Đánh giá giá trị nhân đạo trong đoạn trích Nỗi thương mình trích từ Truyện Kiều của Nguyễn Du để thể hiện tư tưởng nhân văn của tác giả: lòng trắc ẩn trước bi kịch của Kiều.
Đồng thời khẳng định phẩm cách cao quý của nàng và nhấn mạnh ý thức về đạo đức và cá nhân, đồng thời chỉ trích xã hội phong kiến xưa đã bóp méo giá trị con người. Dưới đây là nội dung chi tiết của dàn ý và 2 bài văn mẫu, mời các bạn đọc theo dõi bài viết dưới đây.
Dàn ý phân tích giá trị nhân đạo trong đoạn trích Nỗi thương mình
I. Khởi đầu
- Giới thiệu một số điểm cơ bản về Nguyễn Du và tác phẩm Truyện Kiều
- Giá trị nhân đạo của tác phẩm rõ ràng được thể hiện qua đoạn trích Nỗi thương mình.
II. Nội dung chính
1. Tổng quan:
- Một số thông tin về nguồn gốc và ý nghĩa của Truyện Kiều, cùng với sự ảnh hưởng và tầm quan trọng của Nguyễn Du trong văn học Việt Nam.
- Tóm tắt ngắn gọn về nội dung của Truyện Kiều.
- Trình bày nguồn gốc và vị trí của đoạn trích.
- Xác nhận: giá trị nhân đạo trong đoạn trích được thể hiện qua các khía cạnh sau:
- Mô phỏng cuộc sống, tình cảm bi kịch, đau khổ của Thúy Kiều.
- Nhấn mạnh vào tâm trạng đau đớn, lo lắng của Thúy Kiều.
- Sự đồng cảm và chia sẻ của Nguyễn Du với Thúy Kiều cũng như với phụ nữ thời phong kiến nói chung.
2. Phân tích hai đoạn trích để làm sáng tỏ giá trị nhân đạo
Có thể tiến hành theo hai cách: phân tích dựa trên 3 điểm đã đề cập hoặc phân tích từng đoạn trích rồi tổng hợp lại 3 khía cạnh trên.
3. Đánh giá vài đặc điểm về mỹ thuật (đóng góp quan trọng vào việc thể hiện tư tưởng nhân đạo);
Mở rộng quan điểm về lòng thương người phụ nữ của Nguyễn Du qua một số tác phẩm khác của ông.
III. Kết luận
- Đoạn trích đã tái hiện các giai đoạn đau đớn trong cuộc đời đầy khổ đau của Thúy Kiều.
- Qua đoạn trích, Nguyễn Du đã bảo vệ quyền sống của người phụ nữ và gián tiếp chỉ trích xã hội với những bất công và khổ đau họ phải chịu đựng.
- Ý kiến cá nhân của từng người.
Phân tích giá trị nhân đạo trong Nỗi thương mình - Mẫu 1
Trải qua biển đời gian khổ
Câu thơ vẫn chứa đựng nỗi đau tình nhân
Ngập ngừng cuộc sống sóng sánh
Tố Như ơi! Lệ chảy buông rơi trên thân Kiều
Những dòng thơ của Tố Hữu đã gợi nhớ đến Nguyễn Du - thi sĩ lớn của dân tộc, một nhà nhân đạo to lớn cùng tác phẩm vĩ đại “Truyện Kiều”. Trong tác phẩm này, Nguyễn Du đã truyền đạt nhiều giá trị nhân đạo khi mô tả cuộc sống và số phận của một phụ nữ tài năng và dung dị trong xã hội thời phong kiến. Bằng cách sử dụng ngôn từ tinh tế và hình ảnh sâu sắc, Nguyễn Du đã thu hút người đọc bằng những đoạn miêu tả về tâm trạng của Kiều. “Nỗi thương mình” (trích từ Truyện Kiều) là một ví dụ rõ ràng cho tài năng nghệ thuật đặc biệt của Nguyễn Du, cái nhìn tiên tiến về thời đại cũng như tinh thần nhân đạo mới mẻ. Đoạn trích chỉ dài khoảng hai mươi câu, từ câu 1229 đến câu 1248, thể hiện tâm trạng đau buồn, nỗi cô đơn, và ý thức sâu sắc về số phận không may của Thúy Kiều khi ở trong lầu xanh.
