TOP 13 bài Phân tích Hịch tướng sĩ ngắn gọn, bao gồm 2 dàn ý chi tiết và sơ đồ tư duy, giúp học sinh lớp 8 hiểu sâu hơn về tinh thần yêu nước, lòng nhân ái của chủ tướng Trần Quốc Tuấn.
Hịch tướng sĩ đã thành công trong việc miêu tả tấm lòng yêu nước của một người chủ tướng tận tụy, cam kết với sứ mệnh giải phóng dân tộc. Bài văn này khuyến khích ý thức yêu nước và trách nhiệm công dân ở mỗi cá nhân. Hãy cùng đọc để nắm bắt kiến thức môn Văn 8 một cách toàn diện hơn.
Phân tích Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn
- Bảng vẽ tư duy phân tích về tác phẩm Hịch tướng sĩ
- Dàn ý phân tích Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn (2 mẫu)
- Phân tích Hịch tướng sĩ một cách ngắn gọn
- Phân tích về Hịch tướng sĩ cho học sinh lớp 8
- Mẫu phân tích tác phẩm Hịch tướng sĩ (11 mẫu)
Bảng tư duy phân tích về Hịch tướng sĩ
Dàn ý phân tích về Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn
1. Phần giới thiệu
- Tổng quan về tác giả Trần Quốc Tuấn: một nhân vật anh hùng trong lịch sử đấu tranh chống quân xâm lược của dân tộc Việt Nam
- Hịch tướng sĩ là một tác phẩm thể hiện lòng yêu nước và lo lắng sâu sắc nhất về tương lai của đất nước từ tác giả
2. Nội dung chính
a. Truyền thống cao cả của những anh hùng trong lịch sử
- Những gương mẫu anh hùng tận tụy với chủ: Kỉ Tín, Do Vũ, Dự Nhượng, Kính Đức, Mông Kha, Cốt Đãi Ngột Lang...
- Nhấn mạnh vào tinh thần hy sinh bản thân vì chủ, vì vua, vì quê hương.
b. Tình hình hiện tại của đất nước và những nỗi lo của chủ tướng
* Tình hình hiện thời của đất nước
- Hành động tàn bạo và sự khích bác của kẻ thù: Xâm phạm đất đai, lăng nhục triều đình, áp bức dân lành, cướp bạc vàng…
“Tàn bạo, tham lam, không biết điều.”
- Nghệ thuật sáng tạo:
- Ngôn từ sinh động, gợi hình ảnh: Xâm lược, vặn mình
- Hình tượng ẩn dụ: con dao sắc nhọn, con sói hun dữ
- Phong cách văn chương sắc sảo, châm biếm
⇒ Tả một cách sống động hình ảnh kẻ thù, khơi gợi cảm xúc căm phẫn trong người đọc, thể hiện sự căm ghét và khinh bỉ
* Tâm trạng của chủ tướng
- Hiển thị rõ qua phần điệp với các câu văn ngắn gọn, đối xứng: “Ta thường quên ăn…ta cũng chịu đựng”
- Nghệ thuật sử dụng:
- Đặt nhiều dấu phẩy và dấu chấm phẩy
- Sử dụng động từ biểu hiện hành động mạnh mẽ như: Quên ăn, vỗ gối, xẻ thịt, lột da, nuốt gan, uống máu…
- Phong cách viết cảm động, chân thành
⇒ Hiệu ứng:
- Mô tả cảm xúc uất hận trong lòng người chủ tướng
- Thúc đẩy sự đồng cảm ở người đọc, người nghe.
c. Chủ tướng lên án những hành vi sai lầm của tướng sĩ, tiết lộ tâm trạng của mình và kêu gọi tướng sĩ
* Kết án những sai lầm của tướng sĩ
- Lên án hành động vô trách nhiệm, thái độ lãng phí trước tình hình của đất nước.
- Phê bình sự ưa thích về những điều hạnh phúc nhỏ nhặt: đánh bài, chơi cờ, săn bắn, uống rượu…
“Thái độ quyết đoán trong phê phán”
* Tâm trạng của người chủ tướng
- Lời khuyên:
- Thái độ chu toàn
- Nâng cao kỹ năng quân sự
⇒ Chống lại sự xâm lược từ bên ngoài.
- Chủ tướng khuyến khích tinh thần yêu nước của lính trung cộng với quốc gia
- Đồng cảnh ngộ: tôn vinh lòng biết ơn và sự trung thành của những người đồng cảnh ngộ
- Thái độ biểu lộ:
- Tư vấn sâu sắc, thể hiện lòng chân thành
- Cảnh báo mạnh mẽ
- Châm chọc, trêu chọc
* Gọi tướng sĩ: Phân biệt rõ ràng giữa đường lối đúng đắn và sai lầm ⇒ thúc đẩy, động viên tinh thần các tướng sĩ
3. Kết thúc
- Xác nhận thành công về cả mặt nội dung và nghệ thuật của văn bản
- Biểu hiện sâu sắc nhất lòng yêu nước của một vị chủ tướng có tâm, suốt đời hiến dâng cho sự nghiệp giải phóng dân tộc
- Trích đoạn khơi gợi lòng yêu nước và ý thức trách nhiệm trong mỗi cá nhân.
Phân tích Hịch tướng sĩ ngắn gọn
Năm 1285, Thoát Hoan dẫn 50 nghìn quân sang xâm lược nước ta. Trước đó, tại Hội nghị quân sự Bình Than, Trần Quốc Tuấn được vua nhà Trần trao trọng trách “Tiết chế thống lĩnh'. Ông đã viết “Hịch tướng sĩ” kêu gọi ba quân nâng cao cảnh giác, học tập binh thư, rèn luyện võ nghệ, sẵn sàng chiến đấu đánh bại quân xâm lược phương Bắc. Có thể coi “Hịch tướng sĩ” là một tài liệu lịch sử quan trọng chứa đựng tình yêu nước và tinh thần anh hùng, đồng thời mang tính nghệ thuật đặc sắc, xứng đáng là một kiệt tác trong văn học cổ Việt Nam. Vì vậy, khi nhận xét về tác phẩm này có nhận định rằng “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn là một tác phẩm sôi nổi nhiệt huyết, tràn đầy ý chí quyết chiến và chiến thắng. Đó là một tác phẩm điển hình cho lòng yêu nước cao đẹp nhất của thời kỳ chống Nguyên – Mông.
“Hịch tướng sĩ” là tiếng nói của một vị thống soái nhiệt huyết. Nỗi buồn, sự căm phẫn, niềm khát khao của Trần Quốc Tuấn được thể hiện qua những dòng chữ nóng bỏng của bài hịch. Mối quan hệ giữa vị quốc công với tướng sĩ là mối quan hệ “chủ – tớ” nhưng chứa đựng tình nghĩa sâu sắc, tương trợ, cùng nhau chia sẻ khó khăn, vui buồn: “… lúc ra trận thì cùng nhau sống chết, lúc nghỉ ngơi thì cùng nhau cười đùa”.
Trước sự lấn át của kẻ thù, trước mối hiểm họa từ triều đình Nguyên – Mông, ông chịu đựng trong lòng một cảm xúc đắng cay, mất ngủ qua những đêm dài. Tâm trạng đó của ông chứa đựng một lửa huyết sôi: “Nếu thế, ta và các bạn đều sinh ra trong thời loạn lạc, lớn lên trong thời gian gian khó khăn. Khi thấy kẻ thù đi lại mặc cảnh, uốn lưỡi mỉa mai triều đình, lạm dụng quyền lợi để bắt nạt người dân, yêu cầu vàng bạc để thỏa mãn lòng tham không đáy, giả vờ là vua Vân Nam để thu thập của cải có hạn. Khác biệt gì so với việc nuôi hổ đói bằng thịt, làm cho tai họa đến sau này.”
