Bài Văn Mẫu Cho Học Sinh Lớp 6: Bài Viết Số 1 (Từ Đề 1 đến Đề 5) Kèm Dàn Ý, Tổng Cộng 31 Bài Văn Mẫu Từ Đề 1 đến Đề 5 của Bài Viết Số 1 Lớp 6, Giúp Cho Các Em Có Thêm Ý Tưởng, Hoàn Thiện Bài Viết Số 1 của Mình Đạt Kết Quả Cao.
Bộ Sưu Tập Các Bài Văn Mẫu Số 1 Lớp 6 Do Các Em Học Sinh Trình Bày Rất Xuất Sắc, Đa Số Đã Nhận Được Các Giải Thưởng Lớn Như Các Kỳ Thi Học Sinh Giỏi Cấp Tỉnh Hay Cấp Quốc Gia. Dưới Đây Là Mời Gọi Cho Các Thầy Cô Giáo và Các Em Học Sinh Cùng Tham Khảo.
Bài Viết Số 1 Lớp 6 Đề 1: Đóng Vai Lạc Long Quân Kể Lại Truyền Thuyết Con Rồng Cháu Tiên
Đề Bài: Kể Lại Một Truyện Đã Biết (Truyền Thuyết, Cổ Tích) Bằng Lời Văn Của Các Em. Kể Lại Câu Chuyện Con Rồng Cháu Tiên.
Kế Hoạch Viết Bài Số 1 Cho Học Sinh Lớp 6 Đề 1
1. Khởi Đầu
Giới Thiệu Sự Sinh Ra, Tài Năng và Các Hành Động Tốt Đẹp Của Lạc Long Quân.
2. Nội Dung Chính
Mô Tả Các Sự Kiện Quan Trọng Sau Đây:
- Sự Kiện Long Quân Gặp Âu Cơ.
- Âu Cơ Sinh Con.
- Long Quân Trở Lại Thủy Cung.
- Long Quân và Âu Cơ Cùng Con Cái Chia Làm Hai Miền Xuôi Ngược.
3. Kết Thúc
Sự Hình Thành Nhà Nước Văn Lang và Các Vua Hùng.
Bài Viết Số 1 Cho Học Sinh Lớp 6 Đề 1 - Mẫu 1
Ta Là Lạc Long Quân, Thuộc Dòng Họ Rồng, Con Trai Của Thần Long Nữ. Gia Tộc Ta Đã Sinh Sống Hàng Ngàn Năm Tại Vùng Đất Lạc Việt. Khi Sinh Ra, Ta Mang Theo Dòng Máu Rồng, Có Sức Mạnh Vượt Trội và Biết Rất Nhiều Phép Lạ. Dòng Họ Rồng Thường Sống Dưới Nước, Chỉ Khi Cần Ta Mới Lên Bề Mặt Đất. Mỗi Khi Lên Bề Mặt Đất, Ta Sử Dụng Phép Thuật Để Đánh Bại Ngư Tinh, Hồ Tinh, Mộc Tinh - Những Loài Yêu Quái Gây Hại Cho Dân Lành. Để Cải Thiện Cuộc Sống Của Nhân Dân, Ta Dạy Họ Nghề Nông, Chăn Nuôi và Cách Sống. Sau Đó, Ta Trở Lại Thủy Cung Báo Hiếu Với Thần Long Nữ - Mẹ Của Ta. Chỉ Khi Có Việc Cần Ta Mới Xuất Hiện.
Một Ngày Đẹp Trời, Trong Lúc Đi Thăm Dân, Ta Gặp Một Người Con Gái Xinh Đẹp Đang Dạo Bước Gần Cung Điện Long Trang. Sau Khi Tìm Hiểu, Ta Biết Nàng Là Âu Cơ, Con Gái Của Thần Nông, Sống Ở Vùng Núi Cao Phương Bắc. Nghe Về Vùng Đất Lạc, Nàng Đến Thăm. Sau Nhiều Lần Trò Chuyện, Ta và Nàng Yêu Nhau Và Kết Hôn, Sống Chung Tại Cung Điện Long Trang.
Ta Rất Hạnh Phúc Khi Âu Cơ Mang Thai. Sau Chín Tháng Mười Ngày, Âu Cơ Sinh Ra Một Trăm Quả Trứng. Kỳ Lạ Là Trứng Nở Ra Một Trăm Đứa Con Trẻ Đẹp, Mạnh Mẽ. Vì Ta Là Rồng, Âu Cơ Là Tiên, Nên Con Của Chúng Ta Sinh Ra Khỏi Bú Mớm Mà Tự Lớn Lên, Mặt Mũi Đẹp Đẽ và Khỏe Mạnh. Khi Có Đàn Con Khỏe Mạnh, Cuộc Sống Của Chúng Ta Ngày Càng Hạnh Phúc và Vui Vẻ. Tuy Nhiên, Trong Lòng Ta Luôn Cảm Thấy Một Nỗi Buồn Không Yên. Đó Là Nỗi Nhớ Quê Hương, Nhớ Sông Nước... Da Diết. Nỗi Nhớ Đó Ngày Càng Lớn Dần Trong Ta. Cuối Cùng, Ta Không Thể Sống Trong Nỗi Nhớ Nhung Nữa, Đành Từ Biệt Vợ Con Để Trở Về Thủy Cung. Thật Đáng Tiếc! Âu Cơ Phải Ở Lại Một Mình Nuôi Con, Chờ Đợi Ta Quay Về. Ta Biết Nàng Buồn Đau Vì Sự Ra Đi Của Ta! Nhưng Ta Không Thể Sống Trên Cạn Lâu Dài. Ta Là Rồng, Ở Miền Nước Thẳm, Nàng Là Tiên, Ở Non Cao. Hai Chúng Ta Khác Biệt Về Tính Cách và Sống Sự. Cuối Cùng, Sau Khi Suy Nghĩ Kỹ Lưỡng, Ta Quyết Định Nói Hết Tâm Sự Với Nàng. Hiểu và Chấp Nhận Khó Khăn Của Ta, Âu Cơ Đồng Ý Đưa Năm Mươi Con Lên Núi, Năm Mươi Con Theo Ta Xuống Biển. Mặc Dù Xa Cách, Nhưng Khi Có Việc, Chúng Ta Luôn Giúp Đỡ Lẫn Nhau và Không Bao Giờ Quên Lời Hẹn Ước.
Với Tài Năng Và Sức Mạnh Của Thần, Người Con Trưởng Của Ta Theo Mẹ Được Tôn Lên Làm Vua, Lấy Hiệu Là Hùng Vương, Đóng Đô Ở Đất Phong Châu, Đặt Tên Nước Là Văn Lang. Trong Triều Đình Có Tướng Văn, Tướng Võ. Những Đứa Cháu Của Ta Sinh Ra Trai Thì Gọi Là Lang, Gái Thì Gọi Là Mị Nương. Con Cháu Ta Thay Phiên Nhau Đời Đời Cai Quản Đất Phong Châu. Hiệu Vùng Vương Được Giữ Đến 18 Đời. Cứ Cha Truyền Con Nối Không Hề Thay Đổi.
Dù Sống Xa Sông Cách Núi Nhưng Con Cháu Của Ta Luôn Tự Nhắc Nhở Nhau Biết Mình Đều Là Con Rồng, Cháu Tiên, Phải Thương Yêu, Giúp Đỡ Nhau Khi Khó Khăn Hoạn Nạn, Làm Cho Nước Nhà Ngày Càng Thêm Phồn Vinh, Hùng Cường.
Bài Viết Số 1 Cho Học Sinh Lớp 6 Đề 1 - Mẫu 2
Thuở Ấy, Đã Lâu Lắm Rồi, Có Lẽ Đến Hơn Bốn Nghìn Năm Về Trước, Lúc Đất Nước Ta Vẫn Còn Hoang Sơ Lắm. Trên Đất Chủ Yếu Là Núi Đồi, Cỏ Cây Hoa Lá Chứ Chưa Có Con Người Đông Đúc Như Bây Giờ. Trên Trời Hay Dưới Nước, Ở Mỗi Vùng Đất Đều Do Các Vị Thần Tiên Cai Quản, Trông Nom.
Là Con Trai Của Thần Long Nữ, Vị Thần Được Thần Trời Giao Cho Cai Quản Vùng Sông Nước Lạc Việt, Cha Mẹ Đặt Tên Cho Ta Là Lạc Long Quân. Được Cha Mẹ Chỉ Dạy Đủ Điều Từ Thủa Ấu Thơ, Lại Thêm Sức Lực Vốn Có Của Giống Rồng, Ta Đã Luyện Được Rất Nhiều Phép Lạ. Khi Còn Trẻ, Ta Thường Hay Xin Phép Đức Long Vương Lên Trần Gian Thăm Thú, Giúp Dân Tiễu Trừ Bọn Yêu Tinh, Dạy Dân Cách Trồng Trọt, Chăn Nuôi, Cách Ăn Ở. Trần Gian Nhiều Cảnh Đẹp Khiến Ta Gắn Bó Như Đang Sống Dưới Thủy Cung.
Một Ngày Nọ, Trong Lúc Thỏa Chí Ngao Du Sơn Thuỷ, Ta Say Hứng Quá Chân Lên Tận Vùng Núi Cao Phương Bắc. Bỗng Ta Gặp Một Thiếu Nữ Xinh Đẹp Tuyệt Trần. Hỏi Ra Mới Biết Nàng Là Âu Cơ, Con Gái Thần Nông. Nghe Nói Vùng Lạc Việt Có Nhiều Hoa Thơm, Cỏ Lạ, Nàng Xin Phép Cha Dạo Bước Đến Thăm. Ta Cùng Âu Cơ Mến Cảnh Hợp Người, Đem Lòng Yêu Thương Rồi Thề Ước Nguyện Cùng Chung Sống Trọn Đời.
