Nhận xét về bài thơ bao gồm 16 bài văn mẫu siêu hay cùng 2 gợi ý cách viết chi tiết. Qua nhận xét về một bài thơ, học sinh có thể chọn cho mình một cách tiếp cận, một giọng điệu văn thích hợp, để sau đó nó trở thành kiến thức quý báu của chính mình.
Với 16 mẫu nhận xét về một bài thơ cực chất dưới đây được viết rất hay với văn phong rõ ràng, dễ hiểu có thể tự học để mở rộng, nâng cao kiến thức, sẽ giúp các em học môn Ngữ văn tốt hơn và có sự chuẩn bị tốt hơn khi học. Hơn nữa, học sinh có thể tham khảo thêm nhiều bài văn hay khác tại chuyên mục Văn 10 KNTT.
Dàn ý nhận xét về bài thơ
1. Phần mở đầu:
– Vài điều giới thiệu về tác giả: thông tin cá nhân, tên nổi tiếng, vai trò trong văn học, chủ đề sáng tác, cách viết, những ảnh hưởng của tác giả đối với văn học, giai đoạn và phong cách văn học dân tộc.
– Tổng quan về bài thơ: ngữ cảnh lịch sử, ý nghĩa toàn cục, nội dung chính của đoạn thơ/bài thơ. Giới thiệu đoạn thơ, bài thơ cần phân tích: trích dẫn bài thơ (nếu ngắn) hoặc ghi lại tất cả các câu thơ.
2. Nội dung chính:
– Tổng quan về vị trí trích đoạn hoặc cấu trúc, mạch cảm xúc chính của đoạn thơ, bài thơ.
– Giới thiệu vấn đề cần thảo luận và hướng đi của bài viết.
– Phân tích văn bản thơ: trích đoạn thơ và phân tích các yếu tố như từ ngữ, hình ảnh, phép tu từ, vv... trong từng câu thơ, để làm rõ những điểm đặc biệt, giá trị nghệ thuật của bài thơ.
Ghi chú: Khi phân tích, nên tuân theo thứ tự từ yếu tố nghệ thuật đến nội dung, và cần dựa vào từ vựng trong bài thơ, bối cảnh lịch sử, và phong cách sáng tác của tác giả để tránh suy diễn không chính xác và mơ hồ:
* Phân tích khổ thơ đầu tiên:
+ Trình bày nội dung chính của khổ thơ đầu tiên:
(Trích thơ…)
+ Sử dụng các phương pháp phân tích thơ để thẩm định hình ảnh, từ ngữ, phép tu từ, nhịp điệu, vv... trong từng câu thơ; diễn giải ý nghĩa của từ ngữ, hình ảnh đó và nhấn mạnh điểm đặc biệt, xuất sắc của chúng.
+ Kết nối, so sánh với các bài thơ cùng chủ đề.
+ Tiếp tục với khổ thơ thứ hai.
* Phân tích khổ thơ thứ hai:
+ Thực hiện bốn bước tương tự như khổ thơ thứ nhất.
+ Tiếp tục như vậy cho đến hết bài.
(Chú ý: Đôi khi có thể phân tích hai khổ thơ cùng một lúc nếu chúng mang cùng ý nghĩa)
– Đánh giá bài thơ:
+ Đánh giá về nội dung, ý tưởng của bài thơ. (Điểm nổi bật trong nội dung của bài thơ là gì? Thành công/hạn chế?)
+ Đánh giá về mặt nghệ thuật. (Thành công/hạn chế?)
+ Nhận định về phong cách của tác giả. (Qua bài thơ, em cảm nhận được nhân vật của tác giả như thế nào; có thể mô tả thêm về phong cách nghệ thuật và đóng góp của nhà thơ trong cộng đồng văn chương vào thời điểm đó).
3. Kết luận:
+ Tóm tắt lại toàn bộ giá trị về nội dung, nghệ thuật của bài thơ.
+ Kết nối với trải nghiệm cá nhân và cuộc sống (nếu có).
Ví dụ: Đối với bài thơ 'Cảnh khuya', ta có thể trình bày dàn ý như sau:
1- Khai mạc:
– Giới thiệu về nguồn gốc và bản thân bài thơ.
– Bài thơ Cảnh Khuya được Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng tác vào năm 1947 trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, tại chiến khu Việt Bắc.
– Trong cuộc chiến đấu đầy gian truân, Bác vẫn giữ vững tinh thần thoải mái, tự do, và lạc quan, dành thời gian để tận hưởng vẻ đẹp kỳ diệu của thiên nhiên. Bác coi thiên nhiên là nguồn động viên tinh thần cho mình.
2- Phần chính:
– Mô tả cảnh đêm trăng trong rừng êm đềm, mơ mộng (chúng ta cần giải thích các từ Hán Việt trong bài này):
+ Câu 1 và 2:
Tiếng suối chảy như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa
– Trong không gian yên bình của đêm tĩnh lặng, tiếng suối chảy róc rách nổi lên, nghe như tiếng hát xa, với nhịp thơ 2/1/4, ngắt ở từ trong, như một chút âm nhạc để rồi dẫn đến một sự so sánh thú vị: như tiếng hát xa.
– Sự so sánh và liên tưởng này không chỉ làm nổi bật sự tương đồng giữa tiếng suối và tiếng hát xa, mà còn thể hiện sự nhạy cảm, tinh tế của trái tim nghệ sĩ.
– Ánh trăng soi sáng mặt đất, phản chiếu cảnh vật. Những mảng sáng tối xen kẽ, hòa quyện, tạo nên khung cảnh mơ mộng: Trăng treo cao, bóng cây vây quanh, lồng vào bóng hoa một cách lung linh và lãng mạn,…
– Nghệ thuật miêu tả phong phú, tinh tế: có khoảng cách xa gần, cao thấp, yên lặng và sôi động,… tạo nên bức tranh đêm rừng đẹp tuyệt vời, lôi cuốn lòng người.
– Mô tả tâm trạng của Bác trong đêm trăng sáng:
+ Câu 3 và câu 4:
Cảnh khuya như hình như người chưa ngủ
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà
– Bác đắm chìm trong việc thưởng ngoạn vẻ đẹp mơ mộng, huyền ảo của rừng núi dưới ánh trăng sáng như tranh vẽ “Cảnh khuya như tranh vẽ”.
– Người chưa ngủ vì hai lý do, lý do thứ nhất là bởi cảnh đẹp khiến cho tâm hồn nghệ sĩ xao xuyến, mê đắm. Lý do thứ hai: chưa ngủ vì lo lắng cho nước nhà, lo lắng về cuộc chiến tranh của dân tộc ta. Dù thiên nhiên đẹp đẽ, mơ mộng nhưng không làm cho Bác quên đi trách nhiệm lớn lao của một lãnh đạo cách mạng đối với dân chúng, với đất nước.
– Cả hai câu thơ cho thấy sự gắn kết giữa con người thi sĩ đa cảm và con người chiến sĩ kiên cường trong Bác.
3- Kết luận:
– Bài thơ Cảnh khuya là một tác phẩm tuyệt vời và đẹp, kết hợp hài hòa giữa phong cách cổ điển (về hình thức) và phong cách hiện đại (về nội dung).
