Kể lại một câu chuyện cổ tích mà em biết từ lời của nhân vật trong câu chuyện đó, chọn lựa 16 ví dụ NỔI BẬT, giúp học sinh lớp 5 rèn kỹ năng kể chuyện một cách xuất sắc, để đạt thành tích cao trong bài kiểm tra viết Kể chuyện - Tuần 22.
Để hoàn thành nhiệm vụ này, học sinh cần hiểu về các câu chuyện cổ tích đã nghe hoặc học. Hơn nữa, họ cần phải đảm nhận vai diễn của nhân vật trong câu chuyện để kể lại từ góc nhìn của nhân vật đó. Mời các em tham khảo 16 bài văn kể lại câu truyện Cây Khế, Cậu Bé Thông Minh, Nàng Tiên Ốc, Sọ Dừa, Thạch Sanh... trong bài viết dưới đây của Mytour:
Kể lại câu chuyện cổ tích theo lời kể của nhân vật
- Kể lại câu chuyện Thạch Sanh theo lời của chính Thạch Sanh
- Kể lại câu truyện Cây khế theo lời của Chim Thần
- Kể lại câu chuyện Cậu bé thông minh theo lời của chính cậu bé
- Kể lại câu truyện Cây khế theo lời của em trai
- Kể lại câu truyện Vì sao Hươu có sừng theo lời của chính Hươu
- Kể lại câu truyện Ba lưỡi rìu theo lời của chàng trai nghèo
- Kể lại câu chuyện Sọ Dừa theo lời của chính Sọ Dừa
- Kể lại câu chuyện Sọ Dừa theo lời của cô Út
- Kể lại câu chuyện Nàng tiên Ốc theo lời của chính Nàng tiên
- Kể lại câu chuyện Nàng tiên Ốc theo lời của bà lão
- Kể lại câu chuyện Thạch Sanh theo lời của Lý Thông
- Kể lại câu truyện Cô bé quàng khăn đỏ theo lời của chính cô bé quàng khăn đỏ
- Kể lại câu chuyện Sự tích trầu cau theo lời của nhân vật trong câu chuyện
Kể lại câu chuyện Thạch Sanh Thạch Sanh theo lời của chính Thạch Sanh
Tôi là Thạch Sanh, con của Ngọc Hoàng được gửi xuống trần gian để tìm hiểu cuộc sống của con người. Bị mồ côi từ nhỏ, tôi sống qua ngày nhờ việc đốn củi và bán kiếm. Tuy vậy, tôi không bao giờ từ bỏ hy vọng và luôn cố gắng vươn lên. Một ngày nọ, tôi gặp Lí Thông, người đã trở thành anh em với tôi. Tuy nhiên, sự hợp tác này đã dẫn đến nhiều rắc rối và thử thách.
Trải qua nhiều sóng gió, tôi đã giúp vua chiến thắng giặc ngoại xâm và đạt được hạnh phúc bên người yêu thương. Câu chuyện của tôi là minh chứng cho việc người tốt sẽ luôn gặp may mắn và thắng lợi trong cuộc sống.
Kể lại câu chuyện Cây khế theo lời của Chim Thần
Chim Thần kể lại câu truyện Cây khế - Mẫu 1
Một ngày kia, tôi lượn qua một góc đất nhỏ và thấy một cây khế chín quả đẹp lắm. Trong lùm quả khế đầy ắp, mọi người kéo đến để thưởng thức.
Từ xa, ánh nắng vàng của những quả khế căng tròn và đầy nước tỏa sáng, rất hấp dẫn. Khi đến gần, mùi thơm ngọt ngào thoang thoảng bay lên. Mỗi người lấy một cành để thưởng thức một cách thoải mái.
Không lâu sau, tôi nghe tiếng kêu than dưới gốc cây: 'Ôi trời ơi, tôi phải làm sao đây. Chim ơi, đừng ăn quả khế. Nó là nguồn sống duy nhất của tôi. Cha tôi mất, anh trai thì tham lam giành cả gia sản, chỉ để lại cho tôi mảnh đất nhỏ này có cây khế. Chim ăn hết, tôi sẽ phải làm sao để sống.' Cảm động trước tình cảm của người em, tôi hứa sẽ đền đáp bằng vàng.
Sáng hôm sau, trời trong xanh, tôi đã đền ơn cho anh ta bằng một túi ba gang đầy vàng.
Năm sau, chúng tôi quay lại để tìm quả khế ngọt. Tôi nghe tiếng khóc lóc nhưng lần này khẩn trương hơn. Ngày hôm sau, tôi đã đưa người anh ra đảo để đền ơn. Nhưng lúc đợi đến hơi nản lòng, tôi nhận ra sự tham lam của anh ta. Trên đường trở về, tôi không thể chịu được nữa và quyết định đưa hết vàng và kẻ tham lam đó xuống biển.
Kẻ xảo trá, ganh tị đã vùi mình trong lòng tham vô đáy.