Ít Lâu Sau, Âu Cơ Có Mang. Kỳ Lạ Thay! Đến Ngày Sinh Nở, Nàng Sinh Ra Một Cái Bọc Trăm Trứng. Rồi Trăm Trứng Nở Ra Trăm Con Đều Đẹp Đẽ, Hồng Hào Chẳng Cần Bú Mớm Mà Tự Lớn Lên Như Thổi. Vợ Chồng Ta Hết Sức Vui Mừng, Hết Lòng Chăm Chút Cho Đàn Con Nhỏ.
Sống Ở Trần Thế Đã Lâu, Ta Cũng Thấy Nóng Lòng. Ở Thuỷ Cung, Cha Mẹ Đã Già, Công Việc Không Biết Ai Gánh Vác. Trăn Trở Nhiều Lần, Ta Nghĩ: “Âu Cơ Vốn Thuộc Dòng Tiên Hợp Với Non Cao, Ta Lại Là Giống Rồng Quen Sống Nơi Biển Cả; Tính Tình, Tập Quán Hẳn Có Nhiều Cái Khác Nhau Nên Một Cuộc Biệt Ly Trong Nay Mai Khó Là Tránh Khỏi”. Ta Bèn Gọi Trăm Con Cùng Âu Cơ Và Nói:
- Ta Và Nàng Tuy Sống Chưa Lâu Nhưng Nghĩa Tình Đến Sông Cạn Đá Mòn Cũng Không Thay Đổi. Ta Vốn Là Giống Rồng, Nàng Là Giống Tiên, Vậy Khó Mà Tính Kế Dài Lâu Được. Nay Vì Đại Nghiệp Và Vì Sự Mưu Sinh Của Trăm Con, Ta Sẽ Đưa Năm Mươi Con Xuống Biển, Nàng Đưa Năm Mươi Con Lên Núi, Chia Nhau Ra Mà Cai Quản Các Phương Hễ Có Việc Gì Thì Báo Cho Nhau Để Mà Tương Trợ.
Âu Cơ Nghe Thấy Hợp Tình Cũng Đành Nghe Theo, Cuộc Chia Ly Ngậm Ngùi, Da Diết. Ta Đưa Năm Mươi Con Xuống Vùng Đồng Thấp Dạy Các Con Nghề Biển Mà An Cư Lập Nghiệp. Âu Cơ Đưa Các Con Lên Núi Cao, Lập Con Trưởng Làm Vua, Lấy Hiệu Là Hùng Vương, Đóng Đô Ở Đất Phong Châu, Đặt Nước Hiệu Là Văn Lang, Truyền Đời Nối Ngôi Đều Lấy Hiệu Hùng Vương, Không Hề Thay Đổi.
Sau Đó Rất Lâu, Ta Và Âu Cơ Không Gặp Lại Nhau Nhưng Tình Nghĩa Vẫn Không Phai. Hơn Thế, Nghĩa “Đồng Bào” Trong Trăm Con Ta Cũng Không Thay Đổi. Bởi Thế Cho Nên Đến Tận Ngày Nay, Trên Đất Nước Ta Dẫu Có Tới Trên Năm Mươi Dân Tộc, Nhưng Đều Là Anh Em Ruột Thịt Một Nhà.
Bài Viết Số 1 Lớp 6 Đề 1 - Mẫu 3
Ngày Ấy, Đất Nước Ta Còn Hoang Sơ Lắm. Chưa Có Con Người Đông Đúc Như Bây Giờ, Chỉ Có Các Vị Thần Tiên Cai Quản Đất Đai, Trông Coi Mọi Việc. Bà Nữ Oa Lo Việc Chống Trời, Thần Nông Trồng Lúa, Thần Núi Vun Đất Thành Núi Đồi, Thần Sông Lo Việc Tưới Tiêu... Bởi Thế Nên Dân Gian Mới Có Câu Hát:
“Ông Tát Bể
Ông Kể Sao
Ông Đào Sông
Ông Xây Rú (Núi)…”
Các Vị Thần Trên Trời Và Các Vị Thần Dưới Nước Cũng Không Xa Cách Như Bây Giờ Mà Thường Xuyên Qua Lại, Thăm Hỏi Lẫn Nhau.
Lúc ấy, Ta Còn Rất Trẻ, Chỉ Vừa Mười Tám Đôi Mươi. Lòng Khao Khát Khám Phá Thế Giới, Ta Thường Xin Phép Đức Long Vương (Cha Ta) Lên Trần Gian Ngao Du Sơn Thuỷ. Cảnh Đẹp Cùng Bao Hoa Thơm Trái Ngọt Chốn Trần Gian Làm Ta Say Mê, Nhiều Khi Quên Cả Đường Về. Cha Ta Nhiều Lần Phải Cho Người Lên Tìm. Không Ít Lần Người Đã Trách Mắng Nhưng Ta Khó Lòng Xa Cách Hẳn Được Chốn Trần Gian Đẹp Như Vậy.
Một Lần Ta Vui Chân Đi Quá Lên Thượng Nguồn, Bỗng Bắt Gặp Một Người Con Gái Đẹp Tuyệt Trần Đang Đi Dạo Giữa Bầy Tiên Nữ. Hỏi Ra Mới Biết Nàng Tên Là Âu Cơ, Con Gái Út Của Vị Thần Nông Trên Trời Chuyên Lo Việc Trồng Cấy. Nàng Cũng Như Ta, Vô Cùng Thích Thú Trước Cảnh Đẹp Chốn Trần Gian. Mến Cảnh Mến Người, Ta Và Nàng Cùng Nhau Thề Nguyền Chung Thuỷ, Lấy Sợi Chỉ Đỏ Buộc Hai Cổ Tay Để Làm Lễ Xe Tơ Kết Tóc.
Chẳng Bao Lâu Sau, Âu Cơ Có Mang. Đủ Ngày Đủ Tháng Nàng Sinh Ra Một Cái Bọc, Trong Có Một Trăm Trứng, Sau Đó Một Trăm Trứng Lại Nở Ra Một Trăm Người Con Dung Mạo Đẹp Đẽ, Tính Nết Vừa Mạnh Mẽ Vừa Hiền Hoà. Chúng Ta Vô Cùng Mừng Rỡ. Mải Vui Hạnh Phúc, Ta Quên Mất Mình Còn Một Vương Quốc Dưới Thuỷ Cung. Đã Lâu Ta Không Về Dưới Ấy, Chắc Cha Ta Mong Ta Lắm. Ta Đang Định Về Ít Ngày Rồi Quay Lên Thì Có Sứ Giả Lên Báo Gấp: Cha Ta Đang Ốm Nặng, Có Lẽ Không Qua Khỏi, Ta Phải Về Ngay Để Gánh Lấy Trọng Trách Lớn Lao.
Biết Giờ Phút Chia Tay Đã Điểm, Ta Bèn Gọi Các Con Lại, Sau Đó Nói Với Âu Cơ Rằng:
- Âu Cơ Nàng Hỡi! Ta Và Nàng Gắn Bó Bấy Nay, Thời Gian Tuy Chưa Nhiều Nhưng Nghĩa Tình Thì Nước Ở Dòng Sông Này Dẫu Có Chảy Đến Một Nghìn Năm Cũng Không Sánh Nổi. Nay Ta Vì Đại Sự Mà Phải Trở Về. Hơn Nữa, Ta Là Giống Rồng, Nàng Là Giống Tiên, Sống Với Nhau Suốt Đời Kể Cũng Không Thể Được. Vậy Ta Sẽ Đem Năm Mươi Con Xuống Miền Biển Xa, Để Lại Cho Nàng Năm Mươi Đứa. Nàng Hãy Cùng Các Con Cai Quản Rừng Núi. Nếu Có Chuyện Gì Thì Báo Cho Nhau Biết, Anh Em Trong Nhà Phải Hỗ Trợ Nhau.
Nói Xong, Ta Đưa Năm Mươi Người Con Xuống Vùng Đồng Bằng Ven Biển. Sau Khi Dạy Các Con Cách Đắp Đê Ngăn Mặn, Trồng Cấy, Đánh Cá… Ta Về Cai Quản Thế Giới Dưới Long Cung.
Dù Xa Cách Nhưng Ta Vẫn Biết, Sau Khi Ta Ra Đi, Âu Cơ Đã Cử Con Trưởng Lên Làm Vua, Hiệu Là Hùng Vương, Đóng Đô Ở Đất Phong Châu, Lại Đặt Tên Nước Là Văn Lang. Nàng Chia Những Người Con Còn Lại Đi Trấn Giữ Các Nơi, Lập Thành Các Tộc Người Như Tày, Nùng, Thái, Mèo, Lô Lô…
Thế Đấy Các Cháu Ạ. Dòng Dõi Người Việt Là Dòng Dõi Rồng Tiên, Các Cháu Đừng Bao Giờ Quên Nguồn Gốc Tổ Tiên Cao Quý Của Mình.
......
Bài Viết Số 1 Lớp 6 Đề 2: Kể Lại Một Câu Chuyện Cổ Tích Sọ Dừa
Nhiệm Vụ: Kể Lại Một Câu Chuyện Cổ Tích Bằng Lời Văn Của Em (Sọ Dừa).
Dàn Ý Bài Viết Số 1 Lớp 6 Đề 2
A. Mở Bài: Kể Về Hoàn Cảnh Gia Đình Và Sự Mang Thai Kỳ Lạ Của Mẹ Sọ Dừa.
B. Thân Bài:
- Kể Về Các Sự Việc Chính Sau:
- Sọ Dừa có hình dáng kỳ lạ.