Với cái nhìn sâu sắc vào chính trị, sự cảnh giác, người Tiết chế đã phơi bày bản chất thực sự của những kẻ tham lam phương Bắc muốn biến nước ta thành mảnh đất của họ, lên án hành vi vơ vét của họ, “đòi vàng bạc ” “thu tiền bạc ” để thỏa mãn lòng tham không đáy của lũ giặc Mông Cổ. Ông cảnh báo các tướng sĩ không được im lặng, không thể ngồi yên nhìn kẻ thù tấn công, vì như vậy “Thật sự giống như nuôi hổ đói bằng thịt, làm cho tai họa ập đến sau này”
Phần cuối của bài hịch, là lời khuyên, chỉ trích tướng sĩ về việc học tập binh thư với một tinh thần nhiệt huyết rực rỡ, ánh sáng của con đường “thần – chủ ” và lập trường “nghịch thù”. Lối viết hùng hồn, nghiêm trang, thấu hiểu tận sâu trong lòng người: “Nếu các bạn học tập cuốn sách này theo hướng dẫn của tôi thì mới đích thực đạo thần chủ, còn không, từ chối hướng dẫn của tôi, tức là kẻ chống lại ta”
“Hịch tướng sĩ” cũng là một tác phẩm tràn đầy ý chí quyết chiến quyết thắng, được thể hiện qua sự căm hận kẻ thù, quan điểm về sự sống và cái chết, nô lệ và tự do,… Ở mọi khía cạnh, mọi biểu hiện, tác giả đều thể hiện một tinh thần anh hùng, mạnh mẽ và quyết đoán!
Đối với lũ giặc Nguyên – Mông thì không thể dung tha! Hiện tại, nếu không trả thù, lột da, nuốt gan, uống máu quân thù thì đau đớn không thể tả: “quên ăn vào buổi sáng, vỗ gối giữa đêm; ruột đau như cắt, nước mắt tràn đầy”. Với lũ giặc Nguyên – Mông, tướng sĩ chỉ có một quyết tâm, một hành động, một ý chí: “Dù thân này phơi ra ngoài mặt đất, xác này gói trong lớp da ngựa, ta cũng không tiếc”.
Vì Đại Việt quê hương muôn thuở của chúng ta, tướng sĩ chỉ có một lựa chọn, một hành động duy nhất: “huấn luyện quân lính, rèn dũa kỹ năng bắn cung, khiến cho kẻ giỏi như Bàng Mông, như nhà nào cũng là Hậu Nghệ, có thể cắt đầu của Hốt Tất Liệt tại Cửa Khuyết, lấy xác của Vân Nam Vương ở Cảo Nhai để rửa sạch sự xấu xa…”
Vì Đại Việt không thể phớt lờ cảnh giác và thất bại trong trận đánh, để rồi “chúng ta sẽ bị địch bắt, đau khổ đến bao giờ” không chỉ thế “trong đời này chúng ta phải chịu sự nhục nhã, sau này đến hàng trăm năm, tiếng xấu không phai, tên của các bạn tướng sĩ sẽ bị ghi vào sách lịch sử như những người thất bại trong trận đánh…”
Vì sự sống còn và danh dự của dân tộc, chúng ta quyết tâm đánh bại quân địch Nguyên – Mông để “đền thờ… được tôn vinh mãi mãi”, “tổ tôn… được thờ cúng suốt năm”, để tên của các vị tướng sĩ “được ghi vào sách lịch sử như một huyền thoại thơm phức”. “Hịch tướng sĩ” truyền đạt tinh thần quyết chiến, khí thế mãnh liệt, biến thành sức mạnh Sát Thát mang lại những chiến thắng vang dội: “Chương Dương giết giặc – Hàm Tử bắt quân thù (Trần Quang Khải) bảo vệ núi sông vững vàng.”
Có thể nói rằng “Hịch tướng sĩ” là một tác phẩm đặc trưng cho tinh thần yêu nước cao đẹp nhất trong cuộc chiến chống lại quân Nguyên – Mông. Trong thế kỷ XII, XIII, trên một vùng đất rộng lớn, hàng chục quốc gia, hàng trăm thành phố từ Hoa Bắc đến Hoa Nam, từ Trung Á đến sông Vônga,… đã chịu sự hủy hoại từ quân Mông Cổ tàn bạo, độc ác. Một nhà thơ Ac-mê-ni thế kỷ XIII đã viết:
“Không còn một dòng suối, một con sông nào
không chứa đựng nước mắt của chúng ta;
Không còn một ngọn núi, một cánh đồng nào
không bị quân Mông Cổ tàn phá”.
Đội quân Tác-ta là lực lượng quân sự của đế quốc Mông Cổ. Tuy nhiên, trong cả ba lần xâm lược của giặc Nguyên – Mông vào nước ta, họ đều gặp phải thất bại nghiêm trọng. Quân dân Đại Việt đã đoàn kết một lòng, từ vua cho đến các tướng sĩ đều khẳng định tinh thần quyết chiến quyết thắng. Vai trò của Trần Quốc Tuấn vô cùng quan trọng: “Người tuyên truyền mãi mãi – Bia miệng không phai mờ” (Đằng giang phú).
Các tướng sĩ thời đại Trần có những nhân vật anh hùng - thi sĩ như Trần Quang Khải, Phi Ngũ Lão, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, cũng là các vị vua anh hùng - thi sĩ. Tác phẩm văn thơ của họ toát lên tinh thần yêu nước:
“Chồn ngựa đá hai lần phản cơ
Non sông vững bền nghìn đời vẹn nguyên”
(Trần Nhân Tông)
“Chương Dương giật giao giặc địch
Hàm Tử bắt quân thù xâm lược
Thái Bình quê hương ta phải nỗ lực
Non nước ấy vẫn kiên cường nghìn thu”
(Trần Quang Khải)
Các bài thơ này đều là biểu tượng của “Hào khí Đông Á'. Nhưng như đã phân tích ở trên, nội dung và tác dụng to lớn và sâu sắc của “Hịch tướng sĩ” là xứng đáng là tác phẩm đại diện cho chủ nghĩa yêu nước cao đẹp nhất trong thời đại chống Nguyên Mông.
“Hịch tướng sĩ” cùng với các chiến công như Chương Dương, Hàm Tử, Bạch Đằng - đã gắn liền với tên tuổi của vị anh hùng Trần Quốc Tuấn, làm sáng tỏ trong lịch sử. Nó là bản hòa âm ca chống lại sự xâm lược. Nó thể hiện khí phách anh hùng, tư thế kiêu hùng, kiêu căng của dân tộc và con người Đại Việt.
Sống với tư thế kiêu hãnh! Hiểu biết sâu xa, cảnh giác trước mưu đồ tàn ác của kẻ thù! Chết vinh dự còn hơn sống trong sự nhục nhã! v..v… Đó là những ý tưởng cao cả nhất, bài học sâu sắc nhất mà Trần Quốc Tuấn muốn truyền đạt tới tướng sĩ, tới nhân dân ta, tới mỗi cá nhân Việt Nam qua “Hịch tướng sĩ”.
Trong bài “Bạch Đằng giang phú“, Trương Hán Siêu đã viết: trận Bạch Đằng đã chiến thắng – Bởi Đại Vương đã đánh bại giặc một cách dễ dàng”. “Thế giặc nhàn” là kẻ địch dễ dàng đánh bại! Đó là một câu nói vĩ đại của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn – anh hùng to lớn của dân tộc ta.
Đã trải qua hơn 800 năm nhưng “Hịch tướng sĩ” vẫn là bài ca yêu nước và niềm tự hào của dân tộc. Đó là bài văn chính luận hùng hồn, gan dạ, đẫm máu, tràn đầy ý chí quyết chiến, quyết thắng, mang sức mạnh của hàng triệu anh hùng. Mỗi khi đọc lại tác phẩm, lòng tôi lại tự hào về truyền thống cha ông, truyền thống yêu nước kiên cường, tư cách hiên ngang, vẻ vang.