Chim Thần kể lại câu chuyện Cây khế - Mẫu 2
Tôi là nhân vật Chim Thần trong câu chuyện Cây khế - một truyện hay trong dòng truyện cổ của Việt Nam. Dưới đây là tôi kể lại câu chuyện đó cho các bạn nghe.
Ngày xưa, có hai anh em mồ côi cha mẹ. Khi anh lấy vợ, hắn phân chia gia sản của cha mẹ, chiếm hết cho mình chỉ để lại cho em một mảnh vườn nhỏ và cây khế cuối vườn. Hắn sống sung túc trên tài sản còn lại của cha mẹ, còn em phải cày cấy để kiếm sống.
Đến mùa, cây khế ra hoa nhiều quá, người em sống nhờ vào cây khế đó. Tôi thích ăn trái cây, một ngày bay qua, thấy cây khế của em chín đỏ, tôi vội vã ăn hết từ trái này đến trái khác. Thấy vậy, em đi đến trách tôi:
Chim ơi! Gia tài của tôi chỉ còn mỗi cây khế. Nếu chim ăn hết, tôi sẽ phải sống thế nào?
Tôi nhanh chóng trả lời:
Hãy ăn một quả, tôi sẽ trả lại cho em cục vàng, và còn may túi ba gang để em mang đi.
Như đã hứa, sáng hôm sau tôi đến chở người em ra đảo để lấy vàng. Sau khi lấy đủ một túi ba gang, tôi đưa em trở về nhà. Từ đó, cuộc sống của người em trở nên sung túc, phồn thịnh.
Đến mùa khế ra hoa kết trái, tôi lại đến ăn như lần trước và tôi cũng đã bảo vợ chồng người anh như đã hứa với người em. Cả hai vợ chồng đều hí hửng nhận được một cái túi to đến mười hai gang. Sau đó, tôi đưa họ đến đảo vàng như đã hứa. Khi đến nơi, anh ta nhìn thấy vàng bạc châu báu, vui mừng không thôi, hắn hòa lên và nhét vàng vào túi mười hai gang một cách hấp tấp. Nhưng khi tôi bay qua biển, túi và vàng bị rơi xuống biển sâu vì quá nặng và bị gió thổi bất ngờ.
Vậy là một kẻ tham lam, thiếu lòng tốt đã kết thúc cuộc đời. Câu chuyện về cây khế đã minh chứng điều đó.
Chim Thần kể lại truyện Cây khế - Mẫu 3
Văn học Việt Nam là kho tàng của những câu ca dao, tục ngữ, và những câu chuyện cổ tích đã trở thành phần không thể thiếu trong lời ru của bà, của mẹ. “Cây khế” là một trong những truyện cổ tích gần gũi, thân quen với tuổi thơ của các bạn nhỏ. Tôi, nhân vật Chim Thần trong câu chuyện đó, hôm nay xin được kể lại để cùng nhau suy ngẫm về ý nghĩa của nó.
Ngày xửa ngày xưa, có hai anh em nhà kia cha mẹ đều mất sớm. Người anh tham lam lười biếng, còn người em thì hiền lành, chăm chỉ. Khi hai anh em lấy vợ, người anh đã chia gia tài một cách bất công. Với bản tính tham lam của mình, hắn chiếm đoạt tất cả tài sản của cha mẹ, chỉ để lại cho người em một mảnh vườn nhỏ và cây khế ngọt. Cuộc sống của người em, mặc dù khó khăn nhưng luôn biết quý trọng và chăm sóc cây khế đó.
Mùa khế năm ấy, cây khế trong vườn nhà người em ra hoa kết trái, cành nào cành ấy đều trĩu quả. Vợ chồng người em đã nghĩ sẽ bán quả để có tiền mua thức ăn. Một ngày, tôi bay ngang qua khu vườn của người em và thấy những quả khế chín mọng hấp dẫn, tôi không kìm được lòng mà đến ăn hết những trái đó. Nhìn thấy tôi ăn khế, người em chỉ biết buồn rầu và than thở với tôi:
- Chim ơi! Gia tài nhà tôi chỉ có mỗi cây khế này thôi. Chim ăn hết rồi, tôi biết lấy gì để sống?
Tôi vốn là loài chim biết trả ơn bèn đáp:
- Ăn một quả, trả một cục vàng, may túi ba gang, mang đi mà đựng.
Vợ chồng người em có vẻ bất ngờ vì tôi biết nói tiếng người. Nhưng cũng theo lời hẹn, may một cái túi ba gang. Mấy hôm sau, theo như lời hẹn, tôi bay đến chở người em ra đảo lấy vàng. Người em thấy vàng chất đầy đảo nhưng không hề tỏ vẻ tham lam, chỉ lấy đủ một túi ba gang rồi nhờ tôi chở về nhà. Từ đó, cuộc sống người em trở nên sung túc, giàu có. Vợ chồng người em còn đem tiền và gạo giúp đỡ mọi người trong vùng.