- Sọ Dừa làm công việc ở nhà của một người giàu có.
- Em út phát hiện ra Sọ Dừa là một chàng trai đẹp trai.
- Sọ Dừa yêu cầu mẹ sang hỏi con gái của người giàu có.
- Sọ Dừa và em út kết hôn và sống hạnh phúc với nhau.
C. Kết bài: Sọ Dừa và vợ gặp nhau và hai chị em xấu hổ rời đi xa.
Bài viết số 1 lớp 6 đề 2 - Mẫu 1
Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam, có rất nhiều câu chuyện cổ tích đặc sắc. Mỗi câu chuyện cổ tích đều chứa đựng một bài học quý báu về đạo lý sống.
Nhờ lời kể của bà, câu chuyện về Sọ Dừa luôn in sâu trong tâm trí em. Ngày xưa, có một cặp vợ chồng nông dân nghèo phải làm việc cho một ông giàu có. Họ luôn hiền lành và siêng năng, nhưng mãi đến khi họ bước sang tuổi năm mươi, họ vẫn chưa có được một đứa con.
Một ngày nắng, người vợ vào rừng hái củi. Khát nước mà không tìm thấy suối nào, bỗng nhìn thấy một chiếc sọ dừa chứa nước mưa dưới gốc cây to. Bà uống ngay cho giảm khát. Sau đó, về nhà, bà mang thai.
Không lâu sau đó, người chồng qua đời. Bà sinh ra một đứa con không có cánh tay, chân nhưng nhỏ xíu như quả dừa. Bà buồn và suy nghĩ vứt bỏ nó đi, nhưng đứa bé nói:
– Mẹ ơi! Con cũng là con người mà! Đừng bỏ con, mẹ ạ.
Thương con, bà quyết định giữ lại và đặt tên là Sọ Dừa.
Lớn lên, Sọ Dừa vẫn như ngày bé, lăn bên cạnh mẹ, không thể làm gì nổi. Bà phiền lòng và cau mày. Sọ Dừa nhận ra và cầu xin mẹ:
– Chăn bò con cũng là việc dễ. Mẹ nói với ông già để con chăn bò nhé!
Nghe lời con, bà quyết định đến hỏi ông già. Ban đầu, ông già ngần ngại vì hình dáng của Sọ Dừa, nhưng nghĩ việc nuôi con ít tốn cơm và công việc cũng ít nên ông đồng ý.
Từ đó, Sọ Dừa đến ở nhà ông già. Cậu làm việc chăm chỉ và giỏi chăn bò. Mỗi ngày, cậu dẫn đàn bò ra đồng và khi tối về, cậu đưa đàn bò về nhà, đàn bò mập mạp ra trông.
Vào mùa, tôi tớ làm hết việc, ông già sai ba cô con gái thay phiên nhau mang cơm cho Sọ Dừa. Hai cô chị kiêu căng và tàn nhẫn, thường ám chỉ và trêu chọc Sọ Dừa, chỉ có cô em hiền lành và tử tế, đối xử với Sọ Dừa rất tốt.
Một ngày, như mọi ngày, cô em út mang cơm cho Sọ Dừa. Từ xa, cô nghe thấy tiếng sáo êm đềm. Cô lén trốn sau bụi cây và nhìn thấy một chàng trai tuấn tú ngồi trên võng đàn hát sáo cho đàn bò ăn cỏ. Nhưng khi nghe thấy tiếng động, chàng trai biến mất, chỉ thấy Sọ Dừa nằm đó. Từ đó, cô út hiểu Sọ Dừa không phải là người bình thường, dần dần phải lòng và thường giấu thức ăn ngon cho chàng trai.
Một ngày, Sọ Dừa đến thúc giục mẹ đi hỏi con gái của phú ông làm vợ. Bà cụ bất ngờ lắm, nhưng sau khi thấy con nài nỉ mãi, bà cũng đành lòng.
Mẹ của Sọ Dừa đi hỏi, phú ông cười khẩy:
– Nếu muốn hỏi con gái ta, hãy mang đến đủ một chục chĩnh vàng cốm, mười tấm vải lụa đào, mười con lợn béo, mười vò rượu tăm mang sang đây.
Bà cụ về, nghĩ là con sẽ từ bỏ, nhưng Sọ Dừa lại nói rằng sẽ có đủ lễ vật. Không ngờ, vào ngày hẹn, nhà không chỉ có đầy lễ vật mà còn có cả gia đình cùng mang đồ lễ sang nhà phú ông. Phú ông rất ngạc nhiên và gọi ba con gái ra hỏi ý. Hai cô chị trách móc Sọ Dừa xấu xí, chỉ có cô út là chấp nhận. Phú ông đành chấp nhận lễ vật và cho cô út làm vợ cho Sọ Dừa.
Trong ngày cưới, Sọ Dừa sắp đặt bàn tiệc rất tinh tế, gia đình chạy ra chạy vào vui vẻ. Khi rước dâu, không ai nhận ra Sọ Dừa xấu xí nữa, chỉ thấy một chàng trai tuấn tú đứng bên cạnh cô út. Mọi người đều bất ngờ và hạnh phúc, chỉ có hai cô chị vừa ghen tỵ vừa tiếc nuối.
Ghen tị với em, hai cô chị âm thầm sát hại cô em để thay vào làm bà Trạng. Sang nhà chơi, hai cô chị thúc cô em ra biển rồi đẩy xuống nước. Một con cá kình to nuốt cô út. Nhờ có con dao, cô đâm chết cá, xác cá trôi vào bờ đảo, cô dùng dao xẻ bụng cá lấy cô ra. Cô nướng cá sống trên bàn đá, chờ thuyền qua đảo cứu. Sống trên đảo một thời gian, hai quả trứng cũng nở ra hai con gà đẹp làm bạn với cô.
Sọ Dừa là một câu chuyện cổ tích ý nghĩa, nhắc nhở chúng ta về lòng nhân hậu, nhận được hạnh phúc khi làm việc tốt và chịu đau khổ khi ác hành. Chúng ta phải sống nhân từ, tránh xa tham lam và ích kỉ để không gặp báo ứng.
Một ngày, khi có thuyền đi qua đảo, con gà trống nhìn thấy và gáy ba lần:
- Ò… ó… o... Thuyền qua đây, đón chị về.
Quan trạng cho thuyền vào thăm, hai vợ chồng gặp nhau, vui vẻ hạnh phúc. Sau đó, quan trạng mở tiệc mừng, mời bà con đến chia vui, nhưng giấu vợ trong nhà không cho ai biết. Hai cô chị hồi hộp vui mừng, kể chuyện cô em út rủi ro, tỏ vẻ thương tiếc. Quan trạng không nói gì, sau tiệc mới mời vợ ra. Hai cô chị thấy cô em xấu hổ quá, lén rời đi và từ đó biệt xứ.
Bài viết lớp 6 đề 2 - Mẫu 2
Xưa kia, có hai vợ chồng làm nông nghèo đi ở cho một phú ông. Họ hiền lành, chăm chỉ nhưng đã qua năm mươi tuổi mà chưa có một đứa con.
Một ngày, người vợ đi rừng hái củi. Trời nắng chói chang, khát nước, thấy một cái sọ dừa đựng nước mưa dưới gốc cây to, bà bèn uống. Về nhà, bà có thai.
Ít lâu sau đó, người chồng qua đời. Bà sinh ra một đứa con không có chân tay, tròn tròn như một quả dừa. Bà buồn và suy nghĩ vứt bỏ nó, nhưng đứa bé lên tiếng.
- Mẹ ơi! Con là người đấy! Đừng bỏ con, thương con đi. Bà lão xót xa để con ở lại và đặt tên là Sọ Dừa.
Lớn lên, Sọ Dừa vẫn như cũ, chỉ biết lăn lông lốc mà không làm được gì. Bà mẹ phiền lòng lắm. Sọ Dừa biết vậy, xin mẹ để con chăn bò cho nhà phú ông.
Nghe đến việc Sọ Dừa, phú ông do dự. Nhưng nghĩ rằng nuôi nó ít tốn cơm, công sức chăn bò lại không nhiều, phú ông đồng ý. Nhưng cậu chăn bò rất giỏi. Ngày ngày, cậu đưa đàn bò ra đồng, tối về lại dẫn đàn bò về nhà. Cả đàn bò, mỗi con đều no căng. Phú ông vui mừng lắm!
Vào ngày mùa, tôi tớ ra đồng làm việc hết sức, phú ông sai ba cô con gái thay phiên nhau mang cơm cho Sọ Dừa. Trong những lần như thế, hai cô chị kiêu căng, ác nghiệt thường hắt hủi Sọ Dừa, chỉ có cô em hiền lành lại đối đãi với Sọ Dừa rất tốt.
Một ngày, đến lượt cô út mang cơm cho Sọ Dừa. Đến gần chân núi, cô nghe thấy tiếng sáo véo von. Rón rén đi tới, cô thấy một chàng trai tuấn tú đang ngồi trên chiếc võng đào thổi sáo cho đàn bò ăn cỏ. Nhưng khi chàng trai đứng dậy, mọi thứ biến mất, chỉ thấy Sọ Dừa nằm lăn lóc ở đó. Nhiều lần như vậy, cô út hiểu rằng Sọ Dừa không phải là người bình thường và từ đó lòng cô ùa vào.
Cuối mùa ở nhà thuê, Sọ Dừa quay về nhà giục mẹ đi hỏi con gái phú ông làm vợ. Bà lão rất ngạc nhiên, nhưng thấy con nài nỉ mãi, bà cũng đành chiều lòng.