– Bài thơ thể hiện lòng nhạy cảm, tinh tế và trách nhiệm cao cả của Bác Hồ – vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam; là minh chứng cho vẻ đẹp tuyệt vời của nghệ sĩ – chiến sĩ Hồ Chí Minh.
Cảm nhận về bài thơ Thu điếu
Trong nền thơ ca dân tộc có nhiều bài thơ hay nói về mùa thu. Riêng Nguyễn Khuyến đã có chùm thơ ba bài: Thu vịnh, Thu ẩm và Thu điếu. Bài thơ nào cũng đều tuyệt vời, thể hiện tình yêu với quê hương mến khách. Riêng bài 'Thu điếu', nhà thơ Xuân Diệu đã khẳng định là 'điển hình hơn cả cho mùa thu của làng quê Việt Nam'. 'Thu điếu' là bài thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc: Cảnh đẹp mùa thu quê hương, tình yêu thiên nhiên, yêu mùa thu đẹp gắn liền với tình yêu quê hương tha thiết.
'Thu điếu' được viết bằng thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật, ngôn ngữ tinh tế, hình ảnh và cảm xúc. Cảnh thu, trời thu xinh đẹp của làng quê Việt Nam như hiện lên trong hình ảnh và màu sắc tuyệt vời dưới bút thần tình của Nguyễn Khuyến.
Hai dòng đầu nói về ao thu và chiếc thuyền câu. Nước ao 'trong sáng' toả hơi thu 'se lạnh'. Sương khói mùa thu bao trùm cảnh vật. Nước ao thu đã trong lại sâu hơn, không khí thu se lạnh lại trở nên 'se lạnh'. Trên mặt nước hiện lên một chiếc thuyền câu nhỏ xíu - 'bé tẻo teo'. Cảnh ao và chiếc thuyền câu là trung tâm của bài thơ, cũng là hình ảnh bình dị, thân quen, đáng yêu của quê hương. Theo Xuân Diệu, vùng đồng chiêm trũng Bình Lục, Hà Nam có rất nhiều ao, nên ao lớn, ao nhỏ thì thuyền câu cũng theo đó mà 'bé tẻo teo':
'Ao thu se lạnh, nước trong trong suốt,
Một chiếc thuyền câu bé nhỏ xíu'.
Các từ ngữ: 'se lạnh', 'trong suốt', 'bé nhỏ xíu' gợi lên hình ảnh, dáng vẻ, màu sắc của cảnh vật, nước mùa thu; âm thanh của lời thơ như tiếng thu, tâm trạng thu về.
Hai câu thơ tiếp theo trong phần thực là những nét vẽ tài hoạ làm rõ thêm bản chất của cảnh thu:
'Sóng biếc theo làn gió lướt nhẹ,
Lá vàng trước gió nhẹ nhàng lay vèo'.
Màu 'biếc' của sóng kết hợp với sắc 'vàng' của lá tạo nên bức tranh quê đẹp mắt và tinh tế. Nghệ thuật so sánh trong phần thực rất tinh vi, 'lá vàng' với 'sóng biếc', tốc độ 'vèo' của lá bay phản ánh sự 'nhẹ nhàng' của sóng biếc. Nhà thơ Tản Đà đã tán dương chữ 'vèo' trong thơ của Nguyễn Khuyến. Ông đã tuyên dương một cách sâu sắc về việc sử dụng chữ 'vèo' trong bài thơ 'Cảm thu, tiễn thu', 'Vèo trông lá rụng đầy sân'.
Hai câu mở rộng không gian miêu tả. Bức tranh thu thêm chiều cao của bầu trời 'xanh sậm' với những tầng mây 'trôi nhẹ' bay theo gió. Trong chuỗi thơ thu, Nguyễn Khuyến nhận biết sắc trời thu là 'xanh sậm':
'Trời thu xanh sậm hàng tầng trời
(Thu vịnh)
'Da trời ai nhuộm màu xanh sậm'.
(Thu ẩm)
'Tầng mây lơ lửng trên bầu trời xanh sậm'.
(Thu điếu)
'Xanh sậm' là một loại xanh có sâu sắc. Trời thu không có mây (mây xám), màu xanh sậm thăm thẳm. Màu xanh sậm đã thể hiện sự sâu thẳm, sự trầm lắng của không gian, ánh nhìn xa xăm của nhà thơ, của ông già đang câu cá. Rồi ông đưa mắt nhìn về tứ phía làng quê. Dường như mọi người dân đã ra đồng hết. Xóm làng vắng vẻ, hoang sơ. Mọi con đường uốn cong, vắng bóng người qua lại:
'Đường làng uốn cong không bóng người qua lại'.
Cảnh vật êm đềm, mang theo nỗi buồn cô đơn, hiu quạnh. Người câu cá như đang chìm trong giấc mộng mơ của mùa thu. Tất cả cảnh vật từ mặt nước 'ao thu lạnh lẽo' đến 'chiếc thuyền câu bé tẻo teo', từ 'sóng biếc' đến 'lá vàng', từ 'tầng mây lơ lửng' đến 'đường làng uốn cong' hiện ra với đường nét, màu sắc, âm thanh, có lúc mang chút buồn bã, u sầu, nhưng rất gần gũi, thân thuộc với mỗi người Việt Nam. Phong cảnh thiên nhiên của mùa thu quê hương thật đáng yêu!
Tâm điểm của bài thơ 'Thu điếu' nằm ở hai câu kết:
'Nằm dựa gối, ôm cây đào lâu mà chẳng được,
Cá đâu ăn dưới bèo đuối chân'.
'Nằm dựa gối, ôm cây đào lâu' là tư thế của người câu cá, cũng là tâm trạng thoải mái của nhà thơ đã thoát khỏi áp lực cuộc sống. Âm thanh của 'cá đâu ăn dưới bèo đuối chân', đặc biệt là từ 'đâu', gợi lên sự mơ hồ, xa xôi và chợt tỉnh. Người câu cá ở đây chính là nhà thơ, một người quan trọng nhưng bất lực trước hoàn cảnh, không thể chấp nhận làm tay sai cho thực dân Pháp đã xâm lược, từ quan. Đằng sau những từ này hiện ra một hình ảnh thanh bình của một người sống giản dị. Ôm cây đào và câu cá, tâm hồn của nhà thơ đắm chìm trong giấc mơ của mùa thu, nhưng bất ngờ tỉnh giấc khi 'Cá đâu ăn dưới bèo đuối chân'. Vì vậy, cảnh vật của ao thu, trời thu yên bình và lặng lẽ như chính tâm trạng của nhà thơ - lặng lẽ và cô đơn.
Âm thanh của tiếng cá 'ăn dưới bèo đuối chân' đã làm nổi bật không khí yên bình của ao thu. Cảnh vật luôn gắn bó với tình cảm con người. Đối với Nguyễn Khuyến, thiên nhiên là người bạn thân thiết. Ông đã trải lòng mình, dành trí tưởng tượng và tìm sự an ủi từ thiên nhiên, từ màu 'vàng' của lá thu, từ màu 'xanh sậm' của trời thu, từ sóng biển xanh trên mặt ao thu 'lạnh lẽo'...
