức hạnh của họ, đồng thời chỉ trích nghiêm khắc xã hội cũ. Tự tình 2 là một trong những bài thơ hay, chứa đựng nhiều cảm xúc của tác giả và cũng của phụ nữ nói chung.
Bài thơ bắt đầu với hai dòng thơ vừa mô tả cảnh vật vừa mô tả một người phụ nữ, có thể coi là hồng nhan. Nhưng thật đáng tiếc, hồng nhan đó lại bị lạc vào cảnh cô đơn giữa đêm tối tăm.
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non”
Từ “văng vẳng” mô tả âm thanh xa xa vang vọng, dần dần trở nên rõ ràng hơn, mặc dù không rõ nguồn gốc hoặc từ đâu vọng lại. “Đêm khuya” là thời điểm khi con người chìm vào những cảm xúc phức tạp nhất, và chính lúc đó, một người phụ nữ ngồi đó, không thể yên tâm, không thể ngủ được, suy tư về cuộc sống và bản thân mình. Một người phụ nữ với nhan sắc, nhưng lại cô đơn giữa vẻ đẹp của tự nhiên. Trước cuộc sống lớn lao, người phụ nữ nhận ra sự cô đơn của mình, và âm thanh của trống cầm canh lại càng làm nổi lên nỗi buồn, cô đơn không thể diễn tả. Người phụ nữ đó tìm đến rượu để giải tỏa lòng trăn trở:
“Rượu cạn, hương ngả say lại tỉnh
Trăng tàn, bóng khuyết chưa tròn”
Mỗi khi gặp chuyện buồn, người xưa thường tìm đến trăng và rượu để giải tỏa tâm trạng. Họ muốn uống say mê, để hương vị rượu nồng nàn làm cho tâm hồn trở nên lãng quên mọi điều, nhưng kì lạ thay, khi nếm ly rượu, hương thơm không khiến tâm trạng mê say, mà ngược lại, tâm hồn vẫn bình yên. Không có nỗi buồn nào biến mất, mà chỉ làm cho nó trở nên rõ ràng hơn, hiện hữu hơn trong tâm trí của người phụ nữ. Hình ảnh của vầng trăng xuất hiện, nhưng vẫn còn thiếu sót, chưa tròn, có lẽ ám chỉ đến số phận, hạnh phúc của chính tác giả. Người tài năng nhưng duyên phận hẩm hiu, chưa bao giờ được trọn vẹn. Tuổi xuân trôi qua mà hạnh phúc vẫn không đến:
“Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn”
Hình ảnh của rêu mang ý nghĩa sâu xa, rêu nhỏ bé nhưng có sức sống mạnh mẽ, không ngừng phản kháng và chống lại mọi thứ, dù có mạnh mẽ đến đâu. 'Rêu từng đám' xuyên thấu mặt đất, tượng trưng cho sự phản kháng mạnh mẽ, chống lại mọi thứ mạnh hơn nó. Hình ảnh 'đá mấy hòn' cũng nhấn mạnh sự đối lập giữa sức mạnh của những viên đá nhỏ bé với vẻ rộng lớn của thế giới, làm nổi bật sự mạnh mẽ của chúng. Sự đồng điệu giữa con người và thiên nhiên, luôn đối mặt với những thách thức, nhưng chưa bao giờ đạt được thành công. Trong cuộc sống hôn nhân, dù cố gắng thoát ra nhưng vẫn không thành công. Đó là lý do tại sao hai dòng thơ cuối cùng là:
“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con”
Thiên nhiên tuân theo luật lệ của trời đất, mùa xuân đi qua rồi lại đến, nhưng con người không giống như vậy, với phụ nữ, tuổi xuân chỉ qua một lần duy nhất và không bao giờ quay lại. Điều này làm cho những số phận đau khổ, đợi chờ cả tuổi xuân, nhưng không bao giờ có được hạnh phúc trọn vẹn. Trước sự cô đơn và chán chường, Hồ Xuân Hương sử dụng từ 'ngán' để thể hiện tâm trạng của mình. Mảnh tình nhỏ bé và phải chia sẻ, không được hưởng một tình yêu trọn vẹn và hạnh phúc, điều này thực sự đáng thương. Thông qua đó, ngụ ý về số phận của phụ nữ, chịu cảnh thê thiếp, dưới chế độ cũ không được coi trọng và không có quyền lên tiếng, được tiết lộ một cách gián tiếp.