Khi thấy mẹ Sọ Dừa đến gặp, phú ông cười khẩy:
- Nếu muốn hỏi con gái tôi, hãy mang đủ một chĩnh vàng cốm, mười tấm lụa đào, mười con lợn béo, mười vò rượu tăm sang đây.
Bà lão buộc phải về, nghĩ rằng cuối cùng phải từ bỏ ý định. Nhưng đúng vào ngày hẹn, bất ngờ trong nhà có đầy đủ mọi lễ vật, và còn có cả gia đình dưới nhà chạy lên khiêng lễ vật sang nhà phú ông. Phú ông rất ngạc nhiên và lúng túng gọi ba con gái ra hỏi ý. Hai cô chị trườn trọc chê bai Sọ Dừa xấu xí rồi lẳng lặng rời đi, chỉ có cô út là cúi đầu và e lệ tỏ ý đồng ý.
Trong ngày cưới, Sọ Dừa bày cỗ cực kỳ tráng lệ, gia đình và bạn bè náo nhiệt. Khi rước dâu, không ai nhìn thấy Sọ Dừa xấu xí đâu, chỉ thấy một chàng trai tuấn tú đứng bên cô út. Mọi người đều bất ngờ và mừng rỡ, còn hai cô chị thì vừa tiếc nuối vừa ghen tức.
Từ thời điểm đó, hai vợ chồng Sọ Dừa sống hạnh phúc bên nhau. Không chỉ vậy, Sọ Dừa còn tỏ ra rất thông minh. Anh ấy dày công đọc sách và cuối cùng, Sọ Dừa đã đỗ trạng nguyên. Tuy nhiên, không lâu sau đó, Sọ Dừa được vua phái đi sứ. Trước khi ra đi, anh ấy trao cho vợ một viên đá lửa, một cái dao và hai quả trứng gà, nói rằng đó là để bảo vệ bản thân.
Ghen tị với em, hai cô chị nuối tiếc sinh lòng đố kỵ và âm mưu hại em để chiếm vị trí của bà trạng. Khi quan trạng đi vắng, hai chị kẻo kề sang rủ cô em út ra biển rồi đẩy em xuống nước. Em út bị con cá kình nuốt vào bụng, nhưng may mắn có con dao để thoát khỏi nguy hiểm. Em được đưa lên một hòn đảo, dùng dao khoét bụng cá để thoát ra, rồi dùng đá tạo lửa để nướng cá ăn. Sống trên đảo được vài ngày, cặp gà cũng nở thành một cặp gà đẹp để làm bạn cùng em.
Một ngày, khi có chiếc thuyền đi qua đảo, con gà trống nhìn thấy và bắt đầu gáy lớn:
Ò... ó... o
Thuyền ơi, hãy đưa cô tôi trở về.
Khi thuyền đến, ngạc nhiên phát hiện đó là vợ mình. Hai vợ chồng gặp nhau, vui mừng nhưng cũng đầy nuối tiếc. Mang vợ về nhà, quan trạng tổ chức tiệc mừng mừng, mời bà con đến chia vui, nhưng giấu vợ trong nhà không cho ai biết. Hai cô chị thấy vậy, mừng rỡ nhưng cũng ganh tị, tranh nhau kể chuyện về cô em gặp nạn, tỏ vẻ thương tiếc. Quan trạng không nói gì, cho đến khi tiệc kết thúc mới đưa vợ ra. Hai cô chị thấy cô em xấu hổ, lén rời đi và từ đó biệt lập khỏi gia đình.
Bài viết số 1 lớp 6 đề 2 - Mẫu 3
- Ò ó o… o!
Nghe tiếng gà gáy, cô út tỉnh giấc. Mất một lúc để cô hiểu tình hình hiện tại. Cô vừa thoát khỏi bụng cá mập, đang một mình trên hòn đảo hoang, chỉ có đôi gà làm bạn.
Cô nhớ lại từng khoảnh khắc, bắt đầu từ ngày kỳ lạ ấy. Dù hai cô chị không chịu chia sẻ cơm với Sọ Dừa, cô vẫn quyết định đến. “Mặc dù xấu xí nhưng anh ấy biết nói, thậm chí còn rất dễ thương” – cô nghĩ.
Từ xa, cô nghe tiếng sáo vang vọng trong không gian. Lạ lùng! Ai đang thổi sáo thế nhỉ? Liệu có phải Sọ Dừa không? Nhưng anh ấy làm thế nào để thổi sáo được nhỉ? Cô vẫn nhớ ngày Sọ Dừa đến nhà. Anh ta trông thật hài hước, lăn lông lốc như quả bí nhưng lại khéo léo khi ăn nói. Hai cô chị thấy Sọ Dừa là quay đi, chỉ có cô cảm thấy thương nhớ những đặc điểm lạ lùng của anh chàng, đặc biệt khi thấy anh làm việc siêng năng, chăm sóc đàn bò sao mà tận tâm. Cô lên đưa cơm không chỉ vì sợ anh chưa ăn mà còn muốn ngắm nhìn cách anh làm việc.
Khi đến gần hơn, cô út càng bất ngờ hơn. Làm sao có cái võng treo ở đó, và ai đang nằm trên đó thổi sáo? Liệu đó có phải là anh em của Sọ Dừa không? Và Sọ Dừa đâu rồi?
Trong lúc suy tư, cô út vô tình đụng vào một cành cây khô làm tiếng động. Cô ngẩng đầu lên và bất ngờ không thấy ai cả. Chỉ thấy Sọ Dừa, trước đây không ở đó, giờ lại nằm dưới gốc cây cười toe toét:
- Chào cô út! Cô đến mang cơm cho tôi hay để thăm tôi?
Cô út không trả lời ngay vì đang hoang mang. Cô hỏi:
- Chàng trai nằm trên võng thổi sáo đã đi đâu rồi?
Sọ Dừa từ chối ngay:
- Có lẽ cô nhìn nhầm đấy, tôi đang ở đây suốt thời gian, không có ai thổi sáo cả!
Cô út không tin mình nhìn nhầm. Cô bỗng nảy ra một ý nghĩ kỳ lạ. Phải rồi, nếu Sọ Dừa vẫn như vậy thì làm sao có thể chăm sóc được đàn bò, lại còn chàng trai trẻ, và cái võng vừa mới thấy mà giờ đã biến mất… Cô không cần hỏi thêm, đưa cơm cho Sọ Dừa và vui vẻ trở về.
Khi phú ông hỏi các con gái ai sẵn lòng lấy Sọ Dừa, ông nghĩ đó chỉ là câu hỏi để từ chối một cách tế nhị. Chắc chắn không có cô gái nào đồng ý lấy một người kỳ quặc, xấu xí như Sọ Dừa. Cô út đã khiến ông bố ngạc nhiên:
- Cha ơi, đâu là chỗ của cha, con xin ngồi đây ạ!
Hai cô chị khẽ nheo mắt, chê em gái sao lại ngốc nghếch. Phú ông tức bầm gan tím ruột, nhưng đã hứa với bà mẹ, không thể rút lui. Ông chỉ biết hẹn ngày dẫn cô út đi lễ đường. Dù thử thách nặng nề, cô út tin rằng người chồng tương lai của mình sẽ làm được. Và Sọ Dừa không chỉ mang đồ cưới đến đúng hẹn mà còn có rất nhiều người hầu theo khiến mọi người đều ngạc nhiên: Ai đã từng thấy ai được vào nhà Sọ Dừa như vậy?
Trong lúc tiệc cưới diễn ra sôi nổi, cô bước vào nhà, nhẹ nhàng thầm thì:
- Anh ơi, xuất hiện đi, người chồng yêu quý của em!
Sọ Dừa mỉm cười, bảo cô quay mặt đi và nhắm mắt lại. Khi cô mở mắt, trước mặt xuất hiện chàng trai trẻ như hôm nào. Hai người cùng bước ra chào mừng khách. Mọi người đều bất ngờ, hai người phải giải thích mãi, thậm chí Sọ Dừa còn phải thể hiện phép thuật lại, mọi người mới tin rằng đó là sự thật. Đám cưới trở nên vui vẻ và ấm áp hơn bao giờ hết.
Sọ Dừa xuất sắc trong học tập, đỗ trạng nguyên và được vua giao công việc sứ giả ở nước ngoài, để cô ở lại. Nhưng cô không ngờ rằng hai bà chị của mình lại ghen tức khi thấy cô có được một người chồng trẻ đẹp, tài năng. Họ âm mưu hại cô bằng cách đưa cô ra biển rồi đẩy cô xuống nước. May mắn thay, Sọ Dừa đã biết trước và đã chuẩn bị sẵn một con dao, một quả trứng gà và một hòn đá lửa cho cô. Nhờ có con dao, cô đã cứu mình khỏi con cá to béo bơi qua và nuốt cô vào bụng. Sau đó, cô đã sử dụng con dao để cắt bụng con cá, thoát ra ngoài và dùng lửa để nướng thịt cá. Cuối cùng, cô còn có con gà để làm bạn bên cạnh.
Một ngày nọ, khi cô đang bận rộn nướng cá thì con gà trống đột nhiên gáy vang:
- Ò. ó. o…phải thuyền quan trạng, đón cô về nhà!
Cô vội vàng bỏ lại cá để chạy ra ngoài. Quả nhiên, đó là chồng của cô đang trở về từ công việc sứ giả. Anh nghe tiếng gà gáy và thấy hình bóng giống vợ mình nên đã cho thuyền ra đón. Hai vợ chồng gặp nhau, vừa mừng vừa buồn.
Nghe chồng bảo, khi gần đến nhà, cô lẻn vào trong khoang thuyền. Khi nghe hai bà chị kể về việc cô bị mắc kẹt trong cái chết đáng tiếc, cô mới bước ra. Hai cô chị thấy cô xuất hiện, cảm thấy ngượng ngùng và rồi im lặng rời đi.