Thật vậy, 'Thu điếu' là một bài thơ tả cảnh ngụ tình rất đặc sắc của Nguyễn Khuyến. Cảnh sắc mùa thu quê hương được mô tả bằng những sắc màu đậm nhạt, những nét vẽ tinh tế, gợi cảm. Âm thanh của tiếng lá rơi nhẹ trong gió thu, tiếng cá 'ăn dưới bèo đuối chân' - đó là âm thanh dân dã của mùa thu, gợi lên trong lòng chúng ta những kỷ niệm tươi đẹp về quê hương đất nước.
Nghệ thuật chọn vần của Nguyễn Khuyến rất độc đáo. Vần 'eo' được sử dụng một cách tự nhiên, thoải mái, tạo ấn tượng sâu sắc cho người đọc; những âm vần trong thơ như một lực hút mạnh mẽ: trong veo - bé tẻo teo - đưa vèo - vắng teo - chân bèo. Thi sĩ Xuân Diệu đã viết: 'Cái thú vị của bài 'Thu điếu' chính là trong các vần xanh, xanh ao, xanh bờ, xanh sóng, xanh tre, xanh trời, xanh bèo, với sắc vàng của chiếc lá thu rơi'...
Thơ là biểu đạt của tâm hồn. Nguyễn Khuyến thương mến thiên nhiên mùa thu, yêu cảnh quan nông thôn với tình cảm sâu sắc dành cho quê hương. Ông là nhà thơ của làng quê Việt Nam. Khi đọc 'Thu điếu', 'Thu vịnh', 'Thu ẩm', chúng ta thêm yêu mùa thu của quê hương, yêu thêm làng quê nội, yêu thêm đất nước. Với Nguyễn Khuyến, việc miêu tả mùa thu, yêu thích mùa thu tươi đẹp cũng chính là yêu quê hương đất nước. Nguyễn Khuyến, nhà thơ tài ba, đã giành được vị trí quan trọng trong thơ cổ điển của Việt Nam.
Xin chia sẻ cảm xúc về một bài thơ
Đỗ Phủ được biết đến như là một thiên tài thơ trong văn học Trung Quốc. Thơ của ông thể hiện sâu sắc nỗi đau, lòng nhân ái mênh mông, bởi sự hiểu biết và đồng cảm với những số phận không may. Với chủ đề mùa thu, với bản hợp âm buồn bã, Đỗ Phủ đã góp thêm một giọng điệu phong phú, sâu sắc vào mùa thu của tự nhiên.
Một bài thơ như một bản tình ca thu u ám và buồn bã, biểu lộ một tâm hồn cô đơn:
Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,
Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm.
Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng,
Tái thượng phong vân tiếp địa âm.
Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,
Có chu nhất hệ cố viên tâm.
Hàn y xứ xứ thôi đao xích,
Phiên dịch thơ:
Lác đác rừng phong hạt móc sa,
Ngàn non hiu hắt, khí thu lòa.
Lưng trời sóng gợn lòng sông thẳm,
Mặt đất mây đùn cửa ải xa.
Khóm cúc tuôn thêm dòng lệ cũ,
Con thuyền buộc chặt mối tình nhà.
Lạnh lùng giục kẻ tay đao thước,
Thành Bạch, chày vang bóng ác tà.
Bài thơ mở đầu bằng hình ảnh rừng phong hoang vu, lạnh lẽo, thậm chí là điêu tàn và xơ xác. Ngàn núi đều nhuốm màu đau thương, lạnh lẽo, xơ xác đến tàn tạ, những từ lóng như 'hiu hắt, lác đác' một lần nữa nhấn mạnh vẻ đẹp hoang vu, mênh mông rợn ngợp nơi này. Đỗ Phủ đã sử dụng thành công những thiếu thể cổ điển, hình ảnh ước lệ, nhắc tới mùa thu là nhớ tới rừng phong, hạt móc sương sa. Cả rừng phong và sương đều là dấu hiệu báo hiệu cho mùa thu ở Trung Quốc. Trước đó, trong Truyện Kiều, Nguyễn Du cũng đã sử dụng thiếu thể ấy như một biểu tượng cho mùa thu, cho sự xa cách, cô đơn và hoang vu:
Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san
Sương trắng cũng như biểu tượng của mùa thu, của sự lạnh lẽo. Sương móc sa dày đặc làm xơ xác cả rừng phong. Nét tiêu điều của cảnh vật hiện lên rất rõ qua cái nhìn đầy tâm trạng của nhà thơ, u tối, lạnh lẽo. Bức tranh mùa thu tiếp tục được mô tả với những chi tiết đặc sắc:
Lưng trời sóng gợn lòng sông thẳm
Mặt đất mây đùn cửa ải xa
Không gian mênh mông, hoang vu lại được tô đậm bởi hình ảnh sóng gợn trên bầu trời. Cảnh sông và bầu trời kết hợp tạo ra cảm giác ngột ngạt, khó thở. Mây đùn cửa ải xa là một cách diễn đạt tinh tế của nhà thơ khi những đám mây xâm lấn và bao phủ cảnh vật, tăng thêm sự cô đơn. Nếu ở hai câu trước, cảnh sắc nhuốm màu bi thương thì ở đây, cảnh sắc có phần vừa hoành tráng vừa dữ dội. Hai câu thơ này như bổ sung cho nhau, lột tả được hai nét đặc sắc của phong cảnh vùng Vu sơn, Vu giáp âm u hùng vĩ. Đến những câu thơ tiếp theo, nỗi lòng của nhà thơ càng được bộc lộ rõ nét:
Khóm cúc tuôn thêm dòng lệ cũ
Con thuyền buộc chặt mối tình quê
Hình ảnh khóm cúc tuôn dòng lệ hoặc là đôi mắt buồn bã của nhà thơ rơi lệ. Những giọt lệ của nỗi nhớ quê hương giống như những cánh hoa cúc nhỏ thầm lặng. Hình ảnh con thuyền cũng là một biểu tượng quen thuộc trong thi ca cổ. Con thuyền chính là phương tiện cho khao khát quay trở về quê hương, và là điều mong muốn của người dân. Tuy nhiên, con thuyền cũng chỉ là “cô chu”, lẻ loi, một mình trôi dạt, không biết nơi sẽ đưa đến. Câu thơ giống như dòng lệ xót của Đỗ Phủ, tuôn chảy trên từng từ, từng chữ. Và đến câu thơ cuối, có sự xuất hiện của hình ảnh con người, của âm thanh xôn xao. Tuy nhiên, đó có phải là âm thanh vui tươi của cuộc sống, hay chỉ là một cách để Đỗ Phủ bày tỏ sự buồn bã, thê lương của cảnh vật?
Lạnh lùng giục kẻ cầm gươm kiếm
Thành bạch lẻ loi tiếng gõ chày.
Khí lạnh của thu như một lời nhắc nhở rằng mùa đông đang đến gần, cần phải chuẩn bị sẵn sàng hơn cho việc mặc áo ấm. Loạn An Lộc Sơn đã qua nhưng đất nước vẫn còn nỗi lo âu, những người lính vẫn đang canh gác ải xa. Buổi tối buông xuống, màn đêm mịt mùng, không gì có thể nhìn rõ, chỉ còn nghe tiếng gõ chày vang vọng, khiến lòng ai cũng rùng mình nghĩ tới quân lính gác trên ải. Âm thanh của mùa thu, tiếng gõ chày may áo, không chỉ kết thúc bài thơ mà còn mở ra những kỷ niệm buồn thương.