“Truyện Kiều” là một bức tranh chân thực về sự suy tàn của xã hội phong kiến không thể tránh khỏi trong vòng lịch sử. Điều này đồng nghĩa với sự biến chất của tâm hồn con người, khi tiền bạc trở thành quyền lực tối cao, đẩy con người về bước đường cùng. Gia đình Vương đã chứng kiến tai họa. Gia đình Kiều bị bức xúc, và Thúy Kiều, làm con gái, đã phải trải qua 15 năm tu kiếm đầy gian nguy. Trong thời gian ấy, cô đã gặp phải nhiều sự lừa dối, nhưng có lẽ sự tổn thương lớn nhất là khi bị Mã Giám Sinh lừa bán vào lầu xanh. Những ngày Thúy Kiều ở lầu xanh là những ngày đầy buồn bã, tâm trạng lận đận khi cô suy tư về số phận và sự tủi nhục của cuộc sống xưa. Đoạn trích là lời thoại nội tâm đầy đau đớn: “Khi tỉnh mơ rượu... xuân là gì?” Đây cũng là khúc mở đầu cho chuỗi tâm sự đau buồn. Kiều nghĩ về số phận của mình và “cảm thấy tủi thân cho bản thân mình”. Đối với cô, hiện thực giống như một giấc mơ đắng cay khi cô so sánh hiện tại với quá khứ.
Bắt đầu đoạn trích Nỗi Thương Mình là tâm trạng buồn bã, tủi thân của Thúy Kiều phải trải qua trong lầu xanh
“Biết bao bướm bay lượn
Trọn kiếp sóng nước về luồng
Dẫu sóng vỗ gió vờn cành
Tố Như ơi! Nước mắt tuôn rơi trên cơ thể Kiều
Với bốn câu đầu của đoạn trích, Nguyễn Du đã sinh động miêu tả cuộc sống ở lầu xanh và thân phận của người kĩ nữ bằng bút pháp ẩn dụ. Kiều phải tiếp khách làng chơi mỗi đêm, từng đêm luôn đầy rẫy, cho thấy sự nhộn nhịp tại lầu xanh, nơi mà Tú Bà làm chủ và cũng là nơi Kiều phải chịu đựng. Bằng hình ảnh như bướm lả ong lơi, cuộc say đầy tháng, trận cười suốt đêm, Nguyễn Du chỉ ra sự giả tạo của cuộc sống tại đây và nỗi bất hạnh của Kiều.
Nguyễn Du tái hiện hoàn cảnh của Kiều qua sự đối lập giữa nước mắt và cười. Mặc dù chưa miêu tả trực tiếp, nhưng vẫn thấy được sự chịu đựng của Kiều. Bút pháp ẩn dụ giúp giữ lại vẻ cao đẹp của tâm hồn Kiều, thể hiện sự cảm thông của tác giả cho nhân vật.
Bốn câu thơ đầu thể hiện tâm trạng của Kiều, người sống trong lầu xanh nhưng giữ được nhân phẩm cao đẹp. Cô đơn và yếu đuối trước sự xấu xa, Kiều nhận ra nỗi đau của mình.
“Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh
Giật mình mình lại thương mình xót xa”
Mỗi khi uống rượu, Kiều cố quên nhưng không bao giờ làm được. Khi tỉnh lại, những nỗi đau trở lại, khiến Kiều giật mình. Cô nhận ra sự tàn phá về thể xác và phẩm cách của mình, thể hiện nỗi đau đớn của mình.
Trước mộ Đạm Tiên, Kiều từng khóc vì thương cảm, nhưng ở đây, trong hoàn cảnh đau buồn này, Kiều chỉ biết thương cho chính mình. Cảm giác cô đơn và tủi nhục của Kiều được thể hiện rõ qua sự thay đổi trong cuộc sống.