Tự tình 2 là một ví dụ điển hình cho tâm hồn thơ và phong cách cũng như tư tưởng của Hồ Xuân Hương, đặc biệt là những vấn đề xoay quanh người phụ nữ. Thông qua bài thơ này, chúng ta cũng thấy một Hồ Xuân Hương vừa yếu mềm nhưng cũng thật mạnh mẽ và ngang tàng khi dám thể hiện suy nghĩ của mình.
Phân tích Tự tình - Mẫu 9
Hồ Xuân Hương là một trong những nhà thơ nữ tài năng nhất của văn học Trung đại Việt Nam. Bà để lại di sản sáng tác đồ sộ, giàu giá trị trên cả lĩnh vực thơ chữ Nôm và chữ Hán. Đặc biệt trong tác phẩm của mình, bà luôn thể hiện sự đồng cảm với số phận của phụ nữ, và bài thơ Tự Tình (phần 2) là một minh chứng rõ ràng cho điều này.
Bài thơ nằm trong bộ sưu tập Tự tình, gồm có ba bài thơ, viết theo thể thơ Đường luật. Tác phẩm đề cập đến nỗi buồn cô đơn khi phải đối mặt với cuộc sống đơn độc, và mong muốn mạnh mẽ của một tâm hồn khao khát hạnh phúc thực sự. Đồng thời, bài thơ cũng phản ánh sự bứt phá, mong muốn thoát khỏi hoàn cảnh khó khăn để tìm kiếm hạnh phúc, nhưng kết quả cuối cùng vẫn là bi kịch.
Bài thơ bắt đầu vào thời khắc buổi tối, khi con người đối mặt trực tiếp với bản thân, và chính lúc đó, Xuân Hương nhận ra tình cảnh đáng thương của mình:
Trong đêm khuya thanh vắng, tiếng trống vang vọng như tiếng lòng người, cuồng nhiệt và hối hả. Đó là những bước thời gian vội vã, đánh dấu sự trôi chảy không ngừng của cuộc đời. Một cảnh hồn trần trơ trọi giữa biển non.
Trong cô đơn đêm thâu, tiếng trống “dồn” vang vọng gấp gáp, như đếm ngược thời gian. Đó là thể hiện cho cuộc sống vội vã, áp đặt và đau đớn của người phụ nữ. Nhưng giữa trơ trọi, họ vẫn tỏ ra mạnh mẽ, kiên cường, không khuất phục trước số phận.
Giữa cô đơn tột cùng, con người tìm đến rượu để xua tan nỗi buồn:
Chén rượu đưa mùi hương, say chưa say
Vầng trăng sáng, bóng xế chưa tròn
Nhưng rượu chỉ làm tăng thêm tỉnh táo, làm cho nỗi cô đơn, nỗi buồn hiện hữu trong họ càng trở nên rõ ràng hơn. Trăng làm bạn tâm sự, nhưng cũng chỉ khiến họ nhận ra sự phụ phàng của thực tại. Đời đầy sầu muộn, không có niềm vui nào tồn tại mãi mãi. Câu thơ nói lên sự trăn trở, khao khát về hạnh phúc, nhưng cũng là sự chấp nhận và đối diện với thực tại khắc nghiệt.
“Rêu từng đám xiên ngang mặt đất
Đá mấy hòn đâm toạc chân mây”
Các hành động mạnh mẽ như “xiên, đâm” kết hợp với từ ngữ “ngang, toạc” đã thể hiện sự phản kháng, bứt phá của nhân vật trước số phận. Trong khi người phụ nữ truyền thống thường kiên nhẫn, dễ dàng chấp nhận số phận, thì ở đây lại là một con người quyết liệt, không chịu khuất phục. Những sinh vật nhỏ bé nhưng mạnh mẽ này phải vươn lên, đâm thẳng để sống sót, đối mặt với thử thách. Điều này cũng phản ánh tinh thần mạnh mẽ, kiên cường của con người trước cuộc sống khắc nghiệt.