Với tâm hồn mênh mông buồn bã, cô đơn, những dòng thơ của Đỗ Phủ đã tạo ra ấn tượng sâu sắc, khắc sâu vào tâm trí của người đọc về cảnh mùa thu u buồn, lạnh lẽo và cô đơn. Sự kết hợp tài tình của các từ ngữ, những hình ảnh dụ thơ và những yếu tố cổ điển, Đỗ Phủ đã một lần nữa khám phá ra một không gian nghệ thuật đầy mùa thu cho độc giả, làm phong phú thêm bản sắc của văn học thu.
Cảm nhận về bài thơ 'Duyên'
Khi nhắc đến Xuân Diệu, người ta sẽ nhớ ngay đến một thi sĩ sắc sảo, tình cảm và sâu lắng. Trong các tác phẩm của ông, ta luôn cảm nhận được tình yêu cuộc sống và sự trân trọng mọi khoảnh khắc của cuộc đời, của thiên nhiên và 'Duyên' là một trong những tác phẩm như vậy. Trong bài thơ này, sự tinh tế của thi sĩ được thể hiện rõ qua việc tái hiện sự trôi chảy của thời gian và hồn thu, tình thu cũng được mô tả sắc nét qua ngòi bút tài hoa của ông.
'Thơ duyên' là một khúc hát đắm say, tinh tế về cuộc sống. Từ 'duyên' có thể hiểu là sự hòa mình, hòa quyện với tự nhiên, với con người. Là một người dễ bị cảm động trước vẻ đẹp, lại cảm nhận sâu sắc nỗi buồn, tác giả đặc biệt trân trọng sự biến đổi của thời gian, đặc biệt là sự chuyển từ mùa hạ sang mùa thu. Không chỉ trong bài thơ này, các nhà thơ đã viết về mùa thu, như trong tập 'Thơ thơ', bạn đọc cũng có thể gặp gỡ 'nàng thơ' với tâm trạng 'ngẩn ngơ', u sầu trong 'Đây mùa thu tới'. Và 'Thơ duyên' bắt đầu với những hình ảnh trong trẻo, nhẹ nhàng.
'Chiều mơ mộng hòa vào những câu thơ trên cành duyên,
Cây me vang lên tiếng hót của đôi chim chuyền.
Bầu trời xanh ngọc phủ trên hàng ngàn lá xanh,
Mùa thu đến - mỗi nơi rộn tiếng huyền bí.'
Nhìn chung, cảnh vật mùa thu trong khổ thơ này được mô tả sinh động và thơ mộng. Với không gian là buổi 'chiều mơ mộng' - lãng mạn, êm đềm, cộng với 'thơ trên nhánh duyên', tạo nên khung cảnh trữ tình. Vạn vật dường như cùng hòa mình vào niềm vui khi mùa thu về, với sự hiện diện của 'cặp chim chuyền' ríu rít trên 'cây me'. Động từ 'ríu rít' thể hiện sự phấn khích, vui sướng khi chúng liên tục 'chuyện trò' với nhau. Hình ảnh cây me cũng gợi nhớ về Hà Nội xưa, một phần của quê hương. Đồng thời, 'bầu trời' và 'lá' đều chuyển sang màu ngọc. Màu sắc này đã từng được nhà thơ Hàn Mạc Tử nhắc đến trong 'Vườn ai mướt quá xanh như ngọc' (Đây thôn Vĩ Dạ). Màu sắc này tạo ra cảm giác trong lành cùng với động từ 'đổ' tạo ra cảm giác lan tỏa, dứt khoát. Bây giờ không gian không chỉ là màu xanh mà còn tràn ngập niềm vui, hân hoan với 'tiếng huyền bí'. Cụm từ 'mùa thu đến' như một lời kêu gọi hạnh phúc, phấn khích cho ước mơ đã từ lâu trở thành hiện thực.
Trong khổ thơ thứ hai, tác giả đã tinh tế thêm vào chút cảm xúc riêng tư.
'Con đường nhỏ nhẹnh trong gió hiu quạnh,
Chiếc lá lả lướt, ánh nắng chiều bỗng trở dịu.
Trong buổi chiều ấy, lòng tôi cảm nhận được suy nghĩ của bạn,
Lần đầu tiên, nỗi lòng bừng lên với tình yêu.'
Từ góc nhìn cao, tác giả 'rút ngắn' khoảng cách giữa không gian của mình. Nhà thơ liên tục sử dụng từ ngữ như 'bé bỏng', 'lả lơi', 'đáng yêu' để tạo nên bức tranh sinh động dưới ánh nắng chiều. Động từ 'trở' đầy năng lượng, tạo ra cảm giác sự thay đổi. Nếu từ 'chiều' ở dòng thơ trước mang vẻ bí ẩn, thì ở đây, từ này trở nên mạnh mẽ, 'nồng nàn' hơn. Trong không khí thu thổi, nhà thơ nhớ lại những cảm xúc ban đầu của mình. Sự xuất hiện thêm một động từ khác cũng kích thích sự tò mò của độc giả, đó là 'nghe'. 'Nghe' ở đây không chỉ là lắng nghe âm thanh mà còn là lắng nghe tâm trạng, sự nhớ nhung, tình yêu thương. Đó là cách sử dụng từ ngữ độc đáo của tác giả.
'Em bước đi nhẹ nhàng không gặp trở ngại
Anh đi dạo bước mạnh mẽ không hề gần gũi.'
Hình ảnh của sự 'rung động' được mô tả rõ ràng hơn. Nhân vật 'em' và 'anh' cùng đi dạo trên con đường hẹp. 'Em' hiền lành, vô tư bước đi không màng đến gì. Trong khi đó, 'anh' tỏ ra mạnh mẽ, tự tin - một tâm trạng thoải mái, không bị ràng buộc. Hai con người xa lạ gặp nhau trên con đường nhỏ, tưởng chừng như xa lạ lại gần gũi. Thật là điều kỳ diệu!
'Lạnh lùng - nhưng giữa bài thơ dịu dàng,
Anh và em như những cặp từ đồng âm.'
'Lạnh lùng' có thể là sự tận nhạt, xa cách hoặc có thể là sự lạ lùng nhưng có một sự kết nối, hiểu biết. Bằng cách so sánh, nhà thơ Xuân Diệu đã trình bày quan điểm của mình về từ 'duyên'. Đối với ông, sự hoà quyện giữa thiên nhiên và con người, cảm giác say mê trước vẻ đẹp vẫn chưa đủ, còn một 'cặp từ đồng âm khác' là sự giao duyên giữa con người. Mặc dù em bước đi hồn nhiên không để ý đến người phía sau, còn anh thì bước đi tự tin không quan tâm đến người phía trước, nhưng giữa họ vẫn có sự kết nối như những từ đồng âm - gắn bó chặt chẽ, không thể tách rời. Một quan điểm về cuộc sống thực sự mới lạ!
'Mây biếc bay về đâu hối hả,
Con cò trên ruộng bồng bột không biết đường nào.
Chim nghe trời mênh mông mở ra cánh mới,
Hoa chiều thưa sương rơi dần dần.'