Phân tích “Hịch tướng sĩ' lớp 8
Văn học Việt Nam, sinh ra để nâng cao những giá trị cao đẹp trong lòng người. Trong đó, chúng ta đặc biệt coi trọng lòng yêu nước và tinh thần đánh thù giặc, khơi gợi ý chí quyết tâm giành lại độc lập. Khi “Hịch tướng sĩ' của Trần Quốc Tuấn ra đời, nó đã hoàn thành nhiệm vụ thánh thiện ấy!
Tác phẩm “Hịch tướng sĩ' được viết trong thời kỳ đất nước đối đầu với quân Mông Nguyên. Sự tàn bạo của kẻ thù khiến cho biết bao máu của dân và quân lính đổ xuống, gây ra sự uất ức vô cùng. Tuy nhiên, trong cảnh loạn lạc ấy, quân lính dưới quyền lãnh đạo của Trần Quốc Tuấn lại bỏ quên công việc của quốc gia, chỉ biết quan tâm đến cuộc sống cá nhân. Trần Quốc Tuấn, vì lòng căm hận giặc, vì quan tâm đến nước nhà và dân tộc, đã viết bài hịch này để khích lệ tinh thần của chiến sĩ. Vì thế, trong bài hịch, có tiếng nói của lòng căm thù giặc sâu sắc, có lời thúc giục tinh thần của dân quân. Điều đó tạo nên giá trị của bài hịch đến ngày nay.
Bài hịch được chia thành bốn phần, mỗi phần có một nội dung riêng. Ở phần đầu, tác giả trình bày những tấm gương về trung thần nghĩa sĩ đã ghi danh trong lịch sử, nhằm khích lệ tinh thần của các chiến sĩ. Đó là những tấm gương lớn như Kỷ Tín, Do Vu hay Kính Đức, Cảo Khanh,... Tiếp theo, tác giả đề cập đến sự kiện Tống Nguyên, nhấn mạnh rằng có những Vương Công Kiên, Nguyễn Văn Lập đã dám đấu tranh với quân Mông Kha. Tác giả tái hiện lại những tấm gương ấy để thức tỉnh tinh thần của quân sĩ, rằng người xưa đã để lại những dấu ấn tốt lành như vậy, không thể mình làm ô nhục điều đó được.
Đoạn văn tiếp theo, Trần Quốc Tuấn chỉ rõ tội ác của kẻ thù và lòng căm thù sâu sắc với chúng. Đây có lẽ là phần văn thể hiện sâu sắc nhất lòng yêu nước của vị tướng này. Dân ta đang phải chịu cảnh “lén nhìn giặc đi qua đường, uốn tấc lưỡi mà lăng nhục triều đình, khinh rẻ tổ tiên”. Sinh sống trong thời loạn lạc, chưa bao giờ chúng ta phải chịu nhục nhã như vậy, liệu quân lính có thể im lặng chịu đựng? Trong lời của Trần Quốc Tuấn, ta thấy một tâm hồn căm thù sâu sắc, dùng từ ngữ khinh bỉ để nói về chúng. Hành động này cũng để kích thích lòng căm thù của quân lính, tạo thêm động lực để tiêu diệt kẻ thù.
Căm thù giặc là một chuyện, nhưng vị tướng vẫn còn lo cho nhân dân đất nước. Đó là “bữa cơm cũng quên, nửa đêm vấp gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa”. Trong tâm hồn của người chủ tướng, chỉ mong được đánh bại kẻ thù và trả thù. Ở đây, ngôn ngữ được sử dụng một cách tinh tế, như thể hiện hết nỗi đau và căm thù.
Tuy nhiên, trong khi dân chúng khổ sở, một số quân lính lại sống thoải mái theo lối sống của họ. Trần Quốc Tuấn đã đưa ra lý lẽ để phân tích đúng sai, để những binh lính tự nhận ra. Trước hết, ông nói về sự đãi ngộ mà họ đã nhận, không thiếu áo, không thiếu cơm, có lương,... Vậy còn mong chờ gì nữa? Họ đã được phục vụ chu đáo, liệu có thể không đền ơn cho đất nước? Nhưng tác giả cũng chỉ ra rằng, một số người ngồi nhìn nhục nhã mà không biết thẹn, sẵn sàng phục vụ kẻ thù, nghe nhạc và thưởng yến với sứ quân giả dối. Có người lại chơi bài, đánh bạc, kẻ đắm chìm trong gia đình, vậy đất nước sẽ đi đến đâu? Đó như một lời nhìn thẳng vào hiện thực, là tấm gương cho các binh sĩ tự nhìn lại bản thân mình!
Để thuyết phục, tác giả chỉ ra những lợi ích và hậu quả cho quân lính hiểu. Nếu họ theo đuổi quân giặc, phớt lờ vận mệnh của đất nước, khi mất nước, họ cũng là những người chịu tổn thất nặng nề, lại bị coi là tướng bại trận. Nhưng nếu họ chăm chỉ rèn luyện, thì gia thế của họ sẽ trường tồn đời đời, mang lại danh tiếng lâu dài, vậy các người sẽ chọn điều gì? Đây là tâm lí mạnh mẽ nhất mà Trần Quốc Tuấn sử dụng để tác động tới tâm hồn binh lính.
Cuối cùng, lời khuyên của chủ tướng dành cho quân sĩ là hãy tập trung vào việc học Binh thư yếu lược, quan tâm đến lợi ích của đất nước, tránh trở thành kẻ thù và bị ghét bỏ.
Do đó, Hịch tướng sĩ là lời kêu gọi mạnh mẽ nhất gửi đến quân dân của đất nước. Tác giả đã thể hiện được tài năng viết hịch của mình, qua những lập luận sắc bén, câu văn biền ngẫu tạo nhịp điệu gấp gáp cho cả bài. Điều này cũng thể hiện tấm lòng yêu nước và lòng căm thù giặc của Trần Quốc Tuấn. Đó là điều làm nên sức sống bất tử của tác phẩm!
Phân tích tác phẩm Hịch tướng sĩ - Mẫu 1
Phân tích Hịch tướng sĩ - Mẫu 2
Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn là anh hùng dân tộc văn võ toàn tài. Tên tuổi của ông gắn liền với Binh thư yếu lược, Hịch tướng sĩ và chiến công Bạch Đằng vĩ đại.
Trần Quốc Tuấn được vua nhà Trần bổ nhiệm giữ chức Tiết chế thống lĩnh lãnh đạo cuộc kháng chiến lần thứ hai (1285) và lần thứ ba (1288) đánh bại quân xâm lược Nguyên - Mông.
Bài văn Hịch tướng sĩ được sáng tác bởi Trần Quốc Tuấn vào năm 1282, trước cuộc hội nghị quân sự Bình Than của các vương hầu. Đây là một tác phẩm quân sự nổi tiếng trong lịch sử dân tộc, là lời kêu gọi chiến đấu quyết tâm để đánh bại quân xâm lược, bảo vệ sơn hà xã tắc của tổ tiên chúng ta từng làm lay động lòng người. Một số người cho rằng: Hịch tướng sĩ là một khúc ca anh hùng rực rỡ về tinh thần đoàn kết của Đông - A.
Khái niệm Đông - A được sử dụng để chỉ triều đại nhà Trần (1226-1400), hào khí ý là tinh thần hào hùng, tinh thần anh hùng. Câu nói này ca ngợi Hịch tướng sĩ là một bản anh hùng ca rực rỡ về tinh thần hào hùng, tinh thần anh hùng của Đại Việt trong thời kỳ nhà Trần. Bài văn đã phơi bày âm mưu xâm lược của quân địch Nguyên - Mông, thể hiện lòng căm thù sâu sắc với kẻ thù, tôn vinh ý chí quyết chiến quyết thắng, sẵn sàng hy sinh trên chiến trường để bảo vệ sơn hà xã tắc. Tinh thần Đông - A lóe sáng trong Hịch tướng sĩ chính là tình yêu nước mãnh liệt
khí phách anh hùng mạnh mẽ của các tướng sĩ nhà Trần và nhân dân ta trong thế kỷ XIII đã ba lần đánh bại quân địch Nguyên - Mông.