Chuyện đến tai người anh. Người em không giấu diếm kể hết sự việc. Lòng tham nổi lên, người anh bèn gạ đổi gia tài của mình để lấy cây khế. Vợ chồng người em đồng ý, thế là anh ta chuyển về chỗ người em ở. Mùa khế ra hoa kết trái năm sau tôi lại đến ăn như lần trước.
Người anh cũng than thở với tôi y như người em. Tôi vẫn đáp:
- Ăn một trái, trả một cục vàng. May túi ba gang, mang đi và giữ kỹ.
Anh ta vui mừng không ngớt, nhưng hai vợ chồng người anh lại nhận được một túi to từ mười đến hai gang. Tôi đưa anh ta đến đảo lấy vàng. Đến nơi, anh ta hoa cả mắt, hì hục nhét vàng bạc châu báu chật cứng cả túi từ mười đến hai gang và cố gắng nhét đầy mọi chỗ trên người mình. Lúc trở về, hắn leo lên và lại tụt xuống mãi sau hắn mới bò lên được lưng tôi. Nhưng vì nặng quá, tôi phải vỗ cánh đến mấy lần mới nhấc mình lên khỏi mặt đất được. Trên đường về nhà, hắn phải bay qua biển rộng, phần vì chở quá nặng, phần vì có một luồng gió bất chợt thổi đến, tôi không giữ được thăng bằng, bèn nghiêng cánh hất hắn và cả túi vàng xuống biển sâu.
Câu chuyện đã qua lâu nhưng vẫn nhắc nhở mỗi người không nên tham lam. Tham lam sẽ nhận lại hậu quả thích đáng.
Kể lại truyện Cây khế theo lời người em
Người em kể lại truyện Cây khế - Mẫu 1
Tôi là em trong câu chuyện Cây Khế. Mỗi khi nhớ lại quá khứ, lòng tôi lại đầy nỗi buồn. Buồn vì anh tôi đã ra đi vĩnh viễn vì lòng tham.
Bố mẹ tôi qua đời để lại gia sản lớn. Anh tôi giữ hết, chỉ cho tôi một túp lều và cây khế. Tôi luôn nghe theo anh mà sống.
Hàng ngày, vợ chồng tôi chăm sóc cây khế, cây trở nên đầy trái. Chúng tôi vui mừng không tả được. Cây khế là nguồn sống của chúng tôi.
Một ngày, một con chim lạ đậu trên cây khế. Chim to lớn, lông như nhung. Nó ăn hết quả khế của nhà tôi. Tôi xót xa nhưng không dám đuổi, chỉ đứng dưới gốc cây nói với chim:
- Gia đình ta chỉ còn cây khế này để sống, giờ chim ăn hết thì ta sống làm sao?
Tôi vừa nói xong, chim kêu lên nhưng không ngờ:
“Một quả khế thôi, trả một cục vàng, May túi ba gang, Mang đi và đựng.”
Thật bất ngờ! Mặc dù không nghĩ rằng chim sẽ giúp tôi giàu có, nhưng tôi vẫn bảo vợ may một túi ba gang. Sáng hôm sau, chim đến và tôi vui mừng khi thấy nhiều vàng ở nơi đó, nhưng tôi chỉ lấy đủ đựng vào túi và leo lên lưng chim để về nhà. Gia đình tôi từ đó trở nên giàu có. Tôi cũng đã có cơ hội giúp đỡ người nghèo trong làng. Anh tôi biết chuyện và đòi lại cây khế của tôi. Tôi chấp nhận vì mong muốn gia đình hòa thuận. Anh tôi hàng ngày đứng dưới cây khế chờ chim.
Chờ đợi của anh đã đến. Chim đến ăn khế, anh tôi than thở với nó. Chim đáp lại như lời trước. Anh tôi vui mừng, lòng tham trỗi dậy. Anh bảo vợ may túi mười hai gang. Sáng sớm hôm sau, chim đến và chở anh đi đến núi vàng. Khi thấy vàng, anh ta không kiềm chế được lòng tham, lấy quá nhiều vàng. Khi trở về, chim cảnh báo anh thả vàng nhưng anh không chịu. Cánh chim chao đảo và anh cùng túi vàng rơi xuống biển.
Thương anh quá! Nếu anh không tham lam, chắc chẳng có kết cục bi thảm như thế. Từ câu chuyện về cây khế và chim thần, tôi muốn nhắn nhủ mọi người điều này:
“Ở hiền được gặp hiền, Người ngay được gặp phật, tiên độ trì”.
Người em kể lại câu chuyện Cây khế - Mẫu 2
Trong gia đình tôi có hai anh em trai, và tôi là em út. Bố mẹ tôi đã về với tổ tiên từ hơn mười năm nay. Khi ấy, tôi ở với anh trai một thời gian rồi anh ta lấy vợ. Không muốn chúng tôi ở chung, họ chia gia sản. Với quyền lực của mình, họ chiếm đoạt hết tài sản, chỉ để lại cho tôi một mảnh đất nhỏ và cây khế ở cuối vườn. Là em, tôi không đòi hỏi gì, chỉ biết lo làm thuê kiếm sống.