Khổ thơ thứ tư đem lại cho độc giả khung cảnh mùa thu trên một bầu trời rộng lớn. Hoạt động của thiên nhiên cũng trở nên sôi động hơn, nhanh chóng hơn. Từ ngữ 'gấp gấp' tạo ra cảm giác hối hả, khẩn trương. Tuy nhiên, câu hỏi về đích đến của mây vẫn còn đọng lại trong tâm trí, tạo nên sự bất an. Cũng giống như mây, con cò trên ruộng dường như đang phân vân không biết nên bay cao hay bay thấp, bay gần hay bay xa. Chiều thu dần tàn, bầu trời mở rộng ra và có vẻ như cả chim cũng đã sẵn lòng 'mở ra cánh mới'. Nhà thơ gán cho chim khả năng 'nghe' như để cho chúng hiểu được bầu trời, cảm nhận được thiên nhiên và từ đó điều chỉnh hành vi của mình để thích nghi. Cách sử dụng hình ảnh hữu hạn nhưng diễn tả điều vô hạn của tác giả là một biện pháp tưởng tượng và sâu sắc. Người đọc dễ dàng hình dung một chú chim không biết mệt mỏi, vẫn miệt mài bay lượn trên bầu trời xanh biếc. Và càng lúc càng sâu vào chiều thu, sương mù càng rơi nhiều hơn. 'Hoa chiều' có thể là do 'ướt đẫm sương mù' hoặc do cơn gió nhẹ nào đó. Sự lạnh lẽo của chiều thu khiến cho độc giả cũng cảm thấy một chút hoang mang, bồng bột.
Trong khổ thơ cuối cùng, nhân vật lãng mạn lại nhớ về tình yêu đầu đời của mình, kết hợp với hình ảnh của thiên nhiên. Hình ảnh nhân hóa của 'bước thu êm' như một sự chuyển động nhẹ nhàng, dịu dàng của mùa thu. Từ 'êm' mang lại cảm giác thoải mái, êm đềm. Trên nền thu dịu dàng, 'anh' thổ lộ về sự rung động của mình khi gặp gỡ 'em' - 'lòng anh đã đem lòng em'. Động từ 'đem lòng' như một lời khẳng định rằng anh đã bị 'em' thu hút và trái tim anh chỉ hướng về phía 'em'. Động từ này cũng thể hiện sự kết nối sâu sắc, xem 'em' như một phần không thể thiếu trong cuộc sống của anh.
Bài thơ 'Thơ duyên' không chỉ xuất sắc về nội dung mà ở mặt hình thức, bài thơ cũng đã thể hiện rõ sự hoàn chỉnh. Ngoài việc sử dụng các từ láy, phép nhân hóa và các từ ngữ đặc sắc, một điểm đáng chú ý trong bài thơ là cách chia câu. Thông thường, trong một bài thơ bảy chữ, nếu có bốn câu thì chỉ có dấu chấm cuối cùng ở dòng cuối cùng của mỗi khổ, nhưng với 'Thơ duyên', điều này không đúng. Ở dòng một và dòng ba, có dấu chấm phẩy khi kết thúc, còn ở dòng hai và dòng bốn, có dấu chấm. Điều này tạo ra một câu hoàn chỉnh. Đây là một điểm nổi bật và sáng tạo của Xuân Diệu.
Với bút lực mãnh liệt và tình yêu sôi nổi, nhà thơ Xuân Diệu đã biến thời gian và không gian thành một bức tranh thiên nhiên đa dạng với nhiều hình ảnh, nhiều biến động đặc trưng của mùa thu. Cùng với đó, ông cũng đã tái hiện lại sự rung động đầu đời của mình - sự giao cảm, sự kết nối giữa những con người ban đầu xa lạ nhưng sau này lại được sắp đặt gặp gỡ. Tình duyên nảy nở giữa bầu trời thu!
Cảm nhận sức sống của Mùa Xuân
Không ai biết được mùa xuân ra đời từ bao giờ và thơ xuân bắt đầu từ khi nào, chỉ biết rằng mùa xuân tồn tại từ khi con người ra đời, đầy màu sắc và sức sống, làm sống lại tâm hồn thi sĩ và cả cuộc sống. Thiếu đi mùa xuân, thiếu đi những lời thơ xuân, cuộc sống sẽ trở nên buồn tẻ. Hôm qua, hôm nay và ngày mai sẽ luôn có những bản thơ xuân dành cho con người, dành cho cuộc sống. Và hôm qua đã có Hàn Mặc Tử với bài thơ 'Mùa Xuân Chín', khi cảm xúc tràn đầy trong tâm hồn nhà thơ đã đạt tới đỉnh cao.
Nếu nói về mùa xuân, chẳng ai không hiểu rằng đó là khoảnh khắc rực rỡ nhất của cuộc sống. Mỗi khoảnh khắc mùa xuân mang một vẻ đẹp khác nhau, lúc là 'mùa xuân nhỏ nhắn', lúc lại là 'mùa xuân tươi mới'... và trong bài thơ 'Mùa Xuân Chín' này, mùa xuân vừa mới nảy nở, đầy sức sống, tràn đầy sự hồi sinh, giống như một khát vọng mới, một tình yêu mới trong tâm hồn của Hàn Mặc Tử.
Mỗi dòng thơ đều rộng lượng với hơi thở của mùa xuân, thấm đượm cái đẹp của tâm hồn thi sĩ. Mùa xuân bắt đầu từ ánh nắng mới lạ:
“Dưới ánh nắng ấm dần mơ màng
Ngôi nhà tranh lấm tấm vẻ vàng
Gió lay lá xanh rì rào áo biếc
Bên cạnh giàn hoa, bóng mát xuân tươi.”
Ánh nắng xuân ấm êm, nhẹ nhàng như hơi thở, lan tỏa khắp không gian, tạo nên cảnh sắc dịu dàng và huyền diệu.
Bóng xuân vẫn đọng lại trong tâm hồn, một cảm xúc bâng khuâng, ngọt ngào khi chứng kiến sự xuất hiện của nó.
Mùa xuân đang dần khẽ đến, như một làn sóng cỏ xanh mơn mởn len lỏi đến tận bầu trời.
Cỏ xanh tươi như biểu tượng của sức sống mãnh liệt và tình yêu thương bao la của mùa xuân.
Tiếng hát của những cô thôn nữ rộn ràng trên đồi, như là điệu nhảy của mùa xuân vui tươi, đem lại sự chín muồi và ấm áp cho lòng người.
Tiếng hát rộn ràng vang lên giữa núi, ngân nga như làn mây mềm mại, tiếng thầm thì dịu dàng dưới bóng trúc, khiến người nghe cảm nhận được sự tự nhiên và dễ thương của mùa xuân.
Âm nhạc của mùa xuân như là một bức tranh tinh tế, từng nốt nhạc như là những cảm xúc sống động trong lòng thi sĩ, hoà mình vào không gian ấy.
Tiếng hát vang lên với sự hồn nhiên của đồng quê, đem đến cho mỗi người một tâm trạng khác nhau, từ ngọt ngào đến bâng khuâng, từ lạc quan đến hồn nhiên.
Tiếng hát dân dã của mùa xuân, là biểu tượng của sự chín muồi và đầy tình yêu thương, nhưng cũng đẩy người ta đến suy nghĩ sâu xa về cuộc sống và tương lai.
Ngày mai, giữa bông xuân tươi đẹp ấy, có những người sẽ bước vào hạnh phúc gia đình, từ bỏ những lễ hội và niềm vui tuổi trẻ.