Hai vợ chồng sống hạnh phúc bên nhau suốt cuộc đời.
......
Bài viết số 1 lớp 6 đề 3: Kể lại câu chuyện Sơn Tinh, Thủy Tinh
Đề bài: Hãy tái hiện lại truyền thuyết về Sơn Tinh và Thủy Tinh bằng cách kể lại với lời văn của bạn.
Dàn ý bài viết số 1 lớp 6 đề 3
I. Khai mạc
- Trong triều đại của vua Hùng Vương thứ 18, có một công chúa tên là Mị Nương.
- Vua quyết định tìm kiếm một người con rể xứng đáng cho công chúa.
II. Nội dung chính
1. Hai ứng viên tài năng đến cầu hôn
a. Sơn Tinh
- Dân cư sinh sống tại vùng Tản Viên.
- Nổi tiếng với khả năng tạo ra đất đồi, núi non.
b. Thủy Tinh
- Người cư ngụ gần biển.
- Năng khiếu: Gọi gió, triệu mưa.
c. Hùng Vương phân vân
- Vua Hùng phân vân không biết chọn ai vì cả hai đều có tài năng.
- Quyết định: Người nào mang đến lễ vật sớm nhất sẽ được cưới Mị Nương.
- Lễ Vật: Voi có chín ngà, gà có chín cựa, ngựa có chín lông đỏ.
2. Trận chiến khốc liệt
a. Nguyên do
- Sơn Tinh đến trước, đón dâu về núi.
- Thủy Tinh đến muộn, tức giận, quyết định cướp lại Mị Nương.
b. Phát triển của cuộc giao tranh
- Thủy Tinh tiến công: Gây ra cơn bão, lũ lụt sông.
- Sơn Tinh phản kích: Dời núi, xây thành lũy, nước lên bao nhiêu, núi cao bấy nhiêu.
- Trận chiến kéo dài mấy tháng. Thủy Tinh không thể chịu đựng nổi, phải rút quân.
III. Kết thúc
Mỗi năm, Thủy Tinh nhớ về thù hận cũ, dùng nước tấn công Sơn Tinh. Nhưng mỗi năm lại như vậy, không thể đánh bại được, chỉ biết rút quân về.
Bài viết số 1 lớp 6 đề 3 - Mẫu 1
Trong các câu chuyện thần thoại, câu chuyện mà tôi thích nhất là “Sơn Tinh Thủy Tinh”, đây là câu chuyện giải thích hiện tượng mưa lũ xảy ra hàng năm ở nước ta và là một câu chuyện hấp dẫn, đáng để đọc.
Hùng Vương thứ mười tám có một con gái tên là Mị Nương, nàng xinh đẹp như hoa, tính cách hiền lành. Theo truyền thuyết, công chúa có làn da trắng như tuyết, mái tóc dài mượt như nước suối chảy, đôi mắt sáng long lanh như những ngôi sao trên bầu trời. Vua yêu quý con gái mình hết mực, muốn chọn cho nàng một người chồng xứng đáng. Khi công chúa đến tuổi lấy chồng, vua ra lệnh mở cuộc tìm chồng cho công chúa. Các anh hùng từ khắp nơi đổ về, toàn là những người tài giỏi, hào hoa hiện thân nhưng đã mấy tháng mà vẫn chưa có ai chinh phục được trái tim của vua.
Một ngày nọ, hai chàng trai đến cầu hôn. Một người cao to, vạm vỡ, giọng nói như sấm vang trong rừng, đôi mắt tỏa sáng như ánh sáng của chim ưng, tự xưng là Sơn Tinh, vị quản lý của vùng núi Tản Viên. Người còn lại phát ra hơi thở của biển cả, vóc dáng tựa như những con sóng to bạt ngàn, tự xưng là Thủy Tinh, người cai trị trên biển lớn. Cả hai xin phép vua Hùng để thi đấu trước mặt. Sơn Tinh có tài dời núi dập đất, chỉ cần vung tay về phía đông, đông biển lại nổi sóng, vung tay về phía tây, tây biển lại nổi sóng. Thủy Tinh cũng không kém cạnh, chỉ cần hô một tiếng, mưa gió đều xuất hiện, vung tay một cái, dù có bão cũng yên bình. Cả hai đều có tài năng, cao quý, đều xứng đáng làm rể của vua, nhưng vua Hùng phải đưa ra quyết định:
- Cả hai đều ấn tượng, nhưng ta chỉ có một con gái, phải làm sao? Thôi thì ngày mai ai đến trước với quà, ta sẽ gả con gái cho.
Hai chàng trai hỏi vua Hùng cần chuẩn bị những gì, vua Hùng trả lời: “Một trăm ván cơm nếp, một trăm tệp bánh trưng, voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao, mỗi thứ một đôi không được thiếu cái gì.”
Ngày hôm sau, sáng sớm, Sơn Tinh mang lễ vật đến trước nên được đón Mị Nương về, Thủy Tinh đến sau, không cưới được Mị Nương nên dùng quân đánh Sơn Tinh để đòi lại Mị Nương.
Thần hô những tiếng vang trời làm mưa gió ùn ùn kéo đến mỗi lúc một lớn làm rung chuyển cả đất trời. Nước sông dâng lên cuồn cuộn chảy làm ngập ruộng đồng, nhà cửa, nhấn chìm mọi đất đai, dâng lên lưng chừng đồi. Cả thành Phong Châu ngập trong biển nước. Từ dưới mặt nước, những con thủy quái, bạch tuộc, thuồng luồng, cá sấu,… bắt đầu hiện lên trực chờ, chúng va vào chân núi, phun nước trắng xóa như khiêu khích đối thủ. Sơn TInh không hề nao núng, chàng bốc từng quả đồi, dời từng dãy núi, sơ tán nhân dân. Nước của Thủy Tinh dâng cao đến đâu, núi của Sơn Tinh lại dâng cao đến đấy. Chàng đưa tay ngang miệng huýt một hồi sáo dài, từ trong rừng thẳm, nào là voi, hươu, hổ, báo, gấu,… nườm nượp kéo tới, chúng kéo những hòn đá nặng tảng một ném xuống đè chết lũ thủy quân bên dưới. Hai bên chiến đấu lâu nhưng Sơn Tinh vẫn kiên định, sức lực Thủy Tinh cạn kiệt. Thần Nước phải rút quân, phần thắng thuộc về Sơn Tinh và nhân dân trở lại cuộc sống bình yên. Từ đó, oán nặng, thù sâu, hằng năm, Thủy Tinh vẫn dâng nước đánh Sơn Tinh, nhưng năm nào cũng vậy, Thủy Tinh lại phải thất bại quay về.
Câu chuyện đã theo nhân dân ta cả nghìn đời nay, là sự chứng minh cho chiến thắng của nhân dân hàng năm, cho dù lũ lụt xảy ra nhưng vẫn phải rút, giống như Thủy Tinh có đem nước đánh Sơn Tinh bao nhiêu lần vẫn không thể đánh thắng.
Bài viết số 1 lớp 6 đề 3 - Mẫu 2
Vua Hùng thứ mười tám có một cô con gái tên Mị Nương, xinh đẹp tuyệt trần. Vua yêu quý con gái mình và muốn tìm cho Mị Nương một người chồng phù hợp.
Mị Nương trưởng thành lên và càng ngày càng xinh đẹp. Khi đến tuổi lấy chồng, nhiều chàng trai tài giỏi đã mong muốn kết hôn với cô. Tiếng tăm về vẻ đẹp và phẩm chất của Mị Nương lan tỏa xa ngàn dặm đến núi Tản Viên, nơi Sơn Tinh - vị thần cai quản núi rừng và đất đai. Một ngày, Sơn Tinh quyết định đến để cầu hôn Mị Nương, cưỡi trên một chú hổ trắng oai phong lẫm liệt. Cũng vào ngày đó, Thuỷ Tinh - vị thần cai quản biển cả, cũng đến để cầu hôn Mị Nương, cưỡi trên một chú rồng nước uy nghi to lớn. Vua Hùng phải đắn đo suy nghĩ, vì ai cũng tài giỏi, không biết gả con gái cho ai. Cuối cùng, vua quyết định cho hai người thi đấu, người chiến thắng sẽ được lấy Mị Nương. Ngay lập tức, Thuỷ Tinh gọi mưa gió, sấm chớp nổ vang cả thành Phong Châu, gây ra lũ lụt kinh hoàng, khiến cho mọi người, kể cả vua Hùng, sợ hãi. Sơn Tinh cũng không chịu kém cạnh, chỉ cần giơ tay, núi đồi xuất hiện, cồn bãi nổi lên. Vua Hùng muốn gả Mị Nương cho Sơn Tinh nhưng lại sợ Thuỷ Tinh sẽ nổi giận. Sau khi thảo luận với các thần tỳ, vua phán: “Cả hai người đều tài năng nhưng tôi chỉ có một con gái, vì thế, người nào đến sớm và mang theo đủ một trăm ván cơm nếp, một trăm bánh chưng, voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín mào đỏ sẽ được đón Mị Nương về làm vợ”.