Khi mùa khế chín, có một con chim lạ đến và ăn hết trái khế. Tôi thương chim lắm, bèn than thở với nó:
- Chim ơi! Tài sản nhà tôi chỉ có mỗi cây khế này thôi. Chim ăn hết, tôi không biết còn hy vọng vào đâu!
Chim lạ lập tức trả lời:
- Ăn một trái, trả một cục vàng. May túi ba gang, mang theo.
Sau đó, vào ngày hôm sau, chim lạ dẫn tôi ra một hòn đảo xa xôi trên biển, nơi tràn ngập vàng bạc quý giá. Tuân theo lời khuyên của chim, tôi chỉ lấy đủ để đựng trong một túi ba gang, sau đó chim đưa tôi trở về nhà. Từ đó, cuộc sống của tôi trở nên phong phú, sung túc.
Nghe tin, vợ chồng anh tôi thường xuyên đến nhà tôi năn nỉ muốn đổi cả gia sản để lấy cây khế. Thương anh, tôi đã đồng ý. Khi đến mùa khế, họ liên tục đợi chim lạ đến gần cây. Khi chim lạ đến, tình hình diễn biến giống như tôi đã kể với họ. Chim lạ bay đi, họ vui mừng quay về với một túi, nhưng không phải ba gang như chim lạ đã nói mà rộng đến mười hai gang.
Hôm sau, chim lạ đến đón anh tôi ra hòn đảo. Vì tính tham của mình, anh tôi đã chật đầy túi vàng bạc, ngọc ngà. Không chỉ vậy, anh còn tìm mọi chỗ trên người để nhét vàng vào, sau đó leo lên lưng chim với cái túi vàng khổng lồ. Quá nặng, chim phải vỗ cánh ba lần mới nhấc lên được. Trên đường bay, gặp một cơn gió mạnh, chim lảo đảo làm anh tôi và vàng rơi xuống biển sâu.
Tôi đau lòng vì cái chết của anh tôi, nhưng đó cũng là bài học cho những kẻ tham lam, ích kỉ, theo lời dạy của ông cha: 'tham thì thâm”.
Kể lại truyện Cậu bé thông minh dưới góc nhìn của cậu bé
Ta là một sứ giả của đất nước Đại Việt, phục vụ cho vị vua yêu nước và thương dân. Vị vua này rất tôn trọng và tín nhiệm vào người tài năng. Vì vậy, ngài đã gửi ta đi khắp các làng để tìm kiếm những người có tài năng giúp ngài cai trị đất nước.
Một ngày nọ, khi đi qua một ngôi làng, ta thấy hai cha con đang làm ruộng cùng nhau. Đó là lúc ta bắt đầu tò mò và đặt ra một câu hỏi:
- Ông kia, trâu của ông mỗi ngày cày được bao nhiêu đường?
Nhưng đáng ngạc nhiên, người trả lời lại là đứa con trai chứ không phải cha:
- Vậy ông hãy trả lời câu này. Nếu ông đúng, trâu của cha tôi mỗi ngày cày được bao nhiêu đường, tôi sẽ cho ông biết.
Nghe cậu bé đặt câu hỏi ngược lại như vậy, tôi ngay lập tức nhận ra đó chính là thiên tài mà tôi luôn tìm kiếm. Tôi vội vã đưa ngựa về bẩm tấu cho vua. Khi nghe về câu chuyện, vua mừng rỡ, nhưng để chắc chắn hơn, ngài quyết định thử cậu bé một lần nữa. Ngài ban cho làng của cậu bé ba con trâu đực và ba thúng gạo, yêu cầu sau một năm phải nộp lên chín con trâu. Trước thách thức đó, tôi không biết cậu bé sẽ trả lời thế nào. Một thời gian sau, khi tôi đang bàn việc với vua trong thư phòng, tiếng khóc ầm ĩ vang lên từ phía cửa cung. Lạ, vua cho mời vào và tôi nhận ra đó chính là cậu bé thông minh. Cậu bé khóc lóc yêu cầu vua bảo bố sinh em cho mình. Vua vô cùng khó xử trước đề nghị vô lý ấy. Lúc ấy, cậu bé hỏi ngược lại vua, tại sao lại bắt làng chăm sóc ba con trâu đực đẻ ra chín con trâu con. Nghe vậy, vua nhận ra mình đã rơi vào bẫy. Ngài rất hài lòng với cậu bé.
Nhưng để cả triều đình tin tưởng vào tài năng của cậu bé, vua lại thử tài lần thứ ba. Ngài sai tôi mang một con chim sẻ nhỏ đến, yêu cầu cậu bé làm ba mâm cỗ. Ngay lập tức, cậu bé bảo tôi mang về một cây kim, nhắn rằng, nhờ ngài mài kim thành một con dao sắc để mổ thịt chim. Lần này, ai cũng phải kính phục.