Đám xuân xanh kia, những cô thôn nữ đang ngân nga, đang trao tâm sự dưới bóng trúc, sẽ chín cùng mùa xuân và sẽ bước vào hạnh phúc gia đình... Mùa xuân dần qua đi, tuổi thanh xuân cũng dần trôi đi, khiến lòng người như nỗi nhớ vương vấn.
Hàn Mặc Tử như là người lữ khách đến khi mùa xuân chín, nhận ra cái vẻ đẹp của mùa xuân. Bút pháp truyền thống xen kẽ với cái mới mẻ, làm cho tác phẩm thêm phong phú và sâu sắc.
Gặp lúc mùa xuân chín ấy, lòng như thổn thức...
Kí ức hiện lên, nhẹ nhàng và buồn đẹp, nhưng mênh mang và xa vắng. Mỗi kí ức đều chứa đựng nỗi nhớ về một thời, một công việc, trong một không gian rộng lớn và trống trải.
Hình ảnh của quê hương hiện lên trong lòng, nhớ về những người thân yêu và những công việc hàng ngày, nhưng cũng đầy nỗi buồn và nỗi sợ mất đi trong dòng chảy của thời gian.
“Mùa xuân chín” là một tác phẩm thơ tuyệt vời, là một bức tranh xuân mới, tươi sáng, lôi cuốn, mang đậm bản sắc mơ mộng và lắng đọng. Hàn Mặc Tử đã biến cảm xúc thiên nhiên thành những dòng thơ trữ tình, sử dụng màu sắc cổ điển kết hợp với dân dã và trẻ trung, tạo nên bức tranh xuân đẹp như mơ. Mùa xuân là tuyệt vời. Con người trong trẻo, đáng yêu, tươi mới. Yêu mùa xuân chính là yêu quê hương, yêu ánh nắng ấm, yêu mái nhà tranh, yêu giàn thiên lí, yêu tiếng hát dân dã của những cô gái xuân trên đồng cỏ xanh mơn mởn.
“Mùa xuân chín” đôi khi rộn ràng, đôi khi êm đềm trong lòng thi sĩ. Có những khoảnh khắc hồn bước nhẹ nhàng, có những lúc khơi gợi, như đang chìm đắm trong bước đi của mùa xuân, rồi bất chợt nhớ về những kỷ niệm và nỗi buồn. Cảm giác nhớ nhung của người lữ khách mãi là tình yêu sâu đậm, niềm mong mỏi kết nối với hương vị và âm nhạc của mùa xuân, với quê hương thân thương bên bờ sông trắng nắng chang chang...
Trao duyên là một phần trong tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du, một tác phẩm vĩ đại không chỉ của văn học Việt Nam mà còn của thế giới. Đoạn này mô tả tâm trạng của Thuý Kiều khi cô đành phải trao duyên cho em gái mình, Thuý Vân.
Trong Truyện Kiều, câu chuyện về việc trao duyên của Thuý Kiều cho Thuý Vân được đưa ra một cách rất chân thực và đầy cảm xúc. Đây là một trong những đoạn đặc sắc, lấy đi nước mắt của người đọc.
Theo cốt truyện, ước mong hạnh phúc vĩnh cửu của Kiều và Kim Trọng bị phá vỡ khi gia đình Kiều gặp khó khăn. Vì tình thương cho cha và em gái, Kiều quyết định bán mình để giúp đỡ. Tuy nhiên, cô không thể không nhớ về Kim và tình yêu của họ. Buồn bã và đầy nuối tiếc, Kiều quyết định giúp đỡ em gái kết duyên với Kim. Đoạn này được trích từ câu 723 đến câu 756 của Truyện Kiều.
Thuý Kiều nói với em:
'Em ơi, hãy lắng nghe lời chị và ngồi xuống đây, chị sẽ nói với em sau.'
Cả hành động và lời nói của Kiều đều thể hiện sự mong chờ, hy vọng vào sự giúp đỡ từ em. Hành động 'lạy' của Kiều đặt Thúy Vân vào tình cảnh khó khăn mà không thể từ chối, cũng là dấu hiệu cho thấy tầm quan trọng của điều mà Kiều sắp nói với Vân:
'Giữa những khó khăn của tình yêu, hãy cố gắng duy trì mối quan hệ, nhưng em nhé, đừng bao giờ quên điều đó.'
Thành ngữ 'đứt gánh tương tư' được sử dụng để diễn đạt tình yêu dang dở của Kiều và Kim. Mối quan hệ của họ vừa mới bắt đầu, chưa kịp đến giai đoạn hoàn thiện thì gặp phải khó khăn. Thấu hiểu nỗi đau của em gái, Kiều quyết định giao phó cho em nhiệm vụ quan trọng là duy trì mối quan hệ với Kim Trọng, dù đó chỉ là một mối quan hệ không đầy đủ. Bằng cách kết thúc câu bằng từ 'em', tác giả muốn nhấn mạnh rằng Kiều hy vọng em sẽ thay thế mình trong việc duy trì nghĩa vụ với Kim.
Dù lời đã nói ra, nhưng không dễ để xua đi những nỗi niềm sâu thẳm trong lòng. Dằn lòng mình, Kiều chia sẻ với em những kỷ niệm đẹp của mối tình với Kim:
'Kể từ khi gặp chàng Kim, từ ngày quen thuộc đến đêm chúng ta thề hẹn.'
Từ 'khi' được sử dụng để mạnh mẽ khẳng định tình yêu vững chắc giữa Kiều và Kim Trọng. Họ đã gặp nhau, hẹn hò, cùng nhau ước mơ, và thề thốt trong cơn say. Nhưng giữa những kỷ niệm ngọt ngào, Kiều phải đối mặt với sự thực đau đớn, đắng cay:
'Dù có sóng gió bất kể, lòng hiếu thảo và tình yêu vẫn cùng tồn tại.'
Sóng gió bất ngờ đã đẩy Kiều và gia đình vào hoàn cảnh khó khăn. Trong cuộc đấu tranh giữa lòng hiếu thảo với gia đình và tình yêu với Kim Trọng, nàng đã lựa chọn lòng hiếu và hy sinh bản thân để cứu cha và em. Nhưng trong việc làm con hiếu thảo, nàng đã phải từ bỏ tình yêu, trở thành kẻ phụ tình. Nàng không muốn Kim phải chịu đựng nỗi đau như nàng đang trải qua, vì thế nàng đã nhờ Vân giúp đỡ. Để thuyết phục em, Kiều thì thầm nói:
“Mùa xuân đang vẫy gọi,
Ngỡ tình như máu chảy trong đồng ruộng.
Thân xác mòn mục, xương còn,
Nụ cười ấm nồng tựa hương cỏ non.”
Bốn dòng thơ kêu gọi với tất cả niềm tin, khát vọng, như lời cầu xin sâu sắc từ trái tim Kiều. Sự khôn ngoan của Kiều ẩn chứa trong việc biến niềm vui của mình thành mùi hương thơm ngát, lan tỏa ở những dòng suối trong lành, nhằm khiến Thúy Vân không thể từ chối. Đối với Vân, những ngày xuân còn dài, tuổi trẻ còn đẹp, còn thời gian để Kiều có thể đoái hoài bên cạnh. Những lý do mà Kiều đưa ra không chỉ phù hợp mà còn khiến Vân không thể nào từ chối sự đề nghị của người chị đầy đau thương.