Hịch tướng sĩ là một bản hùng ca, vì Trần Quốc Tuấn đã tôn vinh những tấm gương sáng của các quan lại và nhà nho, những người hùng mạnh mẽ của triều đại phong kiến đã hy sinh vì tình trung quân ái quốc. Đó là Kỉ Tín, Do Vũ, Dự Nhượng, Thân Khoái, Kính Đức, Cảo Khanh... đã hi sinh vì đất nước, vượt qua những trở ngại của đời sống phong kiến trở thành những nhân vật vĩ đại truyền danh theo thời gian, mãi mãi với trời đất.
Hịch tướng sĩ là một bản hùng ca của Đại Việt rực rỡ tinh thần Đông - A. Nó phản ánh một cái nhìn chiến lược, rõ ràng nhận thức được âm mưu đen tối, lòng dã tâm của quân địch phương Bắc, sự tham lam tàn ác cùng với âm mưu biến đất nước chúng ta thành tài sản của chúng. Kẻ thù đi lại tự tin trên lãnh địa của chúng, coi kinh đô Thăng Long như là một phần của chúng. Tình tham lam không ngừng, đôi khi chúng dám yêu cầu ngọc và lụa, đôi khi chúng giả mạo là Vương của Vân Nam để lấy vàng bạc, để chiếm đoạt tài sản có giới hạn. Chúng là những con diều, những con dê, những con hổ đói vô cùng bẩn thỉu, tham lam, độc ác, phải bị khinh bỉ và căm ghét đến tận xương tủy, phải bị tiêu diệt!
Hịch tướng sĩ là tiếng gầm gừ, lửa căm giận không chịu khuất phục trước bọn giặc Nguyên - Mông. Đây là bài ca hùng biện đầy cảm xúc, thể hiện tinh thần yêu nước, khẳng định sự kiêu hãnh của anh hùng Trần Quốc Tuấn quyết tâm chiến đấu, sẵn sàng hy sinh trên chiến trường để bảo vệ Tổ quốc Đại Việt: Ta thường quên bữa, nửa đêm vật vã trên gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, chỉ mong được trả thù, chưa bao giờ nản lòng, dù trăm thân phơi ngoài, nghìn xác gói trong da ngựa, ta vẫn sẵn lòng hy sinh.
Có thể nói, đây là đoạn văn hay nhất, hùng tráng nhất trong Hịch tướng sĩ thể hiện một cách xuất sắc tinh thần kiêu hãnh Đông - A.
Hịch tướng sĩ là một tác phẩm chính luận sắc bén nhất, biện bạch mạnh mẽ nhất thể hiện chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng Đại Việt rực rỡ tinh thần Đông - A. Trần Quốc Tuấn đã phê phán những tướng sĩ thời Trần về sự nhục nhã và vinh quang, sự thành bại, sự mất mát và còn lại, sự sống và sự chết, khi số phận của Tổ quốc đang gặp nguy hiểm. Sự thiếu cảnh giác, chỉ biết tận hưởng như: chơi gà, chơi bài..., chỉ biết làm giàu mà quên việc nước, chỉ thích vui chơi mà quên việc binh, chỉ thích rượu ngon, mê tiếng hát..., thì thất bại là không thể tránh khỏi. Nếu giặc Mông Cổ đổ bộ, chúng ta sẽ bị bắt, đau đớn đến bao giờ? Thất bại là thảm họa.
Không chỉ thân phận của ta tan rã, mà cả phú quý của các ngươi cũng biến mất, không chỉ thân thể của ta gánh chịu sự nhục nhã, mà cả hậu duệ của các ngươi cũng phải trải qua nỗi khổ, không chỉ sự an vị của chúng ta bị xâm phạm, mà cả mộ phần của cha mẹ các ngươi cũng bị phá hủy, không chỉ thân thể của ta gánh chịu sự nhục nhã, mà đến cả sau này, danh tiếng xấu vẫn còn tồn tại, và cả dòng họ của các ngươi cũng không thể tránh khỏi sự bị xem là những tướng tá thất bại.
Làm một tướng lĩnh, một người đàn ông trong thời đại hỗn loạn phải biết nhìn nhận sự nhục nhã, phải biết xấu hổ trước sự nhục nhã, phải biết tức giận khi thấy nước nhà bị nhục nhã, phải biết tức giận khi phải phục vụ cho kẻ thù, phải biết căm hận khi nghe nhạc Thái thường để đón tiếp kẻ địch!
Một tướng lãnh phải luôn tỉnh táo, sẵn sàng chiến đấu: đào tạo binh lính, luyện tập bắn cung, để mọi người trở nên giỏi như Bàng Mông, mỗi gia đình đều có Hậu Nghệ, có thể đánh bại Hốt Tất Liệt ở cửa ải, tiêu diệt Vân Nam Vương ở Cảo Nhai. Đó là quyết tâm chiến đấu, là niềm tự hào.
Hịch tướng sĩ tỏa sáng tinh thần kiêu hãnh Đông-A, nó có tác dụng truyền cảm hứng, động viên các tướng sĩ quyết định chiến đấu và chiến thắng quân giặc Nguyên-Mông. Hịch của Tiết chế Quốc công như là tiếng kèn thúc đẩy đoàn quân vang dội trên núi sông. Nó đã đóng góp không nhỏ vào sức mạnh của đội quân Sát Thát, tạo ra nhiều chiến công hùng hồn như Chương Dương, Hàm Tử, Bạch Đằng Giang,...
Hịch tướng sĩ đã phản ánh sự kiêu hãnh Đông-A qua những tấm gương đầy lòng dũng cảm. Đó là tiếng nói mạnh mẽ vang lên trong những thời điểm khó khăn: Nếu bác hà muốn hàng, xin hãy chém đầu thần trước đã! Là tư thế kiêu hãnh của Trần Bình Trọng: Ta sẽ làm quỷ của miền Nam, nhưng không làm vua của đất Bắc. Là tinh thần anh hùng của Trần Quốc Toản: phá hủy đối phương, đền ân nước nhà. Là dũng khí của Phạm Ngũ Lão với binh lính quyết chiến trăm trận trăm thắng:
Thầy lang trải qua biết bao nhiều vùng đất,
Ba quân hùng đấu với sức mạnh của con trâu.
(Thuận hoài – Phạm Ngũ Lão)
Tóm lại, Hịch tướng sĩ là tác phẩm vĩ đại nhất, hùng biện nhất, thể hiện tinh thần yêu nước của văn học thời đại Trần. Qua bài văn này, ta càng tôn kính và biết ơn anh hùng dân tộc Trần Quốc Tuấn. Hịch tướng sĩ còn có tác dụng quan trọng, sâu sắc nuôi dưỡng lòng yêu nước, tinh thần anh hùng, ý chí tự lập tự chủ cho thế hệ trẻ Việt Nam.
Phân tích Hịch tướng sĩ - Mẫu 2
Trước cuộc xâm lược thứ hai của quân Mông - Nguyên (1285), tình hình giao tiếp giữa hai bên rất căng thẳng. Đại diện của chúng ngạo mạn, kiêu căng, yêu sách vô lý. Thời gian hoãn binh không thể kéo dài nữa. Phải chuẩn bị mạnh mẽ hơn.
Trần Quốc Tuấn nhận thấy tình trạng chuẩn bị của tướng lãnh chưa đủ, nên viết ra Binh thư yếu lược, một cuốn sách nói về chiến lược, chiến thuật quân sự, sau đó viết bài văn này để khuyên bảo các tướng lãnh nhận biết rõ tình hình thời điểm đó, nghiên cứu binh thư, rèn luyện võ nghệ, chuẩn bị chống lại quân địch. Bài văn này có thể coi là một bước khởi đầu cho việc phổ biến cuốn sách kia. Mặc dù không có thông tin về thời gian viết bài, nhưng dựa vào nội dung, có lẽ đã viết từ trước khi quân Mông - Nguyên xâm lược lần thứ hai.