Chán ngấy mỗi khi xuân qua đi
Tình yêu nhỏ bé chia sẻ chút ít
Trong câu thơ này, sự phân biệt giữa tuổi xuân của con người và mùa xuân tự nhiên là rất rõ ràng. Tuổi xuân của con người trôi đi không trở lại, tạo nên cảm giác chán ngấy. Tình yêu, hạnh phúc nhỏ bé cũng trở nên ít ỏi hơn, eo hẹp hơn. Điều này làm nổi bật nỗi đau, nỗi khao khát trong cuộc sống của người phụ nữ.
Hồ Xuân Hương là một bậc thầy trong việc sử dụng ngôn ngữ, tạo ra những hình ảnh sâu sắc để diễn đạt tâm trạng của nhân vật trữ tình. Bằng cách đảo ngữ, ông đã thành công trong việc tạo ra một bức tranh sống động về sự phản kháng, cô đơn của người phụ nữ trong xã hội cũ.
Sử dụng ngôn từ đơn giản nhưng sâu sắc, kết hợp với phép đối, tác phẩm đã phản ánh số phận cay đắng, bi kịch của phụ nữ trong xã hội phong kiến. Đồng thời, nó cũng thể hiện khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của Hồ Xuân Hương và phụ nữ thời xưa.
Phân tích Tự tình - Mẫu 10
Tự tình là một trong những tác phẩm nổi tiếng của Hồ Xuân Hương, là biểu hiện của tâm hồn bản thân. Hồ Xuân Hương, sống vào cuối thế kỷ XVIII - đầu thế kỷ XIX, đã trải qua những gian khổ và thăng trầm trong cuộc đời. Bài thơ này được viết dưới dạng Đường luật thất ngôn bát cú, phản ánh một cách sắc nét nỗi lòng phong ba bão táp của tác giả.
Bài thơ Tự Tình viết dưới hình thức Đường luật thất ngôn bát cú. Với lối viết sắc sảo, tác giả đã thể hiện một cách rõ ràng nỗi niềm đau lòng, sự phẫn uất của mình.
Để hiểu rõ hơn về nội dung chính, ta cần phân tích kỹ lưỡng từng câu thơ. Bài thơ có bố cục gồm 4 phần: 2 câu đề, 2 câu thực, 2 câu luận và 2 câu kết, mỗi phần đều mang đến một góc nhìn sâu sắc về cuộc sống và tâm trạng của tác giả.
Trước hết, tác giả bắt đầu với hai câu đề:
“Bóng đêm vắng vẻ ngân nga tiếng canh,
Ánh trăng soi bóng nước vẫn còn râm.”
Khung cảnh hiện ra là một đêm tối, khi mọi người chìm vào giấc ngủ sâu, cũng là lúc họ phải đối mặt với bản thân, và đây cũng là lúc Hồ Xuân Hương nhận ra hoàn cảnh đáng thương của mình. Sự cô đơn, lẻ loi kèm theo thời gian, tạo nên một cảm giác thương tâm cho thân phận của người phụ nữ. Tác giả đã sử dụng một cách tinh tế nghệ thuật của tiếng trống cầm canh để tạo ra một không gian yên tĩnh, trống trải. Điều quan trọng là trong khoảnh khắc ấy, khi nhìn vào chính bản thân, tác giả nhận ra sự 'trơ' của mình, càng làm nổi bật nỗi đau, bất hạnh trong cuộc sống, trong tình yêu của chính tác giả. 'Trơ' ở đây có thể hiểu là cô đơn, tủi hổ. Tiếp theo đó là 'vẻ đẹp' của người phụ nữ, thường được nhắc đến trong xã hội xưa. Nhưng điều quan trọng là, 'vẻ đẹp' đó lại được gọi là 'cái', gợi lên sự phê phán, mỉa mai của người xem. 'Cái vẻ đẹp' lẻ loi với nước non không chỉ là điều đau lòng, tủi hổ mà còn là điều thương tâm, xót xa. Nhưng 'trơ' ở đây cũng có thể hiểu là sự gan dạ, thách thức của Xuân Hương. Để nhấn mạnh điều này, tác giả đã sử dụng nhịp thơ: 1/3/3 để làm nổi bật sự cô đơn, tủi hổ.