Khi trao gửi “chút hi vọng” - chiếc vòng cùng tờ giấy mang hình bức mây, Thúy Kiều gợi nhớ đến những lời thề nguyền đã từng thề, nỗi tiếc nuối và đau xót không thể dứt. Kiều gồng mình với nỗi đau tột cùng:
“Ngày mai dù có bao lâu,
Đốt hương thơ kia, so sánh với cung phím này,
Nhìn ra bãi cỏ xanh mướt,
Nghe tiếng gió reo thì ước gì chị quay về.”
Giao kỷ vật cho em nhưng lòng Kiều thống trị bởi nỗi đau, mâu thuẫn trong tâm trí dâng cao, tay muốn trao nhưng lòng không thể. Đó là cuộc đấu tranh giữa bản thân và cái tôi, giữa trí óc và tình cảm trong lòng Kiều. Có lẽ với cô ấy, tình yêu vẫn còn đọng lại nhưng chỉ có thể chấp nhận nỗi đau vô tận, sống mà không có hạnh phúc cũng chẳng khác gì không sống, vì thế mà ý nghĩ về cái chết luôn hiện hữu trong tâm trí cô.
Sáu dòng cuối đoạn trích là lời nói đầy cảm xúc của Kiều. Nàng như quên mất rằng đang trò chuyện với Vân mà chìm đắm trong tâm trạng riêng của mình, những lời day dứt thốt lên trong nỗi buồn của tình yêu không được đáp lại:
“Trăm nghìn gửi lời cầu nguyện tới tình quân,
Duyên phận ngắn ngủi chỉ còn đó thôi.
Phận số, vận mệnh như vôi?
Nước chảy hoa nở đã lỡ làng”.
Kiều gửi trăm nghìn lời cầu nguyện đến tình quân của mình là biểu hiện của tấm lòng tận tụy, chân thành, là lời chào tạm biệt trong nỗi đau chia ly. Duyên số tưởng sẽ kéo dài, bền vững nhưng “ngắn ngủi” chỉ còn đó thôi giữa cuộc đời. Kiều than phiền vận mệnh của mình như vô tri, như bột vôi tan ra, như hoa trôi nổi giữa dòng, phải chấp nhận tình yêu đã qua, xa cách. Thành ngữ “như vôi” trở nên cay đắng trong nỗi đau rỉ máu của Kiều, khiến người nghe xót xa, thương tâm.
“Ôi Kim Lang! Hỡi Kim Lang!
Thôi thôi thiếp đã lỡ hẹn chàng từ nay!”
Cuối cùng, Kiều vẫn quan tâm đến người khác. Dù đang phải chịu đựng nỗi đau không biên giới nhưng vẫn tự trách mình là kẻ phụ bạc, lo lắng cho người yêu. Những lời gọi Kim Lang càng làm nổi bật trái tim nhân ái, tình cảm và trách nhiệm của Thuý Kiều.
Đoạn trích 'Trao duyên' mặc dù không dài nhưng vô cùng đặc sắc. Từ đó thấy được sự đẹp của một tấm lòng trung thành, kiên định, hiểu biết nỗi đau khổ của người con gái trong tình yêu và cảm nhận được phẩm chất nhân văn cao cả trong từng câu thơ mà Nguyễn Du sáng tạo ra.
Cảm nghĩ về bài thơ Việt Bắc
Tố Hữu là biểu tượng xuất sắc của thơ cách mạng Việt Nam và cũng là nhà thơ có phong cách riêng trong sáng tạo. Giọng thơ trữ tình đậm đà, các tác phẩm của ông luôn liên quan đến các giai đoạn quan trọng trong lịch sử dân tộc. Thơ của Tố Hữu vừa mang tính dân tộc mạnh mẽ nhưng vẫn không mất đi tính hiện đại.
Bài thơ Việt Bắc là tác phẩm vĩ đại nhất của Tố Hữu và cũng là thành tựu xuất sắc nhất của thơ cách mạng chống Pháp. Bài thơ được viết dựa trên sự kiện lịch sử: tháng 10 năm 1954, những người chiến đấu rời bỏ căn cứ miền núi để quay về miền phía nam. Từ điểm bắt đầu đó, bài thơ trở về quá khứ để nhớ lại một thời kỳ cách mạng và kháng chiến gian khổ của các anh hùng, để thể hiện tình cảm sâu sắc với Việt Bắc, với Đảng và Bác Hồ, với đất nước và nhân dân - tất cả đều là nguồn sức mạnh tinh thần to lớn để dân tộc tiến bộ trên con đường cách mạng. Nội dung này được biểu hiện qua hình thức dân tộc mạnh mẽ. Bài thơ là một ví dụ điển hình cho phong cách của Tố Hữu.
Tình huống sáng tạo tạo ra một tâm trạng đặc biệt, đầy xúc động và buồn bã: Cầm tay nhau không biết nói gì vào ngày hôm nay. Đó là cuộc chia tay của những người đã dành suốt mười lăm năm, có bao nhiêu kỷ niệm về tình yêu, từng chia sẻ mọi gian nan và niềm vui, giờ đây họ cùng nhau hồi tưởng về những kỷ niệm đẹp, khẳng định tình yêu trung thành và hướng tới tương lai tươi sáng. Tố Hữu đã diễn đạt chân thành tình yêu cách mạng như một biểu hiện của tình yêu đôi lứa.
Cảm xúc trong tình yêu lứa đôi được thể hiện qua lối đối đáp quen thuộc của ca dao, dân ca, một bên hỏi, một bên đáp, người truyền đạt tâm sự, người đồng tình, đồng cảm. Hỏi và đáp khơi dậy bao kỷ niệm về thời cách mạng và cuộc kháng chiến anh hùng, làm hiện lên những kỷ niệm và nỗi nhớ. Thực tế, bên ngoài là lời đối đáp, nhưng bên trong là lời độc thoại, là sự thể hiện tâm trạng, tình cảm của chính nhà thơ, của những người tham gia kháng chiến.
Trong hồi ức của nhân vật trữ tình, cảnh và con người Việt Bắc được mô tả đẹp đẽ. Nỗi nhớ của người cán bộ sắp rời Việt Bắc đã khắc sâu vào tâm trí với vẻ đẹp tự nhiên của núi rừng Việt Bắc, vừa hiện thực vừa mơ mộng, lấp lánh, phản ánh rõ những đặc điểm riêng biệt, độc đáo, khác biệt so với những vùng quê khác của đất nước. Chỉ những người đã trải qua cuộc sống ở Việt Bắc mới cảm nhận được nỗi nhớ sâu đậm, những cảm xúc sâu sắc, thấm đẫm về ánh nắng chiều, ánh trăng buổi tối, những ngôi làng mờ mịt trong sương sớm, những lửa bếp rực rỡ trong đêm tối, những ngọn núi, con suối mang theo những cái tên quen thuộc - tất cả đều là khoảnh khắc và không gian kỷ niệm:
Nhớ một người yêu như nhớ
...
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê tràn đầy.
Nhưng có lẽ điều đẹp nhất trong kỷ niệm về Việt Bắc là sự giao hòa hoàn hảo giữa cảnh đẹp và con người, là ấn tượng không thể phai nhạt về những người dân Việt Bắc chăm chỉ lao động, trung thành trong tình thân:
Quay về, lòng nhớ thương không dứt
...