Sáng hôm sau, trước khi ánh nắng ban mai hiện ra, khi bầu trời vẫn còn che phủ bởi sương mù đêm, Sơn Tinh cùng đoàn người đã đến đón Mị Nương về núi Tản. Thuỷ Tinh đến sau, không có được Mị Nương nên tức giận, gửi quân đánh đuổi Sơn Tinh. Sơn Tinh triệu hồi đội quân dũng mãnh, bao gồm cả hùm, gấu, rắn,... để đối đầu lại Thuỷ Tinh. Bầu trời đen tối, những cơn sấm sét vượt qua bầu trời như những con rắn khổng lồ quay quắt, Sơn Tinh và quân lính liên tục ném đá vào lũ quái vật thuỷ. Sau một cuộc chiến dài, Thuỷ Tinh buộc phải nâng mực nước lên cao, nhấn chìm mọi nhà cửa, ruộng đồng... Không lâu sau, toàn bộ thành Phong Châu ngập trong biển nước. Nhân dân và các loài vật phải leo lên núi cao để tránh lũ. Sơn Tinh đã thôi nước cao hơn nước của Thuỷ Tinh, khiến cho đất đai không bị ngập lụt. Thuỷ Tinh dù cố gắng nhưng vẫn thất bại và phải rút quân về. Mọi người rời bỏ núi và xây dựng lại những ngôi nhà, ruộng đất bị huỷ hoại.
Từ đó, mỗi năm Thuỷ Tinh đều tấn công Sơn Tinh bằng nước, nhưng luôn thất bại. Ngày nay, nhân dân vẫn xây đê, trồng cây rừng, và hợp tác chống lại lũ lụt, giống như ngày xưa khi ông cha của họ và Sơn Tinh đối mặt với Thuỷ Tinh.
Ngày nay, nhân dân vẫn xây đê, trồng cây rừng, và hợp tác chống lại lũ lụt mỗi năm.
Chỉ khi đoàn kết và đồng lòng, chúng ta mới có thể làm được mọi việc.
Bài viết số 1 lớp 6 đề 3 - Mẫu 3
Trong những truyền thuyết mà chúng ta học ở đầu lớp 6, em thích nhất câu chuyện về Sơn Tinh và Thuỷ Tinh. Câu chuyện này có nhiều chi tiết tưởng tượng kỳ diệu, đã làm cho cuộc cạnh tranh giữa hai vị thần Sơn Tinh và Thuỷ Tinh để chiếm được sự chú ý của công chúa Mị Nương trở nên sống động hơn. Em xin kể lại câu chuyện:
Vào thời kỳ đó, vua Hùng thứ mười tám có một công chúa duy nhất, xinh đẹp tuyệt trần, tên là Mị Nương. Lúc ấy, Mị Nương đã đến tuổi lấy chồng, và nhà vua muốn tìm cho con gái mình một người chồng tài ba, xứng đáng với sắc đẹp và phẩm chất của công chúa.
Nghe tin nhà vua muốn tìm chồng cho công chúa, thần Sơn Tinh và thần Thuỷ Tinh đều đến thành Phong Châu để cầu hôn. Sơn Tinh có thể tạo ra phép lạ: khi vẫy tay về phía Đông, phía Đông nổi lên cồn bãi, và khi vẫy tay về phía Tây, nơi đó mọc lên những dãy núi đồi. Thuỷ Tinh cũng không kém phần tài năng, chàng có thể hô mưa gọi gió. Vua Hùng băn khoăn vì cả hai đều rất ấn tượng, sau đó mời các quan lại vào thảo luận. Cuối cùng, vua phán:
– Cả hai chàng đều xứng đáng làm con rể ta, nhưng ta chỉ có một nàng con gái, không thể lấy cả hai được. Ngày mai, ai mang đồ lễ đến trước, ta sẽ gả con gái cho người đó. Đồ lễ bao gồm: Một trăm ván cơm nếp, một trăm chiếc bánh chưng, voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao, mỗi thứ một đôi.
Sáng hôm sau, Sơn Tinh đã đến và mang theo đầy đủ đồ lễ, rước được Mị Nương về.
Cho đến gần trưa, Thuỷ Tinh mới đến, nhưng không gặp được may mắn trong việc cưới vợ, làm thần tức giận và biến thân thành cơn bão dông. Thuỷ Tinh hô mưa gọi gió, làm cho biển cuồn cuộn, nước từ biển trào ngược về đất liền. Mực nước ngày càng cao, làm ngập cả ruộng đồng, nhà cửa, nước lấn đến đỉnh đồi, thành Phong Châu như đang trôi trên biển. Sơn Tinh không hề nao núng. Chàng dùng phép lực của mình, đắp nên một con đê khổng lồ từ những dãy núi, ngọn đồi, vững chắc chống lại dòng nước lũ.
Cuộc chiến kéo dài mấy tháng, Sơn Tinh vẫn bất khả xâm phạm, trong khi sức mạnh của Thuỷ Tinh dần suy yếu, thần buộc phải rút quân về.
Từ đó, cảm giác oán trách và thù hận sâu sắc, mỗi năm, Thuỷ Tinh vẫn tiếp tục dâng nước để tấn công Sơn Tinh nhằm giành được Mị Nương. Nhưng mỗi năm, Thuỷ Tinh đều thất bại trước sức mạnh của Sơn Tinh, và cuối cùng đành phải rút quân về.
Tôi rất thích câu chuyện này - một trận chiến căng thẳng đầy cảm xúc. Câu chuyện một phần giúp tôi hiểu rõ hơn về hiện tượng bão lũ hàng năm và ước mơ của người Việt xưa trong việc chống lại thiên tai.
.....
Bài viết số 1 lớp 6 đề 4: Trình bày lại câu chuyện về Thánh Gióng
Đề bài: Viết lại câu chuyện về Thánh Gióng bằng lời của bạn
Bài viết số 1 lớp 6 đề 4 - Mẫu 1
Từ nhỏ, ta đã nghe bà, mẹ kể về những truyền thuyết hào hùng, lịch sử lẫy lừng của dân tộc. Thánh Gióng, một anh hùng oai phong, là một trong số đó. Truyền thuyết về Thánh Gióng là một câu chuyện hấp dẫn kể về anh hùng này.
Câu chuyện kể rằng: Thời Hùng Vương thứ sáu, tại một ngôi làng ven sông Hồng, có một cặp vợ chồng nông dân hiền lành, phúc đức nhưng mãi chưa có con. Một ngày, bà vợ thấy một vết chân lớn trên đồng và đã thử đặt chân vào. Ngay sau đó, bà mang bầu và sau mười hai tháng, cậu bé Gióng ra đời. Đặc biệt, dù đã ba tuổi nhưng Gióng vẫn chẳng biết nói, chẳng biết cười. Điều này làm cho hai vợ chồng lo lắng.
Cùng lúc đó, giặc Ân xâm lược, gây ra biết bao tội ác, làm dân chúng khổ sở. Nhà vua quyết định tìm người anh hùng cứu nước. Nghe tin, Gióng bất ngờ mở lời đầu tiên:
- Mẹ ơi! Mời sứ giả vào đây.
Bà mẹ vui mừng, mời sứ giả vào nhà. Gióng yêu cầu sứ giả trình bày ý kiến với vua, chuẩn bị sẵn ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt để cậu đi đánh giặc.
Kỳ lạ hơn, sau khi sứ giả quay trở về, Gióng ăn nhiều và lớn nhanh như thổi. Dù ăn bao nhiêu cũng không no, áo vừa mặc đã rách. Mẹ cậu nuôi không đủ, phải nhờ hàng xóm giúp đỡ. Bà con biết chuyện, rất phấn khởi, ngày đêm chuẩn bị thức ăn, may vá cho cậu chu đáo. Ai cũng hy vọng Gióng sẽ sớm ra giết giặc, cứu nước, xua đuổi tai họa.
Vào ngày đó, khi giặc đến gần chân núi Trâu, sứ giả mang vũ khí tới. Gióng đứng dậy, khoác áo giáp, cầm roi sắt, chào mẹ và dân làng trước khi nhảy lên ngựa. Cả người cả ngựa lao mình ra trận.
Trên chiến trường, Gióng diệt giặc mạnh mẽ, gây sửng sốt, giặc chết dưới tay như rơi rụng. Khi gậy sắt gãy, Gióng lấy tre làm vũ khí mới. Giặc sợ hãi bỏ chạy, đè lên nhau mà chết. Khi giặc tan, Gióng phi ngựa về núi Sóc, cởi bỏ áo giáp sắt, tạ ơn mẹ rồi bay lên trời.
Vua ban hiệu cho Gióng là Thánh Gióng, mọi người xây đền thờ tôn kính, tưởng nhớ công ơn. Đến nay, có câu chuyện kể rằng, khi ngựa sắt hòa lửa, lửa đã thiêu trụi một làng. Ngày nay, làng đó được gọi là làng Gióng. Những vết chân ngựa in sâu vào đất đã trở thành những ao hồ lớn nhỏ, là niềm kiêng nể cho chiến công của Thánh Gióng.
Truyền thuyết về anh hùng Thánh Gióng vẫn được truyền tụng qua nhiều thế hệ, là biểu tượng của ước mơ và sức mạnh bảo vệ tổ quốc.
Bài viết số 1 lớp 6 đề 4 - Mẫu 2
Trong thời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng, có một cặp vợ chồng già hiền lành nhưng chưa có con để thừa kế. Một ngày nọ, bà vợ ra đồng và ướm thử bàn chân lên những dấu vết lạ, sau đó mang thai đến mười hai tháng mới sinh một cậu bé khỏe mạnh. Cho đến khi ba tuổi, cậu bé vẫn nằm im, chưa biết đi và nói.
Khi giặc Ân quấy rối, vua sai sứ giả đi tìm người dũng cảm để đánh giặc và cứu dân. Nghe tin tức, cậu bé làng Gióng bất ngờ nói được và yêu cầu mẹ mời sứ giả vào. Cậu yêu cầu sứ giả nói với vua là cần chuẩn bị ngựa sắt, roi sắt và áo giáp sắt để cậu có thể đánh đuổi giặc. Từ đó, cậu lớn nhanh, ăn khỏe đến mức dân làng phải cùng nhau góp cơm gạo để giúp đỡ.