Hịch là một dạng văn bản kêu gọi chiến đấu. Nó không tuân theo bất kỳ hình thức nào. Nó là một bài diễn thuyết. Thường được viết dưới dạng văn xuôi, đôi khi là văn xuôi trắng. Để kêu gọi thành công, phải có lý lẽ đúng đắn nhưng chủ yếu nhằm thúc đẩy tinh thần chiến đấu. Bài văn này thường mang tính chất cảm xúc sâu sắc. Văn học của chúng ta không có nhiều bài văn như thế.
Truyền đạt sự hy sinh vì mục tiêu cao cả của những người xưa và của những người đương thời, phản ánh tình hình đất nước đang gặp nguy hiểm, bị đe dọa bởi xâm lược, sau đó chỉ trích thái độ chỉ muốn sống an nhàn của các tướng lĩnh, đánh thức họ về trách nhiệm bảo vệ Tổ quốc. Trần Quốc Tuấn, với vai trò là vị chủ soái, đã dùng trái tim mình trò chuyện với các cấp chỉ huy dưới quyền, thuyết phục họ bằng con đường cảm xúc, động viên họ học hỏi, rèn luyện, giáo dục binh lính để sẵn sàng chiến đấu và giành chiến thắng, tất cả nhằm thể hiện lòng yêu nước cháy bỏng, lòng thù giặc sâu sắc và quyết tâm thắng bất kể khó khăn.
Bắt đầu phần 1, tác giả nói: Ta thường nghe. Lời như vậy là muốn kể một câu chuyện tình cảm. Chuyện ta thường nghe, thường học hỏi. Nay ta muốn trao đổi với các ngươi để các ngươi cùng nghe, cùng suy nghĩ.
Từ xưa đến nay, đã có biết bao nhiêu trung thần nghĩa sĩ hy sinh không tiếc tính mạng. Người giúp vua, người báo thù cho chủ, kẻ đấu tranh với giặc ác, người chống lại quân thù mạnh... Tác giả liệt kê sáu nhân vật lịch sử, và khi thấy người nghe không tin, liền dẫn ra bốn ví dụ từ thời đại hiện tại.
Trong tất cả, có đến mười người. Hành động của họ đều đáng khen ngợi, nhưng mục tiêu mà họ hy sinh không phải ai cũng lớn lao, chỉ có hai người thật sự chiến đấu vì quốc gia. Mặc dù vậy, tác giả vẫn coi họ là những tấm gương của lòng trung hiếu sáng ngời, để lại dấu ấn trong lịch sử, bất diệt trong lòng dân, và vẫn được tôn vinh đến ngày nay.
Chỉ vì họ không theo đuổi cuộc sống an nhàn như nhiều người khác, không chấp nhận chết già ở một nơi yên bình, mà họ dám hy sinh, dám đương đầu với nguy hiểm gấp trăm lần bản thân, dám chiến đấu trên mặt trận địa, xa xôi hàng ngàn dặm. Người xưa, thôi không cần phải nói nữa. Còn những người gần đây, họ cũng chỉ là những chỉ huy bình thường. Họ đã đạt được những thành tựu đáng khen ngợi, vậy tại sao các ngươi không thể?
Như đã đề cập trong phần 1, là trung thần nghĩa sĩ phải dám hy sinh như mười người kia. Thậm chí tình hình đất nước hiện tại đang trở nên nguy hiểm hơn nhiều!
Đất nước không bao giờ trải qua thời kỳ yên bình. Chúng ta sinh ra và lớn lên trong những thời kỳ đầy sóng gió. Điều này là sự thật. Năm 1258, quân Mông Cổ đã xâm lược đất nước chúng ta lần đầu tiên. Chúng bị đánh bại. Nhưng trong hai mươi bảy năm kể từ đó đến cuộc xâm lược thứ hai vào năm 1285, chúng không bao giờ để cho đất nước chúng ta có thời gian nghỉ ngơi, ngày một trở nên kiêu ngạo hơn. Sự thực đau lòng này là của cả đất nước, của chúng ta và của các ngươi.
Hôm nay, chúng ta không thể làm ngơ trước cảnh tượng hàng ngày, thấy sứ giặc đi ra ngoài đường múa nhảy, táo tợn chửi bới chính phủ, hành hạ dân lành. Chúng không đáng kể, chỉ là bọn chó săn và dây diều. Chúng đòi ngọc vàng, bạc bạch kim trong khi tài nguyên của chúng ta không thể không hạn chế mà lòng tham của chúng không ngừng.
Chúng ta biết rằng việc này cũng chỉ giống như đưa thịt cho hổ đói, rồi một ngày nào đó hổ sẽ tấn công chúng ta. Vì chúng không chỉ muốn có vàng bạc, ngọc lụa. Chúng giả danh muốn qua đường để đánh chiếm thành Chiêm Thành, nhưng thực ra chúng muốn chiếm lấy đất nước chúng ta. Sự nguy hiểm đó sẽ quay lại họ.
Tình hình đất nước hiện nay đang như vậy. Hỗn loạn và khó khăn đến mức đó. Chúng ta và các người cùng chia sẻ tình hình này. Chủ soái liên kết với các tướng, chia sẻ tình hình đó với họ, cùng sinh sống và lớn lên trong môi trường đó, ngang hàng, đồng trình. Những lời nói vẫn thân mật, nhưng bên trong có điều đau lòng. Như tiếng thở dài, hay là một giọng điệu buồn đang che giấu. Hỏi lòng của người nghe còn cách nào để tránh khỏi cảm xúc ấy không?
Phần 2: Tình hình đã chung thì cảm xúc cũng phải chung. Từ 'Ta thường tới bữa…' đến 'ta cũng vui lòng' là những tâm trạng mà chủ soái nung nấu. Quên ăn, bỏ ngủ, đau, buồn, căm, tức, quyết giết giặc, quyết hy sinh. Tất cả đều cao trào. Quân giặc xúc phạm quốc thể, triều đình, dân tộc, chúng ra mặt cướp nước, coi ta như giun dế, rác rưởi.
Không thể làm gì khác! Phải nhịn đựng tạm thời để chuẩn bị. Trong một buổi đại biểu, ta tiếp sứ giặc. Trong quá trình trao đổi, có vấn đề gì, tên sứ đánh mạnh vào đầu ta, gây ra vết thương. Ta không thay đổi biểu cảm, dùng khăn lau máu và tiếp tục trao đổi.
Dũng khí có thể biểu lộ dữ dội, nhưng cũng có thể là im lặng. Nhưng im lặng cũng có thể chứa đựng sức mạnh. Trước quân thù và mọi người, cần giữ thái độ nhẫn nhịn. Nhưng trong đêm, với người thân hay các tướng lĩnh, sao có thể kìm nén cảm xúc?
Do đó, đây là sự chia sẻ tâm tình sâu kín nhất với những người mà ta tin tưởng tuyệt đối, có thể mở lòng mình. Bắt đầu với ta và về ta: Ta thường tới bữa quên ăn… ta cũng vui lòng. Chủ soái đã mở lòng mình hết mức để đền bù sự nhịn nhục hàng ngày, nhưng cũng để tướng lĩnh nghe, truyền đạt cái lửa nhiệt tình của mình.
Chủ soái xem xét cách mình đối xử với tướng lĩnh, có phù hợp với tinh thần một quân đội coi trên dưới như cha con không. Một số từ ta dùng có chút tình chủ tớ, nhưng điều quan trọng là thể hiện sự chăm sóc tỉ mỉ, đầy tình thương, trân trọng. Lặp lại và nhấn mạnh ba lần cùng ta, cùng nhau: Cùng ta giữ binh quyền, sống chết cùng nhau trên chiến trường, cười vui cùng nhau lúc an nhàn.