Một ngày nọ, khi sứ giả từ nước láng giềng đến thăm, họ đem theo một câu đố rất khó. Nhà vua tức giận khi biết họ muốn kiểm tra sự thông minh của dân chúng. Đúng lúc đó, tôi nhớ đến cậu bé thông minh đó. Được phép của nhà vua, tôi đưa câu đố đến gặp cậu. Ngạc nhiên, trước câu hỏi khó khăn đó, cậu bé đã giải ngay lập tức. Không chỉ vậy, cậu còn sáng tác thành bài hát:
“Tang tình tang! Tính tình tang!
Bắt con kiến càng buộc chỉ ngang lưng
Bên thời lấy giấy mà bưng
Bên thời bôi mỡ kiến mừng kiến sang…”
Nhờ trí thông minh của cậu bé, triều đình giải được câu đố khó. Sứ giả phải sửng sốt. Sau sự kiện đó, cậu bé được thăng chức làm trạng nguyên trẻ tuổi nhất. Còn tôi, được nhà vua thưởng lớn vì đã tìm ra người tài cho đất nước.
Kể lại câu chuyện Vì Sao Hươu Có Sừng theo lời của Hươu
Tôi là Hươu, cũng như Nai, Hoẵng, Thỏ, chỉ có hai cái tai mềm mại trên đầu. Nhưng so với các bạn, tôi là người nhút nhát nhất. Tôi sợ tối, sợ cả thú dữ.
Dù vậy, tôi được bạn bè quý mến vì tính chăm chỉ và lòng tốt. Một hôm, nghe bác Gấu ốm nặng, tôi xin mẹ cho đến thăm. Khi đến, tôi nghe thấy bác thở yếu ớt:
– Bệnh của bác nặng lắm. Chỉ có loại cây Thảo Huyền mọc ở khe núi sâu mới có thể chữa được.
Tôi ngay lập tức đáp:
– Cháu sẽ chạy nhanh như tên lửa, để cháu vào rừng lấy lá thuốc cho bác.
Không chờ bác Gấu nói gì, tôi chào bác và lên đường ngay. Nhưng con đường rừng đầy hiểm trở, có nhiều thú dữ, tôi cảm thấy sợ hãi. Khi bóng tối phủ kín khu rừng, sợ hãi của tôi càng tăng lên. Tôi lẩn vào một gốc cây khác. Thần cây hiện ra và hỏi:
– Sao đang khóc vậy? Bé có lạc mẹ à?
– Không ạ. Bé muốn vào khe núi để lấy lá Thảo Huyền về cho bác Gấu. Nhưng rừng rộng lớn, có nhiều thú dữ nên bé sợ lắm.
– Sợ thì nên về nhà đi nhanh!
– Nhưng bé không muốn bác Gấu mất đi. Nếu không có thuốc, bác sẽ chết.
Thần cây ân cần hỏi:
– Em là một đứa trẻ có tấm lòng nhân hậu. Đây, ta cho em những cành cây khoẻ mạnh của ta. Em hãy đội lên đầu, sẽ có thêm sức mạnh.
Tôi rối rít cảm ơn Thần cây rồi lên đường. Tôi băng qua suối, qua đèo mà không sợ thú dữ hay bóng đêm nữa. Khi tôi mang lá thuốc về, trời cũng rạng sáng. Tôi thấy muông thú trong rừng đang ngồi vây quanh bác Gấu. Tôi vội đưa lá thuốc cho bác nhai. Thật kỳ diệu, chỉ trong ít phút bác gấu đã khoẻ lại. Tất cả muông thú có mặt đều hỏi:
– Cây thuốc gì mà quý đến thế hở bác?
– Thuốc quý nhưng tấm lòng của Hươu còn quý hơn nhiều. Chính Hươu đã cứu bác đấy – Bác gấu ôn tồn nói.
Khi ấy, tất cả mới để ý đến tôi. Và ai cũng ngạc nhiên khi thấy trên đầu tôi là những cành cây vững chắc. Tôi kể lại đầu đuôi câu chuyện khi gặp Thần cây cho mọi người nghe. Và kỳ lạ chưa, cái cành cây trên đầu tôi đã dính chặt từ bao giờ. Mẹ tôi vuốt ve món quà Thần cây tặng cho tôi và gọi đó là Sừng Hươu.
Từ đó, loài Hươu chúng tôi luôn mang sừng trên đầu để đối phó với thú dữ và tôi không còn nhút nhát như trước nữa.
Kể lại truyện Ba lưỡi rìu theo lời chàng trai nghèo
Tên tôi là Khang, làm nghề tiều phu. Bố mẹ mất sớm, tôi sống một mình trong căn lều nơi bìa rừng. Cuộc sống êm đềm cho đến một ngày tôi gặp sự kiện lạ kỳ.
Hôm đó, tôi vác rìu vào rừng đốn củi như thường. Vô tình làm rơi rìu xuống sông. Nước sâu, sông rộng, khó lấy lại rìu. Rất buồn! Ngày mai, tôi phải làm sao kiếm củi nuôi sống? Cụ già hiền lành xuất hiện và hỏi:
– Sao con khóc nhiều thế?
Tôi kể chuyện cho ông lão nghe một cách trung thực. Nghe xong, ông cười và hứa sẽ tìm lại chiếc rìu cho tôi. Tôi rất vui!