Sau khi nhận được mọi lễ pháp từ vua, cậu bé trở thành một anh hùng oai vệ. Chuẩn bị xong, chàng cưỡi ngựa và lao vào trận đấu. Ngựa phun lửa bay thẳng vào đội quân giặc, làm cho chúng ngã xuống như gã chết.
Khi roi bị gãy, anh hùng lấy những cây tre làm vũ khí mới. Quân giặc thất bại, tan nát, những kẻ sống sót tìm cách lẩn trốn. Anh hùng đuổi theo chúng đến chân núi Sóc, sau đó cởi bỏ áo giáp và cùng ngựa bay lên trời.
Vua Hùng tôn phong làm Phù Đổng Thiên Vương và lập đền thờ tại quê nhà để tri ân. Hằng năm vào tháng tư, hội Gióng được tổ chức tưng bừng, thu hút người dân đến tham gia.
Bài viết số 1 lớp 6 đề 4 - Mẫu 3
Trong thời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng có một cặp vợ chồng chăm chỉ làm ăn và được biết đến với phúc đức, nhưng họ lại không có con. Họ rất buồn bã. Một ngày, bà vợ ra đồng và phát hiện một vết chân lạ. Tò mò, bà đặt chân mình lên vết chân đó để so sánh với kích thước của chân mình. Thời gian trôi qua, bà mang thai và sau mười hai tháng, bà sinh được một cậu bé khỏe mạnh và tuấn tú. Hai vợ chồng rất hạnh phúc với đứa bé này. Tuy nhiên, điều đáng kinh ngạc là đứa bé đã ba tuổi nhưng vẫn chưa biết nói, cười, hoặc đi lại, chỉ biết nằm im. Ông bà lo lắng về tương lai của con.
Khi giặc Ân tấn công nước ta với quân đội mạnh mẽ, vua phải gửi sứ giả đi tìm người có tài để giúp đỡ. Nghe tin tức, cậu bé làng Gióng bỗng đề nghị mẹ mời sứ giả vào nhà. Cậu bé yêu cầu sứ giả trở về và nói với vua rằng cần chuẩn bị một con ngựa sắt, một cái roi sắt, và một bộ áo giáp sắt để cậu có thể đối phó với giặc. Sứ giả kinh ngạc nhưng cũng rất vui mừng, và vội vàng trở về báo vua. Vua chấp thuận và sai người chuẩn bị đầy đủ những vật phẩm mà cậu bé yêu cầu.
Từ khi gặp sứ giả, cậu bé bỗng trở nên cao lớn và khỏe mạnh hơn. Cậu ăn không biết đến sự no, và áo quần vừa mặc đã trở nên chật hẹp. Ông bà làm việc cực nhọc nhưng vẫn không đủ nuôi cậu bé. Người dân trong làng chung tay giúp đỡ, cùng nhau nuôi dưỡng cậu bé.
Giặc Ân tiến đến chân núi Trâu, tình hình đất nước như đang treo trên sợi tóc mong manh. Mọi người đều lo lắng và sợ hãi. Lúc đó, sứ giả mang theo đủ mọi thứ mà cậu bé đã yêu cầu. Cậu bé vươn vai, trong một thoáng đã trở thành một anh hùng oai phong, một người lính kiên cường. Anh hùng đập mạnh vào lưng ngựa sắt, ngựa hí vang vọng khắp nơi. Anh hùng mặc áo giáp, cầm roi sắt, nhảy lên ngựa. Ngựa phi nước đại, phun lửa xông thẳng vào quân giặc từ đây đến đó. Bất ngờ roi sắt gãy, anh hùng lập tức nhổ những bụi tre ven đường ném vào quân giặc. Quân giặc hoang mang, tan rã. Đám tàn quân lao vào nhau để chạy trốn. Anh hùng đuổi theo quân giặc đến chân núi Sóc (Sóc Sơn) và dừng lại, sau đó một mình, một ngựa lên đỉnh núi, cởi bỏ áo giáp sắt để lại ngựa sắt và anh hùng bay lên trời.
Nhằm kỷ niệm người anh hùng đã có công đánh bại giặc Ân. Vua đã phong là Phù Đổng Thiên Vương và lập đền thờ ngay tại quê nhà.
......
Bài viết số 1 lớp 6 đề 5: Kể lại truyền thuyết Bánh chưng bánh giầy
Đề bài: Kể lại truyền thuyết “Bánh chưng bánh giầy' bằng lời kể của em
Dàn ý bài viết số 1 lớp 6 đề 5
I. Mở bài:
- Giới thiệu thời gian diễn ra câu chuyện: ngày xưa, trong thời đại của Hùng Vương thứ sáu.
II. Phần chính
1. Vua Hùng Vương tổ chức cuộc thi.
- Vua đã già, muốn lựa chọn người con xứng đáng để kế vị.
- Vua triệu gọi các con ra.
+ Ngôi vua đã truyền kế đến sáu đời.
+ Người kế vị vua phải là người thực hiện chính sách vua.
+ Ai tổ chức lễ cúng Tiên Vương đúng ý, sẽ được chọn làm người kế vị.
- Các con thay nhau thể hiện lòng quý phái, ao ước ngôi báu sẽ thuộc về mình.
2. Lang Liêu sáng tạo bàn tay
- Lang Liêu, đứa con thứ 18, mồ côi mẹ, chăm chỉ làm việc nông nô, không biết lựa chọn nguyên liệu để làm cỗ quý.
- Thần báo mộng: không gì có giá trị bằng lúa gạo, hãy sử dụng lúa gạo làm nguyên liệu chính cho bánh.
- Lang Liêu sử dụng lúa gạo để làm hai loại bánh, một loại làm từ gạo nếp, nhân bao gồm đậu xanh và thịt, bọc trong lá chuối, hình vuông, được nấu chín kỹ lưỡng, một loại khác làm từ gạo nếp chín, được giã nhuyễn, hình tròn.
3. Lang Liêu trở thành kế vị cha.
- Trong ngày hội Tiên Vương, các quan lại mang đến những mâm cỗ quý giá, không thiếu thứ gì.
- Vua Hùng xem xét các chiếc bánh mà Lang Liêu đã làm. Lang Liêu kể lại lời dạy của thần. Vua chọn hai loại bánh đó để cúng dường Trời Đất và Tiên Vương.
- Sau khi lễ kết thúc, mọi người đều cùng nhau thưởng thức bánh cùng với các quan thần.
- Vua nói: Chiếc bánh tròn biểu trưng cho Trời, chiếc bánh vuông biểu trưng cho Đất. Đó chính là lý do Lang Liêu được chọn làm kế vị cha.
III. Tóm tắt
- Từ đó, dân ta chú trọng vào việc canh tác và chăn nuôi:
- Bánh chưng và bánh giày là hai món không thể thiếu trong ngày tết.
Bài viết số 1 lớp 6 đề 5 - Mẫu 1
Bập bùng… Bập bùng…. Ngọn lửa bùng cháy bên nồi bánh chưng. Khói xuân tràn ngập từng ngõ nhỏ. Hơi ấm xuân làm nở hoa đào, hoa mai. Và ngọn lửa lúc đuổi, lúc vờn như đang gợi lại những kí ức, những câu chuyện về truyền thuyết Bánh chưng, bánh giầy.
Chuyện này đã xảy ra từ rất lâu. Vua Hùng Vương thứ sáu muốn chuyển ngôi cho con nhưng ông có hai mươi người con trai, không biết chọn ai cho xứng đáng. Vua gọi các con lại và nói:
- Mảnh đất Lạc Việt của chúng ta từ khi dựng nước đã truyền được sáu đời. Nhiều lần giặc Ân đã xâm lấn bờ cõi của chúng ta. Nhờ phúc ấm của Tiên vương, nhân dân ta đã đánh đuổi được giặc ngoại xâm, thiên hạ hưởng hạnh phúc, bình yên. Nay ta đã già rồi, không thể sống mãi trên đời. Người ta truyền ngôi phải là người nối chí ta, không nhất thiết phải là con trưởng. Năm nay, nhân lễ Tiên vương, ai làm vừa lòng ta, ta sẽ truyền ngôi cho, có Tiên vương chứng giám.
Các lang ai cũng muốn được vua cha truyền ngôi cho nên đều cố công trèo đèo lội suối, lên rừng xuống bể để tìm của ngon vật lạ. Trong các lang, Lang Liêu là người thiệt thòi nhất. Trước đây, mẹ chàng bị cha ghẻ lạnh nên ốm rồi qua đời. Từ khi sinh ra ở riêng, chàng chăm lo việc đồng áng, trồng lúa, trồng khoai. Nhìn lại căn nhà đơn sơ, chỉ có khoai và sắn. Lang Liêu lấy làm buồn lắm. Một đêm, chàng nằm ngủ mơ thấy thần nói chuyện với mình:
– Lang Liêu! Trong trời đất, không gì quý bằng hạt gạo. Các thứ khác tuy ngon nhưng quý, hiếm mà người ta không làm ra được. Còn gạo trồng nhiều thì ăn được nhiều, gạo bình dị nhưng rất quý giá. Con hãy sử dụng mà làm bánh lễ Tiên vương.
Chàng tỉnh dậy mới biết được đó là giấc mơ. Chàng lấy làm mừng lắm. Lang Liêu bắt tay ngay vào làm bánh theo lời thần chỉ bảo. Chàng chọn những hạt gạo nếp thơm ngon nhất, trắng tinh, hạt nào hạt nấy mẩy và tròn để làm bánh. Lang Liêu vo gạo với nước sạch, dùng đậu xanh, thịt mỡ làm nhân. Chàng ra vườn lấy lá dong để gói bánh. Để mâm cỗ đa dạng, phong phú hơn, cùng một thứ gạo ấy chàng giã nhuyễn, đồ lên rồi nặn thành hình tròn.