Dù khác biệt về chức vị, về quan hệ chủ tớ, nhưng chúng ta đều có trách nhiệm chung, cùng nhau thực hiện nhiệm vụ chiến đấu, sống chết đều chung, cùng nhau thư giãn lúc an nhàn, cười vui đều cùng nhau. Tình cảm đó là biểu hiện tốt đẹp của tinh thần 'phụ tử chi binh'. Chủ soái đối xử với cấp dưới theo tinh thần chính trực, chính nghĩa.
Phần 3: Chủ soái tiết lộ tâm can, tự kiểm điểm cách đối xử như vậy, nhìn lại đội quân tướng tá của mình thì sao? Hóa ra các người không hề nhục; các người chỉ muốn vui chơi, khi giặc tới, chúng ta và các người đều bị bắt; chúng ta và các người đều mất tất cả, chúng ta và các người đều mang sự nhục đến mãi mãi; vậy thì còn vui chơi được không? Vì vậy hãy lắng nghe ta biết lo trước, huấn luyện quân sĩ, ai cũng phải giỏi, giết giặc, trả thù, sẽ mang lại hạnh phúc cho ta, cho các người, lại để lại tiếng tăm lưu truyền muôn đời; vậy thì 'không muốn vui chơi phỏng có được không?'.
Lập luận của chủ soái chỉ có vậy. Lý lẽ cũng nhiều. Đề cập đến lợi ích thiết thân mới nói đến: mất vị thái ấp, phát tài; gia đình tan vỡ, vợ con khốn khổ; thần tộc bị hủy diệt, lăng mộ bị phá hủy; danh tiếng mất mát, nhục nhã kéo dài. Nếu có thì cũng những lợi ích thiết thân ấy: vị thái ấp ổn định, phát tài lâu dài;
Gia đình ấm no, con cái được nuôi dưỡi; tổ tiên được tôn thờ, thờ cúng; danh tiếng, dòng họ, truyền thống được lưu truyền. Có ý kiến cho rằng nói về lợi ích của chủ tớ trong tầng lớp thống trị như thế là hạn chế, mặc dù lợi ích của tầng lớp thống trị vẫn tương thích với lợi ích của dân tộc.
Tuy nhiên, xét kỹ thì nói về lợi ích thiết thân như vậy là đi sâu vào vấn đề dân tộc không chỉ dừng lại ở lãnh thổ, mà còn liên quan đến quyền sống của người dân. Con người còn có nguồn sống: đất ruộng, phát tài; gia đình, con cái; mộ phần tổ tiên; danh tiếng để lại sau này. Nói cách khác, còn có cả cuộc sống vật chất và tinh thần; không chỉ là miếng ăn mà còn có tình thân, văn hóa, trách nhiệm với hiện tại và lịch sử muôn đời.
Nói về lợi ích cá nhân thì đúng, nhưng lợi ích đó liên quan chặt chẽ đến trách nhiệm quan trọng là trách nhiệm với sự tồn vong của đất nước, bởi vì nó được đặt ra trong tình hình đáng lo ngại: Nếu quân Mông Cổ xâm nhập và một giả thuyết kinh hoàng: cỏ cây héo úa đầu Hốt Tất Liệt tại cửa khuyết, khiến thịt xương Vân Nam Vương tại Cảo Nhai. Ở đó, không còn là quyền cá nhân ích kỷ! Đó là quyền lợi thực sự, nhưng cũng là nguồn gốc thiết thân nhất, thiêng liêng nhất, là nền tảng gần gũi nhưng rất thiết thực và vững chắc của tình yêu quê hương. Tình yêu đất nước sâu sắc, thắm thiết luôn luôn bắt nguồn từ tình thương làng xóm, quê nhà, gia đình.
Nói về rủi ro mất mát, đó là giả thiết về tương lai. Hiện tại là chuyện các tướng lĩnh quá phóng túng nên bỏ mặc. Không phải chủ soái cấm họ làm gì cả. Họ say sưa với mọi thứ: đá gà, đánh bạc; vui chơi trên ruộng đất, ấm áp gia đình; tham muốn giàu có, ham săn bắn; uống rượu, say mê ca hát. Lý do phải phê phán là vì vui chơi không phải lúc. Say sưa những điều đó thì làm sao chống lại kẻ thù?
Vì vậy, cần phải minh họa cho họ thấy: con gà trống không thể xuyên thủng áo giáp của kẻ thù? Chiêu trò đánh bạc không thể dùng làm mưu lược quân sự; dù có ruộng đất nhiều đến đâu cũng không mua được sự an toàn của tấm thân bị kẻ thù bắt; lo âu cho gia đình, làm sao giữ quân đội?
Tiền bạc nhiều đến đâu cũng không mua được sự an toàn trước kẻ thù; rượu ngon không làm kẻ thù say chết, tiếng hát hay không làm kẻ thù điếc tai. Nghe có vẻ hài hước nhưng tình thì rất thật, rất nghiêm túc, dường như có một nỗi đau lớn, nhưng vì lòng khoan dung, lòng biết ơn rộng lớn, chủ soái so sánh những điều vui chơi thông thường với sức mạnh của quân địch, làm rõ sự vô dụng của sự ham chơi trước sức mạnh ấy, để họ hiểu rõ và suy ngẫm.
Chủ soái nhắc lại hai lời: Khi đó, dù các ngươi muốn vui chơi phong có được không? và Khi đó, dù các ngươi không muốn vui chơi phỏng có được không? Nhắc lại để tán thành vui chơi, nhưng chỉ sau khi chiến thắng. Đó không chỉ là lòng thương yêu mà còn là trí óc mở rộng. Có phê phán, có nêu cười, nhưng hết sức bao dung và hiếu biết.
Mục tiêu của bài diễn văn là đánh thức. Thức tỉnh những người đang ngủ mê. Do đó, phải đánh thức họ nhiều lần. Từ ngôn từ trở lại, đan xen, lặp lại, tầng tầng, lớp lớp. Hai đoạn ngắn tạo thành hai tầng lập luận chồng lên nhau, phản ánh nhau ngược lại. Đoạn trước chỉ biết đến vui chơi, khi giặc tới thì mất tất cả, muốn vui chơi cũng không được. Còn đoạn sau là tập trung vào chăm lo việc quân sự, khi giặc tới thì chiến thắng, không mất gì mà còn được, muốn không vui chơi cũng không được.
Đó là sự đối lập giữa mất và được. Mất là: không còn, đã mất; gặp nạn, khốn khổ; bị bắt, bị quật ngã; bị nhục, bị rửa, không còn gì, thất bại. Được là: mãi mãi vững chắc, hưởng thụ suốt đời, ấm êm và giàu có; được tôn kính suốt đời, được thờ cúng quanh năm; trong cuộc sống này được tôn trọng, và ngàn năm sau vẫn được nhớ đến; không bị lãng quên, lưu danh mãi mãi. Đó là sự đối lập chi tiết. Còn sự đối lập cả trong chi tiết: Nay các ngươi và Nay ta nói rõ cho các ngươi; đối lập trong kết luận: dù các ngươi muốn vui chơi phỏng có được không? Hay dù các ngươi không muốn vui chơi phỏng có được không?
Mỗi từ mỗi lời một, cụ thể, sâu sắc, cho đến khi phát hiện ra chân lý. Phần trên thể hiện sự đối lập giữa hai đoạn văn. Trong mỗi đoạn, cũng chứa nhiều tầng, nhiều lớp. Xem xét phần trên.