Tiếp theo hai câu đề, tác giả viết:
“Ly rượu say đưa, tỉnh giấc đời hồn
Vẫn trăng soi vẳng ánh vẫn lung linh.”
Với hai câu thơ trên, tâm trạng của nhà thơ hiện ra rõ hơn. Khi buồn, người ta thường dùng rượu để quên đi mọi chuyện, nhưng 'say lại tỉnh' khiến nỗi buồn không tan đi. Đây là một vòng luẩn quẩn, tình duyên trở thành trò đùa, càng uống càng tỉnh, càng cảm thấy nỗi đau. Câu thơ không chỉ là cảnh vật mà còn là tâm trạng. Điều này tạo nên sự đồng nhất giữa tâm trạng và cảnh 'trăng' sắp tàn 'bóng xế' và vẫn 'khuyết chưa tròn'. Tuổi xuân đã qua mà nhân duyên vẫn chưa trọn vẹn, gợi lên nỗi buồn lẻ loi.
Tiếp tục nhìn về bên ngoài, sử dụng thiên nhiên để diễn đạt tâm trạng, Hồ Xuân Hương viết:
“Rêu xiên ngang mặt đất từng đám,
Đá đâm toạc chân mây đủ lòn.”
Hai câu trên tác giả sử dụng nghệ thuật đảo ngữ để nhấn mạnh tâm trạng của thiên nhiên, đồng thời cũng là tâm trạng của con người. Rêu và đá là hai hình ảnh yếu đuối, nhưng chúng không chấp nhận thấp thỏm, mà vươn lên, vượt qua mọi khó khăn để chứng tỏ mình. Các động từ mạnh mẽ như xiên, đâm kết hợp với bổ ngữ ngang, toạc, gợi lên sự kiêu căng, phẫn uất. Điều này không chỉ thể hiện sự phẫn uất mà còn nói lên sự phản kháng. Người đọc có thể hiểu rằng Hồ Xuân Hương vẫn sống mạnh mẽ, kiên cường ngay cả khi đau buồn nhất.
Kết thúc bài thơ với hai câu kết:
“Chán nỗi xuân đi, xuân lại quay về,
Mảnh tình vụt qua nhưng chẳng dừng lại.”
Hồ Xuân Hương đã sáng tạo bằng cách sử dụng từ ngữ rất độc đáo: 'xuân' - mùa xuân, tuổi xuân, 'ngán' - chán chường. Cùng với từ 'lại', nó gợi lên sự quay trở lại một cách nhanh chóng, lo lắng. Theo luật tự nhiên, mùa xuân sẽ trở lại sau mỗi lần đi qua. Nhưng mỗi lần mùa xuân trôi qua, tuổi xuân của con người cũng đi theo và không bao giờ quay lại. Sự trở lại của mùa xuân cũng là lúc tuổi xuân ra đi. Tác giả đã chán ngấy với cuộc sống cay đắng. Bằng cách nghệ thuật tăng tiến, nhấn mạnh vào những chi tiết nhỏ bé, làm cho cảnh sống càng thêm đau lòng. Mảnh tình đã mong manh nhỏ bé lại còn phải trải qua 'tý con con', tạo ra cảm giác thương tâm. Đây cũng là nỗi lòng của phụ nữ trong xã hội xưa. Hạnh phúc luôn là chiếc chăn quá chật.
Như vậy, bài thơ 'Tự tình' hiện lên với những hình ảnh giản dị nhưng đặc sắc, giàu sức lôi cuốn, tinh tế từ đó diễn đạt tâm trạng của người viết. Bài thơ thể hiện cả bi kịch và khát vọng sống hạnh phúc của Hồ Xuân Hương. Trong những thời điểm buồn bã, tuyệt vọng, phụ nữ cố gắng vươn lên nhưng vẫn bị cuốn vào vòng xoáy rối bời, sự khốn khó của xã hội hiện tại.