Ngày lễ Tiên vương, trước cung đình, mọi người háo hức chờ đợi. Các làng mang các món ăn vào yết kiến vua. Vua dừng lại trước bánh của Lang Liêu và ngạc nhiên. Ông gọi Lang Liêu lên và chàng kể việc được thần báo mộng. Vua nói:
– Bánh hình vuông tượng trưng cho đất, ta đặt tên là bánh chưng. Thịt mỡ, đậu xanh làm nhân tượng trưng cho cầm thú. Lá dong bọc bên ngoài thể hiện sự đoàn kết của nhân dân. Bánh hình tròn tượng trưng cho Trời, ta đặt là bánh giầy. Hai thứ bánh này vừa giản dị vừa giàu ý nghĩa. Lang Liêu đã dâng lễ vật vừa ý ta, sẽ được ta truyền ngôi cho, có Tiên vương chứng giám.
Vua đặt bánh lên lễ Tiên vương. Lễ xong, các vua cùng quần thần thưởng thức. Ai cũng khen ngon. Lang Liêu trở thành ông vua hiền minh.
Từ đó, nước ta chăm nghề trồng trọt, chăn nuôi. Thiếu bánh chưng, bánh giầy là thiếu hẳn hương vị ngày Tết. Truyền thuyết này ca ngợi các vua Hùng và giải thích phong tục làm bánh chưng, bánh giầy.
Bài viết số 1 lớp 6 đề 5 - Mẫu 2
Bánh chưng, bánh giầy là hai loại bánh rất phổ biến vào dịp đầu năm mới. Mọi người thường làm hoặc mua bánh này để cúng tổ tiên, để thưởng thức cùng gia đình và bạn bè vào ngày Tết. Hai loại bánh này là biểu tượng của văn hóa Việt Nam và luôn được nhắc đến trong các câu chuyện cổ tích.
Từ thời xa xưa, vào thời kỳ của vua Hùng Vương thứ sáu, sau khi đánh bại giặc Ân, vua Hùng quyết định truyền ngôi cho một hoàng tử xứng đáng nhất. Vào dịp năm mới, khi sức sống bừng nảy, mùa xuân đang đến, vua triệu tập các hoàng tử và nói:
“Trong số các con, ai làm một mâm cỗ Tết thật ý nghĩa và ấm cúng, ta sẽ truyền ngôi vua cho người đó.” Cuộc thi bắt đầu, các hoàng tử tranh nhau tìm kiếm những món ngon, lạ để dâng lên vua Hùng, mong rằng món của mình sẽ được công nhận là ngon và ý nghĩa nhất. Lang Liêu là hoàng tử thứ mười tám và là người duy nhất có tính cách hiền lành, hiếu thảo. Vì mẹ chàng mất sớm, chàng không được dạy dỗ nhiều, nên chàng lo lắng không biết làm thế nào để chuẩn bị một mâm cỗ Tết đặc biệt.
Lang Liêu rất lo lắng và buồn bã. Một đêm, chàng mơ thấy một vị thần xuất hiện và nói:
“Con ơi, trên đời không có thứ gì quý bằng gạo. Con hãy dùng gạo nếp ngon làm thành những chiếc bánh hình tròn và hình vuông. Hình tròn tượng trưng cho trời và hình vuông tượng trưng cho đất. Sử dụng lá để bọc bên ngoài và nhân bên trong để tượng trưng cho sự sinh sôi của cha mẹ.”
Hoàng tử tỉnh dậy, không tin vào giấc mơ hạnh phúc. Chàng vui sướng, vì đã được thần linh giúp đỡ mình. Hoàng tử tuân theo lời thần dạy, chọn gạo nếp thơm ngon để làm bánh vuông, gọi là bánh chưng. Hoàng tử dùng xôi nếp giã nhuyễn, nặn thành hình tròn làm bánh giầy. Lá xanh bọc bên ngoài, che chở cho bánh, biểu tượng cho sự che chở của cha mẹ.
Ngày hẹn đã đến, các hoàng tử đều mang đến những món ăn phong phú từ khắp nơi để dâng lên vua. Khi đến lượt Lang Liêu, chỉ có hai loại bánh là bánh chưng và bánh giầy được làm từ gạo nếp, không phải là một món ăn xa xỉ gì cả. Vua Hùng rất ngạc nhiên, Lang Liêu kể về giấc mơ và giải thích ý nghĩa cho vua cha nghe. Vua thấy món ăn ngon và có ý nghĩa nên quyết định nhường lại ngôi vị cho Lang Liêu.
Và từ đó, bánh chưng và bánh giầy luôn xuất hiện vào dịp Tết, không bao giờ thiếu mất.
Bài viết số 1 lớp 6 đề 5 - Mẫu 3
Mỗi khi Tết đến xuân về, bàn ăn mọi nhà đều bày đủ bánh chưng, bánh giầy. Tuy nhiên, các bạn đã bao giờ tự hỏi về nguồn gốc của hai loại bánh này chưa? Tại sao lại có thói quen làm hai loại bánh này khi Tết đến? Hãy để tôi kể cho các bạn nghe nhé.
Vua Hùng Vương thứ sáu, khi đã già, muốn truyền ngôi cho một trong số con trai, nhưng ông có đến hơn hai mươi người con trai. Không biết lựa chọn ai, vua đã gọi tất cả các con lại và phát biểu:
“Tổ tiên của chúng ta từ khi lập nước Văn Lang đã truyền dòng máu này qua sáu đời. Nay, khi ta đã già yếu, ta muốn giao phó ngai vàng cho một trong số các con. Người kế vị ta phải đáng làm người kế vị, không cần phải là con trưởng. Trong năm nay, nhân dịp lễ của Thiên Vương, ai làm cho ta vừa lòng, ta sẽ giao phó ngôi vị cho người đó.”
Mọi người trong các làng đều muốn giành được vị trí quý báu này, nhưng ý định của vua không ai biết trước. Họ chỉ biết chuẩn bị mâm cỗ thật ngon, thật hoành tráng để dâng lễ cho Thiên Vương. Người buồn nhất chính là Lang Liêu, con thứ mười tám. Trước đó, mẹ chàng đã qua đời sớm do bị vua cha ghẻ lạnh. Trong số anh em, chàng là người thiệt thòi nhất. Chàng chăm chỉ, siêng năng, hiền lành, và từ nhỏ đã phải đối mặt với những khó khăn. Những gì chàng có trong nhà chỉ là khoai và lúa, và cảm thấy chán chường với cuộc sống thường nhật.
Một đêm, sau một ngày làm việc vất vả, chàng mệt mỏi và buồn ngủ. Trong giấc mơ, chàng thấy một người lão tóc bạc trắng đến gần, ân cần nói:
– Trên trần gian, không có thứ gì quý giá bằng hạt gạo. Chính gạo mới là thực phẩm nuôi sống con người và mang lại hương vị không bao giờ phai nhạt. Các loại thực phẩm khác có thể ngon lành, có thể hiếm có nhưng chúng không thể sánh kịp với giá trị của gạo. Hãy sử dụng gạo để làm bánh lễ Tiên Vương.
Sáng sớm khi tỉnh dậy, càng suy ngẫm, chàng càng nhận ra rằng những lời thần đã nói là đúng. Chàng khéo léo lựa chọn những hạt gạo nếp thơm phức, trắng tinh, sau đó vo sạch và sử dụng đậu xanh và thịt lợn làm nhân, bọc bên trong lá dong từ vườn thành hình vuông, nấu một ngày một đêm cho thật mềm. Để thay đổi hương vị và kiểu dáng, nhưng vẫn sử dụng những hạt gạo ấy, chàng xay nhuyễn, nặn thành hình tròn.
Đến ngày lễ Tiên Vương, các làng cạnh tranh khoe sơn hào hải vị, như nem chả, chả lụa. Vua Hùng xem qua rồi ngừng lại trước chồng bánh của Lang Liêu. Thấy điều bất thường, vua triệu Lang Liêu lên và hỏi. Lang Liêu kể tường tận về mọi sự cho vua nghe. Sau khi suy nghĩ một chút, vua mang bánh của Lang Liêu lên dâng lễ Tiên Vương.
Sau lễ, vua ban phát lộc cho mọi người, ai cũng khen ngon. Nhà vua nói:
– Bánh hình tròn tượng trưng cho Trời, ta gọi là bánh giầy, bánh hình vuông tượng trưng cho Đất, ta gọi là bánh chưng. Lớp lá bọc ngoài, hương vị tinh tế bên trong thể hiện tình yêu thương và sự che chở. Lang Liêu đã thực hiện đúng ý ta, do đó ta sẽ truyền ngôi cho Lang Liêu. Chúng ta xin Tiên Vương làm chứng giám.
Từ đó, dân tộc ta đã trải qua bao nhiêu thăng trầm, vẫn giữ vững nghề nông, chăn nuôi và không quên tổ tiên thông qua việc làm bánh chưng, bánh giầy trong những ngày lễ Tết.
Câu chuyện về bánh chưng, bánh giầy không chỉ là lịch sử của một loại đặc sản mà còn là biểu tượng của lòng kính trọng, tôn vinh tổ tiên và nghề nông của dân tộc.
Truyền thống làng nghề của chúng ta đã đi vào lòng người qua những chiếc bánh chưng, bánh giầy thơm ngon, là sự gắn kết giữa quá khứ và hiện tại, giữa con cháu và tổ tiên.