Bắt đầu từ tầng một. Lặp lại từ không biết: không biết lo lắng, không biết nhục nhã, không biết tức giận, không biết căm hận. Và cả bốn lần không biết, bốn tầng cảm xúc được sắp xếp từ thấp đến cao, dựa trên một cảm xúc chủ đạo là nhục nhã: nhìn thấy người khác nhục nhã mà không biết lo, nhìn thấy đất nước nhục nhã mà không biết xấu hổ, phục vụ quân địch (nhục nhã) mà không tức giận, nghe nhạc của vua trong buổi tiệc đánh lừa sứ giả (nhục nhã) mà không căm phẫn.
Tiếp theo là tầng hai: Tính cách vui chơi thiếu ý thức, được chia thành bốn cấp độ từ việc đùa giỡn đến sự mê muội: sử dụng chọi gà như là trò đùa, sử dụng đánh bạc như là phương tiện tiêu khiển (cấp độ 1); thích thú với làm vườn, yêu thương gia đình (cấp độ 2); mải mê làm giàu quên mất việc quốc gia, ham muốn săn bắn làm lãng quên công việc quân sự (cấp độ 3); say mê rượu ngon, mê mẩn tiếng hát (cấp độ 4).
Tầng thứ ba: Nếu quân giặc Mông Cổ tràn vào. Chỉ những từ bất lực: không thể đâm thủng, không thể sử dụng, nghìn vàng cũng không chuộc được, trăm sự ích chi cũng không mua được, không đuổi được, không thể, không thể.
Tầng thứ tư là hậu quả của những tình huống trên. Một câu nói vượt qua tất cả: mất, chúng ta cũng sẽ mất. Và bốn cặp từ nhấn mạnh đi nhấn mạnh lại: không chỉ là mất thái ấp của chúng ta, mà còn mất bổng lộc của các ngươi, không chỉ là gia quyến của chúng ta tan rã, mà còn vợ con của các ngươi khốn khổ…
Bốn tầng, mỗi tầng bốn lớp. Lớp sau bổ sung cho lớp trước, từ thấp đến cao, từ hạnh phúc đến đau khổ, từ nhẹ đến nặng, từ gần đến xa. Bốn tầng hình thành một lập luận vững chắc, rõ ràng, cụ thể, sống động, đánh thẳng vào tâm trí, vào lòng người. Cuối cùng, kết luận bằng một từ không to tướng ẩn sau câu hỏi quyết định, có sức nặng như một lời nhắc nhở nhưng vẫn nhẹ nhàng như một lời chia sẻ: lúc bấy giờ dẫu các ngươi muốn vui chơi phỏng có được không?
Phần văn tiếp theo cũng gồm hai tầng, mỗi tầng cũng có hai lớp. Kết thúc vẫn là một từ không, nhưng sau câu hỏi lại là một từ 'có', một khẳng định 'phải vui chơi' vì không vui chơi cũng không được.
Lời văn trong cả hai phần không phải là lời quở trách, cũng không có sự sỉ nhục. Đó là những lời đầy lòng nhân ái và tin cậy. Người nghe không cảm thấy bị chỉ trích mà cảm thấy được tôn trọng, họ sẽ thức tỉnh, họ sẽ trở nên mạnh mẽ, họ có đủ khả năng để đánh bại quân giặc.
Phần 3 Tuy nhiên, thân mật không có nghĩa là xa rời nguyên tắc, bỏ qua trách nhiệm. Ngay ở phần trên vẫn không quên đối chiếu với nhiệm vụ, không một phút lãng quên nguy cơ nước nhà bị xâm lược. Cho nên sau khi phân tích việc vui chơi, lấy đó làm điều răn, sau khi động viên tướng tá có thể hoàn thành nhiệm vụ một cách vẻ vang, chủ soái lại nêu ra mục đích cụ thể, trực tiếp của bài hịch vạch ra hai con đường buộc phải chọn một: Nếu tuân theo sách này theo lời ta dạy thì trọn đời là tôi chủ, không tuân theo sách này, ngược lại với lời ta dạy thì trọn đời là kẻ thù.
Và chủ soái giải thích luôn: Bởi giặc với ta là kẻ không đội trời chung, các ngươi không rèn luyện, thì không khác gì quay đầu đầu hàng, không chịu thua giặc, vậy còn gì mà không thù? Còn gì mà không mãi để thẹn, mặt mũi nào dám chạy trốn nơi này nữa? Cuối cùng chấm dứt bằng một câu tỏ rõ tấm lòng của chủ soái: Ta viết bài hịch này để các ngươi biết tôi.
Tấm lòng ấy là thương yêu độ lượng, không chỉ ân tình mà còn quyết đoán, không chỉ động viên mà còn ép buộc, không chỉ khuyên bảo mà còn kỷ luật. Giọng điệu là tâm tình nhưng lời đã là lệnh: nghe lời tôi là tôi chủ, không nghe lời tôi là kẻ thù. Người nghe vì tình cảm không thể hiểu, vì lý do không thể không tin.
Trong văn học nước nhà không nhiều bài hịch có tâm trạng như bài này. Lý do không cao siêu mà gần gũi, không trừu tượng mà cụ thể, lấy ví dụ từ con người và công việc để làm gương mẫu, thuyết phục bằng hành động hơn là lời nói, nhưng tất cả đều tràn đầy tình cảm và chính nghĩa, theo tinh thần yêu nước và hiếu binh của chủ soái. Bài hịch có những hạn chế nhất định, nhưng chính nhờ tinh thần đó mà có sức cảm hứng sâu sắc, mạnh mẽ.
Khi được phổ biến, nó đã làm cho cả quân và dân đều hứng khởi đánh đuổi giặc, kết hợp với tác động của lời kêu gọi Diên Hồng (đầu năm 1285), đưa đến sự phấn khích với hai chữ Sát Thát và nâng cao tinh thần đời Trần. Cho đến ngày nay, bài hịch vẫn giữ lại sức mạnh đó. Nó vẫn là một bài học về quyết tâm chiến đấu và quyết tâm chiến thắng, một lời nhắc nhở về tình yêu nước và lòng trung thành không ngừng khích lệ.
Phân tích Hịch tướng sĩ - Mẫu 3
Trần Quốc Tuấn là một vị tướng tài đã có công lớn trong hai cuộc kháng chiến chống giặc Mông. Tác phẩm “Hịch tướng sĩ” được ra đời trước cuộc kháng chiến chống quân Nguyên – mông lần thứ hai mang tình yêu tha thiết, nồng nàn của ông dành cho quê hương, đất nước. Đồng thời, tác phẩm còn được coi là lời hiệu triệu toàn quân trước ngày ra trận.
Là một vị tướng kiệt xuất, Trần Quốc Tuấn yêu nước tha thiết và hết lòng tận trung với dân, với nước. Nên khi thấy giặc ngoại xâm ngang tàng, dám coi thường đất nước, sỉ nhục vua quan, ông tố cáo chúng bằng lời lẽ đanh thép: “ngó thấy sứ giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê cho mà bắt nạt tể phụ”.
Ta lại càng căm tức hơn khi chúng dám vơ vét tài sản của nhân dân: “thác mệnh hốt tất liệt mà đòi ngọc lụa, để thỏa lòng tham không cùng, giả hiệu Vân Nam Vương mà thu bạc vàng, để vơ vét của kho có hạn.” Đưa ra những bằng chứng về sự tàn bạo, tham lam của giặc, Trần quốc Tuấn đã khơi dậy lòng căm thù và ý chí chiến đấy của toàn thể nhân dân, tướng sĩ.
Trước nỗi nhục mất nước, dân tộc rơi vào cảnh lâm nguy, một vị tướng tài không khỏi trằn trọc băn khoăn, lo lắng: “Ta thường đến bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối; ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa”. Ông đau đáu nhìn vận nước đang suy mà căm thù lũ giặc, quyết không đội trời chung: “xả thịt lột da, nuốt gan, uống máu quân thù.” Ông nguyện hi sinh bản thân để đánh đuổi giặc ngoại xâm, giành lại độc lập cho dân tộc: “dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng.”