Khi sao phong gấm rủ là
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường
Mặt sao dày gió dạn sương
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân
Một cô gái xinh đẹp, hiền lành bây giờ trở thành một bông hoa tan tác. Sự thay đổi nhanh chóng khiến Kiều kinh ngạc, sửng sốt. Sự đối lập giữa quá khứ và hiện tại tạo nên cảm giác đau đớn trong lòng Kiều.
Nguyễn Du miêu tả cuộc sống tại lầu xanh một cách chi tiết hơn, nơi mà Kiều sống nhưng tưởng như đã chết.
Đòi phen gió tựa hoa kề
Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ
Đòi phen nét vẽ câu thơ
Cung cầm trong nguyệt nước cờ dưới hoa
Vui là vui gượng kẻo là
Ai tri âm đó mặn mà với ai?”
Bức tranh thiên nhiên tươi đẹp hiện lên, nhưng sự tươi sáng ấy lại che phủ bởi nỗi đau trong lòng Kiều. Cảnh vật rực rỡ nhưng lại làm nổi bật nỗi cô đơn, nỗi đau đớn của nhân vật.
Cảnh vật không thể vui vẻ khi lòng người nặng trĩu nỗi đau. Mỗi khi gió tựa hoa kề, cảm giác tê tái lại tràn ngập trong tâm hồn Kiều. Ý thức về nhân phẩm luôn là một áp lực không nguôi cho nhân vật.
“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”
Nhờ sự thông cảm và tài năng của mình, Nguyễn Du đã viết ra những câu thơ đặc biệt nhất, nó thể hiện sâu sắc tâm trạng của nhân vật và lan tỏa ra cảnh vật một cách tự nhiên.
“Vui là vui gượng kẻo là
Ai tri âm đó mặn mà với ai?”
Hai câu thơ cuối phản ánh tâm trạng sâu thẳm của Thúy Kiều một cách tinh tế, độc đáo. Từ “vui gượng” thể hiện sự lạc lõng, cô đơn và mâu thuẫn trong tâm trạng của Kiều trước hoàn cảnh khó khăn.
Với ngôn ngữ tinh tế và hình ảnh sâu sắc, mỗi câu thơ chứa đựng nỗi đau của người con gái bất hạnh. Tuy nhiên, qua những nỗi đau đó, Kiều vẫn là hiện thân của sự trinh tiết và ngưỡng mộ.
Đoạn trích thể hiện rõ số phận và tính cách của Thúy Kiều, đồng thời là sự tố cáo xã hội phong kiến thời xưa đã chà đạp lên phẩm giá con người.
Phân tích giá trị nhân đạo trong Nỗi thương mình - Mẫu 2
Truyện Kiều là bức tranh sống động về xã hội phong kiến suy tàn, kéo theo sự biến đổi của con người. Thúy Kiều, bằng lòng tự trọng và phẩm giá, trở thành biểu tượng của sự đấu tranh với số phận.
Mở đầu đoạn trích là hình ảnh chốn lầu xanh tấp nập, với những người khách làng chơi tỏ ra lả lơi, tầm thường. Cuộc sống ở đây chìm trong rượu chè, tiệc tùng, và sự trụy lạc.
Nguyễn Du tinh tế mô tả khung cảnh chốn lầu xanh qua hai nhân vật lịch sử, thể hiện cuộc sống dục vọng, nhơ nhớp và hỗn loạn ở đây.
Nguyễn Du viết nên hai câu thơ xuất sắc, gợi lên nỗi buồn sâu thẳm của Thúy Kiều, làm nổi bật tâm trạng u buồn và tang thương.
Dù cuộc sống xung quanh rối bời, Kiều vẫn giữ vững phẩm cách và tâm trạng thanh cao. Bức tranh về chốn lầu xanh dường như không làm xao lạc lòng nàng.
Đoạn trích thể hiện rõ số phận và tính cách của Thúy Kiều, đồng thời là lời kêu gọi nhân đạo và chỉ trích xã hội phong kiến.