Phân tích 'Tự tình 2 - Mẫu 11'
Thơ là một hình thức nghệ thuật cao quý, tinh tế. Mỗi bài thơ là tiếng hò của trái tim, là những cảm xúc chân thành, mãnh liệt của người nghệ sĩ. Do đó, Diệp Tiến cho rằng, 'thơ là tiếng trái tim'. Trong số những 'tiếng trái tim' trong thơ, chúng ta gặp nỗi lòng của phụ nữ sống trong xã hội xưa đầy xót xa, tủi hổ, và nổi bật là Hồ Xuân Hương với tác phẩm 'Tự tình II'.
Thơ là ngôn ngữ chân thành của trái tim, là nơi dừng chân của tâm hồn người nghệ sĩ. Thơ phản ánh cuộc sống con người, xã hội, để qua đó, nhà thơ thể hiện nỗi lòng của mình. Họ như những con ong chăm chỉ bay xa để lấy mật ngọt, tái tạo tài năng bằng những cảm xúc cá nhân, để tạo nên một sự ngọt ngào cho đời.
Trong số những nhà thơ chăm chỉ như Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, và Hồ Xuân Hương, bà nổi tiếng là một hiện tượng văn học độc đáo viết về phụ nữ với thể loại trữ tình và trào phúng, kết hợp văn học dân gian và văn học bác học. Xuyên suốt các tác phẩm của bà là nỗi lòng của phụ nữ với những nỗi đau, buồn tủi về thân phận và mong muốn một cuộc sống hạnh phúc, tự do. Bài thơ “Tự tình II” đã thể hiện rõ điều này. Mở đầu bài thơ, chúng ta cảm thấy đồng cảm với cảm xúc cô đơn, buồn tủi của Hồ Xuân Hương:
“Đêm khuya vắng vẻ tiếng trống canh,
Trơ bóng hồng nhan với nước non.”
Câu thơ mở ra một không gian yên tĩnh, trong đêm tối tĩnh lặng. Trong không gian nghệ thuật đó, cùng với sự chạy vội của thời gian “tiếng trống canh”, “trơ” lại là “bóng hồng nhan với nước non”. “Trơ” nghĩa là trống trải, gợi lên nỗi cô đơn, lẻ loi nhưng cũng có nghĩa là không nối tiếp, gợi lên sự bất hạnh, hèn hạ. “Trơ” lại đối với “bóng hồng nhan” gợi lên sự mỉa mai, thấp kém cùng với nỗi đau, cô đơn, buồn bã của một phụ nữ nhỏ bé và bất hạnh. Không chỉ cô đơn, buồn bã, bài thơ còn thấm đượm nỗi xót xa, hèn hạ, nỗi đau của nhân vật trữ tình:
“Ly rượu hương đưa say lại tỉnh,
Vầng trăng bóng xế chưa tròn.”
Cụm từ “say lại tỉnh” tạo ra một vòng luẩn quẩn cho câu thơ cũng là vòng xoay của thân phận người phụ nữ trong xã hội xưa. Uống rượu để quên sầu, quên đi những đau thương, nhưng chẳng may, cảm giác say không thể xua tan đi nỗi đau thân phận. Do đó, uống rồi say, say rồi tỉnh, tỉnh rồi đau, đau rồi lại uống.
Ở đây, người phụ nữ cảm thấy đau đớn vì nhận thức rõ ràng rằng “vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”. Hình ảnh này gợi lên nỗi đau tột cùng của nhân vật trữ tình vì tuổi trẻ sắp qua như “vầng trăng bóng xế” nhưng số phận chưa hoàn hảo nên “khuyết chưa tròn”. Người phụ nữ càng khao khát một hạnh phúc nhỏ nhoi, càng cảm thấy xót xa và đau đớn vì thân phận của mình. Đau đớn và xót xa thường dẫn đến sự phẫn uất và phản kháng. Người phụ nữ đã phản kháng lại số phận, mong muốn thay đổi cuộc đời:
“Chọc mặt đất xiên, rêu từng đám
Đập toạc chân mây, đá mấy hòn.”