Không chỉ một lòng vì nước quên thân, Trần Quốc Tuấn còn là một vị tướng biết yêu thương những binh sĩ như những người anh em cùng nhau xông pha ngoài chiến trường: “không có mặc thì ta cho cơm, không có ăn thì ta cho cơm, quan nhỏ thì ta thăng chức, lương ít thì ra cấp bổng, đi thủy thì cho thuyền, đi bộ thì ta cho ngựa”. Bởi vậy, những binh sĩ vừa khâm phục đức hi sinh của ông mà lại vừa cảm thấy gần gũi, cảm động trước những ân tình ông dành cho họ.
Song song với sự quan tâm tới các binh sĩ, ông cũng phê phán nghiêm khắc những tư tưởng, ý thức sai trái của họ: “thấy nước nhục mà không biết lo, thấy chủ nhục mà không biết thẹn, làm tướng triều đình phải hầu quân giặc mà không biết tức”.
Ông cũng phê bình gay gắt những người chỉ ham chơi mà bỏ bê trách nhiệm, nhất là khi đất nước đang lâm nguy: “lấy việc chọi gà làm vui đùa, lấy việc đánh bạc làm tiêu khiển, hoặc vui thú vườn ruộng, hoặc quyến luyến vợ con, hoặc lo làm giàu mà quên việc nước, hoặc ham săn bắn mà quên việc binh, hoặc thích uống rượu, hoặc mê ca hát.” Trần Quốc Tuấn đã làm thức tỉnh biết bao binh sĩ để họ ý thức được những việc làm sai trái của chính mình, để từ đó mà sửa chữa, trở lại với trách nhiệm mà bản thân cần đảm đương lúc này. Đó chính là cùng nhau đoàn kết, rèn luyện và chiến đấu với quân thù, bảo vệ đất nước.
“Hịch tướng sĩ” thực sự là một áng văn bất hủ cho thấy Trần Quốc Tuấn không chỉ là một vị tướng tài yêu đất nước, có khả năng thu phục lòng người mà còn là một tài năng văn chương xuất chúng. Với giọng văn đanh thép chứa đầy những suy tư về vận mệnh dân tộc, tên tuổi ông sẽ mãi rạng ngời trên những trang văn học, trang sử vàng của dân tộc Việt Nam.
Phân tích Hịch tướng sĩ - Mẫu 4
Thế kỉ XIII, đất nước Đại Việt liên tục đứng trước mối đe dọa của giặc Nguyên. Chiến đấu để độc lập, tự chủ, hay đầu hàng để chịu mất nước, nô lệ? Vua tôi nhà Trần đã quyết chọn con đường chiến đấu. Nhưng làm sao để có thể chọn được con đường ấy? Trần Quốc Tuấn đã đưa ra một lời giải đáp vừa thấu lí vừa đạt tình trong bài ‘Hịch tướng sĩ‘ bất hủ của mình. Bài hịch, mặc dầu là một bài văn chính luận, nhưng có những đoạn văn đọc lên nghe rất thống nhất, tràn đầy tình cảm như đoạn ông viết về lòng căm thù đối với quân giặc.
Trần Quốc Tuấn viết:
‘…Huống chi, ta cùng các ngươi sinh ra phải thời rối ren, lớn lên gặp buổi khó nhọc’. Không phải riêng ta hay riêng các ngươi, mà ta ‘cùng các ngươi’. Nói thế Trần Quốc Tuấn đã chia sẻ tâm sự của mình cùng với các tướng sĩ, cũng là chia một chân lí của thời đại: trong thời bình, cương vị của mọi người có thể khác nhau, nhưng khi đất nước bị lâm nguy, nền tự chủ của đất nước bị đe dọa hoặc nếu mất nước thì tất cả mọi người, không trừ ai, sẽ giống nhau trước nỗi nhục chung, nỗi khổ chung của kẻ mất nước.
Bởi vậy, nỗi nhục sau đây không phải của riêng ai: ngó thấy sứ giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ… Những sự việc như thế có thể nhiều người đã biết một cách riêng biệt và cụ thể, đã được vị tướng họ Trần hệ thống lại, dựng thành một bức tranh sinh động về hành động láo xược của sứ nhà Nguyên.
Ông chỉ nêu lên ba sự việc của bọn chúng: đi lại nghênh ngang, sỉ mắng triều đình, bắt nạt tể phụ (tức là bậc đứng đầu trong các quan), kèm theo những hình ảnh diễn tả đầy căm giận: ‘uốn lưỡi cú diều’, ‘đem thân dê chó’. Những sự việc đó nhằm nói lên điều gì? Danh dự của đất nước bị sỉ nhục, chủ quyền của đất nước xâm phạm. Làm sao có thể không cảm thấy chính mình bị nhục, làm sao có thể không cảm thấy lòng đầy căm giận khi chính mắt mình nhìn thấy những sự việc như thế.
Tác giả bài hịch tiếp tục mô tả về bọn giặc: '… lại thác mệnh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa, để thỏa lòng tham không cùng, giả hiệu Vân Nam Vương mà thu bạc vàng để vét của kho có hạn’. Không chỉ dừng lại ở những hành động láo xược, bọn xứ giặc còn có những đòi hỏi vô lý về của cải vật chất. Ý nghĩa toát ra từ việc trở nên rất sinh động khi tác giả đặt ra sự tương phản giữa ‘của kho có hạn’ với ‘lòng tham khôn cùng’ của bọn sứ Mông cổ.
Với những hành động ngông cuồng, sỉ nhục về mặt tinh thần, vơ vét về mặt vật chất, bọn sứ giặc đã lộ rõ bản chất tham tàn của kẻ xâm lược. Từ đó, thái độ nhìn xa trông rộng đầy tinh thần cảnh giác của tác giả đã hoàn toàn đúng đắn: ‘Thật khác nào ném thịt cho hổ đói, sao cho khỏi gây tai vạ về sau!‘
Sự nhân nhượng đã đến giới hạn. Không thể nhân nhượng hơn được nữa! Không thể nhẫn nhục hơn được nữa! Đến đây, Trần Quốc Tuấn bày tỏ lòng căm giận của mình: ‘Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, chỉ căm tức rằng chưa xẻ thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù, dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa ta cũng vui lòng’.
Trong văn thơ cổ, chưa từng có, lòng căm thù giặc và ý chí quyết chiến được diễn tả một cách chân thành, thống thiết và mãnh liệt đến thế. Đây là lòng căm thù và ý chí riêng của một người nhưng cũng tiêu biểu cho lòng căm thù và ý chí của toàn thể nhân dân Đại Việt. Hay có thể nói: ý chí của cả một dân tộc, một đất nước dồn nén lại trong nỗi niềm của một con người.
Có một điều đáng lưu ý: ở đoạn trên tác giả nói đến hoàn cảnh chung của ‘ta’ và ‘các ngươi’, nhắc đến nguy cơ chung, nỗi nhục chung của ‘ta cùng các ngươi’ nhưng đến đoạn sau, nói lên ý chí căm thù giặc, tác giả chỉ nói ‘ta’. Vì sao vậy? Vì đó chính là điều mà vị tổng tư lệnh quân đội mong đợi ở tướng sĩ, đòi hỏi ở mỗi tướng sĩ của mình. Đằng sau đoạn văn là một câu hỏi bức bách: thời cuộc rối ren như vậy, đất nước gặp buổi khó khăn như vậy, nỗi lòng ta như vậy, còn lòng các ngươi ra sao? Các ngươi đã thấy nỗi nhục của nước, nhưng các ngươi đã có lòng căm hận đến như thế chăng?
Nếu ‘Hịch tướng sĩ’ của Trần Quốc Tuấn được coi là một trong những tác phẩm văn học xuất sắc nhất thời cổ, thì đoạn văn trên là một trong những đoạn văn hùng vĩ và đầy cảm xúc nhất của bài hịch. Đọc đoạn văn này, ta như được đắm chìm trong không khí hào hùng của một thời đại lịch sử đầy biến động.
....