Ông lão lặn xuống sông và chỉ một lát sau, ông nổi lên, cầm một lưỡi rìu bằng vàng sáng lấp lánh. Ông hỏi tôi:
– Cái này có phải là chiếc rìu của con không?
Dù lưỡi rìu đó rất đẹp và có giá trị nhưng không phải của tôi, tôi vẫn kiên quyết từ chối:
– Không! Đó không phải chiếc rìu của tôi ông ạ!
Sau khi nghe tôi kể xong, ông cụ lại lặn xuống sông lần thứ hai. Khi ông nổi lên, ông cầm trên tay một lưỡi rìu bằng bạc lộng lẫy. Ông hỏi như trước:
– Chiếc này có phải là rìu của con không?
Tôi không ngần ngại từ chối ngay:
– Thưa ông, cái này cũng không phải là rìu của con.
Ông cụ không chùn bước, tiếp tục lặn xuống sông một lần nữa. Một lát sau, khi ông ngoi lên, tôi nhận ra chiếc rìu bằng sắt thô cùn, cán rìu nhìn đã cũ. Đó lại chính là chiếc rìu của tôi. Vui mừng, tôi hét lên:
– Xin lỗi, đây mới là chiếc rìu của tôi.
Nghe điều này, ông lão đưa lại chiếc rìu và nói: 'Con là một chàng trai thật thà, không tham lam dù nghèo. Con xứng đáng được thưởng.' Ông tặng cho tôi ba chiếc rìu và biến mất. Tôi biết mình gặp tiên nên cảm tạ rồi về nhà. Nhờ ba chiếc rìu đó, tôi có cuộc sống ấm no và hạnh phúc trọn đời.
Kể lại câu chuyện về Sọ Dừa theo lời chính Sọ Dừa kể
Tôi tên là Sọ Dừa. Hôm nay, tôi muốn kể cho các bạn nghe về cuộc đời của mình.
Cha mẹ tôi là những người nông dân hiền lành và chăm chỉ, sống vui vẻ dù cuộc sống nghèo khó. Tuy nhiên, họ luôn lo lắng vì không có đứa con nào. Một ngày, mẹ tôi uống nước từ chiếc sọ dừa bên gốc cây và sau đó sinh ra tôi. Mẹ rất vui mừng nhưng sau đó cha mất và mẹ phải một mình nuôi tôi. Mặc dù tôi không có chân tay, nhưng mẹ vẫn yêu thương tôi và đặt cho tôi tên là Sọ Dừa.
Sau khi tôi lớn lên và mẹ yếu đuối, tôi xin mẹ cho đến nhà một ông phú chăn bò để giúp mẹ. Ông đồng ý cho tôi làm việc và cả đàn bò đều khỏe mạnh.
Vào những ngày bận rộn, ba cô gái con của ông đến mang cơm cho tôi. Hai chị gái thường hắt hủi tôi, chỉ có cô út hiền lành. Một hôm, khi cô út đến, tôi đang ngồi trên võng. Khi biết cô đến, tôi trở lại hình dạng Sọ Dừa. Cô út yêu thương tôi và tình cảm của tôi dành cho cô ngày càng lớn.
Cuối mùa thu, tôi về nhà và thuyết phục mẹ đến nhà phú ông hỏi vợ. Phú ông đề nghị tôi mang đủ món lễ vật. Tôi động viên mẹ và hứa sẽ lo lắng mọi việc.
Ngày cưới, tôi đã chuẩn bị đầy đủ và cô út đồng ý kết hôn với tôi. Mọi người đều ngạc nhiên khi tôi hóa thân thành chàng trai tuấn tú bên cạnh cô út.
Vợ chồng tôi sống hạnh phúc. Tôi học hành chăm chỉ và đỗ trạng nguyên. Trước khi lên đường đi sứ, tôi tặng vợ một hòn đá lửa, một con dao và hai quả trứng gà để phòng thân.
Ganh tị với những gì vợ tôi có, hai chị vợ tìm cách hại hắn. Họ lôi vợ tôi ra biển, đẩy nàng xuống nước sâu. Nhưng nàng may mắn mang theo những món quà tôi tặng để thoát khỏi nguy hiểm. Nàng dùng con dao mổ bụng cá, lấy lửa nướng thịt cá ăn. Hai quả trứng gà nở thành đôi gà đẹp để làm bạn.
Trở về từ việc đi sứ, tôi tức giận khi biết tin vợ mất tích. Tôi ra đảo tìm thì nghe thấy tiếng gà trống kêu: 'ò… ó… o... Thuyền quan phải rước cô tôi về.'
Khi đưa thuyền vào đảo, thì đó chính là vợ tôi. Chúng tôi mừng vui khi gặp lại nhau. Tôi mời bà con đến nhà mừng, nhưng giấu vợ trong nhà. Hai chị thấy vậy, khấp khởi kể chuyện cô em rủi ro. Sau tiệc, họ mới biết vợ tôi trở về, xấu hổ rời đi.