Việc đảo ngữ đưa những động từ mạnh mẽ “chọc”, “đập” lên đầu câu nhấn mạnh sự phẫn uất và phản kháng của người phụ nữ. “Rêu”, “đá” là những vật vô tri, nhỏ bé, yếu đuối, chính là thân phận của người phụ nữ nhỏ bé, bình thường, không có giá trị trong xã hội “trọng nam khinh nữ”. Tuy nhiên, chúng cũng mang theo sức mạnh phản kháng, đấu tranh để đòi quyền sống, quyền hạnh phúc.
Quyền được sống, được tự do yêu đương và nhu cầu hạnh phúc là điều nhỏ nhoi mà bất kỳ người phụ nữ nào cũng đều muốn. Nhưng, trong xã hội với tư tưởng “trọng nam khinh nữ”, với niềm tin vô cùng sâu sắc vào việc “trời xanh quen thói má hồng đánh ghen”, họ đã bị áp đặt vào cuộc sống mà họ không mong muốn. Cố gắng nổi lên, họ lại bị đẩy xuống sâu hơn nữa. Cố phản kháng lại, họ chỉ gặp thêm đau buồn:
“Chán chường mỗi khi xuân qua đi
Tình yêu san sẻ từng chút nhỏ nhoi.”
Câu thơ thể hiện nỗi chán chường, ngao ngán khi tuổi xuân của con người mất đi mà không bao giờ trở lại. “Xuân” không chỉ là mùa của đất trời mà còn là tuổi thanh xuân của con người. Mùa xuân của đất trời có thể trở lại nhưng tuổi xuân của con người không thể. Do đó, làm sao tránh khỏi nỗi đau buồn, nỗi tủi hổ!
Nhiều lần nhà thơ đã than thở “chém cha kiếp chồng chung” nhưng sau đó lại đau buồn vì quy luật “gỡ ra rồi lại buộc vào như trò chơi” (Nguyễn Du). Mong muốn hạnh phúc trọn vẹn nhưng cuối cùng chỉ còn lại nỗi xót xa của một người phụ nữ đã trải qua hai lần đau đớn. “Tình yêu san sẻ từng chút nhỏ nhoi.”
Một mình, duy nhất chỉ có một “tình yêu” nhỏ bé nhưng cũng phải “san sẻ” từng “chút nhỏ nhoi”. Trái tim cô đơn mềm yếu nhưng không được bảo vệ. Trong xã hội phong kiến, hạnh phúc của người phụ nữ giống như chiếc chăn quá hẹp, khiến một bên ấm áp thì bên kia lại lạnh buốt “người đắp chăn bông, người lạnh lùng”.
Toàn bộ bài thơ “Tự tình II” phản ánh nỗi đau thân phận của Hồ Xuân Hương cũng là nỗi đau chung của phụ nữ trong xã hội thời đại đó. Đó là tâm trạng đau buồn và phẫn uất trước số phận, cố gắng vươn lên nhưng vẫn bị cuốn vào bi kịch. Tất cả được tóm lược trong một quy luật như Nguyễn Du đã viết trong “Truyện Kiều”
“Nghẹn ngào với số phận người phụ nữ
Nhận thức rằng đau đớn là điều chung.”
“Tự tình II” giúp hiểu sâu hơn về nỗi đau và khát vọng của người phụ nữ qua những điều Hồ Xuân Hương chia sẻ. Đồng thời, ta cũng đánh giá cao tài năng đặc biệt của bà trong việc sáng tạo từ ngôn từ và hình ảnh. “Nghệ thuật làm nên câu thơ, trái tim làm nên thi sĩ.”
“Tự tình II” thể hiện lòng chân thành của Hồ Xuân Hương, điểm nhấn là sự u buồn kết hợp với ánh sáng của khao khát hạnh phúc, như một viên ngọc sáng soi đường trong cuộc hành trình vượt qua thời gian. Hồ Xuân Hương và tác phẩm “Tự tình” vẫn là điều ghi sâu trong tâm trí độc giả qua hàng thế kỷ.
.............
Tải tài liệu để đọc thêm Phân tích Tự tình 2 rất hữu ích