Từ đó, vợ chồng tôi sống hạnh phúc. Sự biến mất của hai chị vợ là bài học cho những kẻ ích kỷ, tham lam.
Kể lại câu chuyện Sọ Dừa từ lời cô út
Là cô út trong gia đình, tôi gặp một chàng trai tài năng. Khi đi sứ, tôi kể về mối tình giữa mình và Sọ Dừa.
Nhà tôi giàu có nhưng không có con. Sau này, vợ tôi sinh ra một đứa bé dị dạng, được đặt tên Sọ Dừa. Sọ Dừa xin mẹ không vứt mình đi và sống cùng gia đình.
Sọ Dừa không thể làm việc như người bình thường. Nghe mẹ phiền lòng, Sọ Dừa xin được ở chăn bò với cha tôi và được cha đồng ý.
Khi cô út kể chuyện, một phu nhân kể về cuộc sống của mình. Bà uống nước từ sọ dừa và sinh ra Sọ Dừa. Sọ Dừa xin mẹ không vứt mình đi và được mẹ đồng ý.
Sọ Dừa không thể làm việc như người bình thường. Nghe mẹ phiền lòng, Sọ Dừa xin được ở chăn bò với cha tôi và được cha đồng ý.
Sọ Dừa chăm chỉ chăn bò, làm hài lòng cha tôi.
Hai chị tôi thường hắt hủi Sọ Dừa, nhưng tôi luôn tôn trọng cậu.
Một ngày, tôi nghe thấy tiếng sáo từ đồi, phát hiện Sọ Dừa đang thổi sáo.
Sọ Dừa xin cưới vợ, cha tôi đặt điều kiện khó. Không ngờ Sọ Dừa đã đến cùng lễ vật.
Cha hỏi ai muốn làm vợ Sọ Dừa, không ngờ cả ba chị em tôi đều đồng lòng.
Hai chị tôi ghen tức nhưng tôi vui mừng khi cha nhận lễ.
Ngày cưới vui vẻ, nhưng Sọ Dừa không xuất hiện. Tôi hạnh phúc bên chàng trai tôi yêu.
Chồng tôi đỗ trạng nguyên nhưng phải đi sứ, tôi sống cô đơn trên hòn đảo. Gà và đá lửa là người bạn của tôi.
Hai chị tôi đã rủ tôi đi chèo thuyền, nhưng tôi gặp tai nạn. Nhờ trứng gà và đá lửa, tôi sống sót và được cứu ra.
Tôi sống cô đơn trên hòn đảo, nhưng gặp may mắn khi được chồng đón về. Hai chị tôi xấu hổ và biến mất sau sự cố đó.
Một ngày, tôi bị bắt bởi một bà cụ định nấu ốc. Bà ấy thích con ốc xanh của tôi nên quyết định nuôi tôi.
Bà cụ nói: “Con ốc đẹp quá, ta sẽ nuôi con.”
Tôi sống trong nhà bà cụ và giúp bà trong công việc hằng ngày. Bà thấy tôi giúp đỡ nên cảm thấy rất hạnh phúc.
Bà lão giả vờ đi làm và quay lại bắt tôi về, muốn tôi ở lại với bà.
Thương bà cụ, tôi ở lại và không trở về Thủy cung nữa. Hai mẹ con sống hạnh phúc bên nhau từ đó.
Kể câu chuyện Nàng tiên Ốc theo lời của bà cụ
Ta là một bà lão sống một mình trong ngôi nhà nhỏ. Cuộc sống nghèo khổ của ta được kiếm sống bằng cách bắt ốc mò cua hàng ngày. Một hôm, ta bắt được một con ốc xanh đẹp và quyết định nuôi nó.
Mỗi khi ta đi làm về, nhà luôn sạch sẽ, gọn gàng và có cơm sẵn trên bàn. Ta quyết định tìm hiểu người đã giúp mình.
Ta phát hiện ra một người con gái xinh đẹp như tiên sa thường xuất hiện từ chum nước. Ta vô cùng ngạc nhiên và quyết định giữ lại cô ấy.
Ta kêu gọi cô ấy ở lại với mình và cô đã đồng ý.
Cô gái đồng ý. Từ đó, nàng tiên ốc trở thành người phụ nữ yêu của tôi và nhờ có cô, cuộc sống của tôi trở nên rất hạnh phúc.
Kể lại câu chuyện Thạch Sanh theo lời của Lý Thông
Tôi là Lý Thông, một người bán rượu. Một lần, tôi gặp một người vác củi về, tên là Thạch Sanh. Tôi quyết định kết anh em với Thạch Sanh và đưa anh ấy về nhà.
Khi có Thạch Sanh, cuộc sống của tôi dễ dàng hơn. Tôi nhờ Thạch Sanh đi trông miếu thay tôi. Đêm đó, khi thấy chằn tinh, tôi nói với Thạch Sanh rằng đó là con của Vua và bảo anh ấy về. Sau đó, tôi được thưởng làm đô đốc.
Tôi dùng kế lừa để thách thức chằn tinh và nhờ Thạch Sanh giả vờ làm việc của tôi. Tôi được vua khen ngợi và được phong làm đô đốc.
Năm đó, Vua có một người con gái đến tuổi lấy chồng nhưng chưa chọn được ai thích hợp, vua cha quyết định ném cầu kén rể. Nhưng khi công chúa sắp ném cầu thì bị một con đại bàng cắp đi. Thạch Sanh thấy sự việc và bắn trúng đại bàng nhưng đại bàng vẫn bay về hang. Thạch Sanh lần theo vết máu tìm hang của đại bàng.
Tôi được vua cha giao nhiệm vụ đi tìm công chúa và hứa sẽ gả con gái cho tôi, truyền ngôi cho tôi. Tôi tìm đến Thạch Sanh, người đã bắn trúng đại bàng. Thạch Sanh tình nguyện xuống hang sâu tìm công chúa. Nhưng khi cứu công chúa, tôi không thả dây xuống cứu hắn nữa.
Khi công chúa về cung không nói gì, vua cha rất lo lắng. Tôi bị Thạch Sanh vạch mặt và bị sét đánh chết giữa đường vì giữ lời thề kết nghĩa anh em.
Kể lại truyện Cô bé quàng khăn đỏ theo lời của cô bé
Tôi là một cô bé năm nay lên 7 tuổi, tôi rất yêu quý bà ngoại của mình và ngoại tôi cũng vậy, rất yêu thương và lo lắng cho tôi. Một hôm, bà tôi bị ốm, mẹ dặn tôi mang bánh qua biếu bà. Mẹ nhắc nhở tôi đừng đi đường vòng qua rừng vì có nhiều chó sói.
Tôi đồng ý và mang giỏ bánh qua nhà bà theo lời mẹ. Trên đường, những bông hoa rực rỡ và những chú bướm đã làm tôi quên mất lời nhắc của mẹ, đi theo đường rừng. Gặp một bạn sóc nhỏ, nó nhắc tôi nhớ lời mẹ dặn nhưng tôi vẫn cố tình đi đường vòng qua rừng để ngắm hoa.
Trong khu rừng, tôi gặp một con sói và nó hỏi tôi đang đi đâu. Dù sợ hãi, tôi vẫn trả lời một cách thật thà rằng đang đi thăm bà ngoại. Khi sói hỏi nhà bà ngoại đâu, tôi vẫn trả lời thật thà và chỉ dẫn đường cho nó.
- Bà ơi! Sao hôm nay tai bà to thế?
- Tai bà to để bà nghe cháu nói được rõ hơn.
- Thế còn mắt bà, sao hôm nay mắt bà to thế?
Mặc dù tôi là một tảng đá vôi, nhưng cuộc sống của tôi lại rất trường tồn. Tôi không giống như những tảng đá vôi thông thường, bởi vì trong quá khứ, tôi là một con người.
Trong gia đình họ Cao, có hai anh em, tôi và anh trai của tôi. Chúng tôi giống nhau như hai giọt nước, đến mức người ngoài không thể phân biệt ai là anh, ai là em. Mối quan hệ anh em của chúng tôi trở nên thêm sâu đậm sau khi cha mẹ qua đời khi chúng tôi còn rất trẻ.
Mặc dù không được dạy bảo bởi cha mẹ nữa, nhưng chúng tôi vẫn đến ông thầy Lưu để học. Sự chăm chỉ của chúng tôi đã khiến ông thầy yêu quý chúng tôi như con cái. Tôi và anh trai đều đã cảm nhận được sự quan tâm của cô con gái của ông thầy, người có vẻ quan tâm đặc biệt đến chúng tôi. Nhưng mọi thứ đã thay đổi khi anh trai quyết định lấy cô làm vợ.
Cảm thấy cô đơn và bất hạnh, tôi rời đi và lạc vào rừng. Sau một thời gian dài lang thang, tôi kết thúc cuộc hành trình của mình tại một con suối, nơi tôi rơi nước mắt và chết. Anh trai tôi cũng đến đó và gặp cùng số phận tương tự.
Dân làng gọi tôi là đá vôi, anh trai là cây cau, và chị dâu là cây trầu.
Ở nhà, khi chị dâu tôi không thấy chồng hay em gì, chị ta quyết định đi tìm. Cuối cùng, sau nhiều nỗ lực, chị đã tới được con suối trong rừng. Giống như anh em tôi, không thể vượt qua dòng nước, chị ngồi lại bên bờ và nhận ra rằng cây mà chị tựa vào chính là chồng chị. Tôi ước mình có thể nói điều đó cho chị biết. Chị ta than khóc, vật vã. Trong một đêm, chị biến thành một cây leo, ôm chặt cây không cành. Chuyện của chúng tôi trở thành truyền thuyết trong làng, khiến mọi người đều thương xót. Dân làng gọi tôi là đá vôi, anh tôi là cây cau, còn chị dâu là cây trầu. Mong rằng những tình cảm anh em vợ chồng sẽ gắn bó như chúng tôi.