Nhớ ai tiếng hát ân tình trung thành
Tự nhiên ở Việt Bắc hiện ra với sự đa dạng, phong phú, và sống động, thay đổi theo mùa và thời tiết.
Các cảnh vật này kết hợp với hình ảnh của những người dân bình thường, người làm ruộng, người đan nón, người hái măng. Bằng cách thực hiện những công việc nhỏ bé này, họ đã đóng góp vào sức mạnh to lớn của cuộc kháng chiến. Tình đoàn kết của nhân dân với cán bộ, quân đội, sự đồng cảm và chia sẻ, cùng nhau trải qua mọi khó khăn và niềm vui, cùng chịu trách nhiệm với mọi nhiệm vụ nặng nề và khó khăn, tất cả đã làm cho Việt Bắc trở nên sáng sủa hơn trong tâm trí của nhà thơ. Việt Bắc - nơi có những mái nhà 'hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son', nơi có người mẹ trong cái 'nắng cháy lưng - Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô', là những ngày tháng đồng lòng đồng dạng:
Yêu nhau, chia củ sắn lùi
Phân phối cơm nửa, sưởi ấm chăn ga cùng,…
Có thể nói, tâm hồn trữ tình lan tỏa khắp bài thơ tạo nên bản hòa âm ngọt ngào, sâu lắng về tình đoàn kết, tình đồng bào, về tình yêu thiên nhiên, yêu đất nước, yêu cuộc sống.
Qua kí ức của nhân vật trữ tình, bài thơ dẫn dắt người đọc vào khung cảnh của cuộc chiến ở Việt Bắc, nơi mà núi rừng rộng lớn, hoạt động hối hả, hình ảnh hùng vĩ, âm thanh sôi động, hào hùng. Cuộc cách mạng và kháng chiến đã làm tan biến bóng tối và u ám của núi rừng, đồng thời làm sống lại sức sống mạnh mẽ của tự nhiên và con người ở Việt Bắc. Bài thơ đong đầy bản sắc anh hùng, mang dáng vẻ của một sử thi hiện đại, vì chỉ cần tả khung cảnh hùng vĩ ở Việt Bắc, Tố Hữu đã thể hiện sức mạnh phi thường của cả một dân tộc đứng lên chiến đấu cho sự độc lập, tự do của Tổ quốc:
Nhớ những con đường ở Việt Bắc của chúng ta
...
Đèn pha chiếu sáng như ban mai về.
Dân tộc ấy đã vượt qua bao gian khó, khó khăn, hy sinh để tạo ra những kỳ tích, những thành công liên quan đến những địa danh như Phủ Thông, đèo Giàng, sông Lô, phố Ràng, Hoà Bình, Tây Bắc, Điện Biên. Nhưng Tố Hữu không chỉ mô tả sự hùng vĩ của cuộc kháng chiến mà còn giải thích sâu hơn về nguồn gốc của sức mạnh dẫn đến chiến thắng. Đó là sức mạnh của lòng thù hận: 'Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai', sức mạnh của tình đoàn kết: 'Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi', sức mạnh của sự đoàn kết toàn dân, của sự kết hợp gắn bó giữa con người và thiên nhiên - tất cả tạo nên hình ảnh của một đất nước đoàn kết:
Chúng ta nhớ khi giặc đến
...
Đất trời chúng ta đoàn kết một lòng.
Đặc biệt, với những từ ngữ trang trọng và sâu sắc, Tố Hữu đã nhấn mạnh và xác nhận rằng Việt Bắc là quê hương của Cách mạng, là căn cứ vững chắc, là trung tâm của cuộc kháng chiến, nơi tập hợp mọi tình cảm, tư tưởng, niềm tin và hy vọng của người Việt Nam yêu nước. Trong những năm tháng tăm tối trước Cách mạng, hình ảnh của Việt Bắc dần trở nên rõ ràng từ xa (mưa, suối lũ, mây và sương mù) đến một khu vực chiến trường mạnh mẽ, nơi sản sinh ra những địa danh sẽ mãi mãi ghi dấu trong lịch sử dân tộc:
Khi quay về, nhớ núi rừng
...
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa
Trong những ngày kháng chiến vất vả, Việt Bắc là nơi có Bác Hồ sáng tỏ, có Trung ương, Chính phủ họp bàn việc công. Để củng cố lòng tin yêu của cả dân tộc vào Việt Bắc, Tố Hữu lại sử dụng những câu thơ rất giản dị, nhưng đầy ý nghĩa:
Ở đâu đau khổ giống nòi
...
Quê hương cách mạng xây dựng nên cộng hòa.
Nghệ thuật biểu hiện của bài thơ rõ ràng thể hiện tính dân tộc. Đặc biệt là Tố Hữu đã khai thác nhiều điểm mạnh của thể thơ lục bát truyền thống. Cấu trúc của bài thơ là cấu trúc của ca dao với hai nhân vật trữ tình là ta và mình, người ra đi và người ở lại đối đáp với nhau. Trong cuộc trò chuyện chia tay lịch sử này, người ở lại nói trước, nhớ về một thời xa xưa, thời đấu tranh gian khổ trước Cách mạng, sau đó người ra đi tiếp tục nhớ lại kỷ niệm thời gian chiến đấu.
Nhà thơ đã chú ý sử dụng kiểu tiểu đối của ca dao, không chỉ nhấn mạnh ý nghĩa mà còn tạo ra nhịp điệu, cân đối, hài hòa, làm cho lời thơ dễ nhớ, dễ thuộc, thấm sâu vào lòng người:
Khi quay về rừng núi nhớ ai
Trám rụng để lá, măng già để hoa;
…
Đồng minh triển khai chiến dịch thu đông
Công bố vận động giao thông mở đường
Về ngôn từ thơ, Tố Hữu chú trọng vào việc sử dụng lời nói của nhân dân, giản dị mộc mạc nhưng vô cùng sinh động để tái hiện một thời kỳ cách mạng và cuộc kháng chiến đầy gian khổ nhưng cũng đong đầy tình nghĩa. Đó là loại ngôn từ phong phú về hình ảnh cụ thể:
Nghìn đêm mơ màng sương dày;
Nắng trưa rực rỡ dưới trời xanh;…
và cũng là loại ngôn từ đầy nhạc điệu:
Chày đánh cối vang vọng xa;
Đêm đêm tiếng ồn ào như lòng đất rung;…
Đặc biệt, thơ Tố Hữu tinh tế sử dụng phép trùng lặp của ngôn từ dân gian:
Mình về, lòng nhớ vẫn đầy
Mình về, nhớ kỷ niệm kháng chiến
Nhớ những buổi học cách mạng
Nhớ những ngày làm công tác
Nhớ tiếng mõ rừng chiều phủ phục
Tất cả tạo nên một thanh âm trữ tình sâu lắng, êm dịu, ngọt ngào như làn gió ru, đưa ta vào thế giới của kí ức và tình cảm chân thành.
Bài thơ là bản tình ca của lòng hiếu khách, là sự ghi nhớ đầy cảm xúc và tình thương của Tố Hữu về hành trình mười lăm năm vẻ vang của quê hương (từ cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn năm 1940 đến hòa bình lập lại năm 1954), từ đó hướng về tương lai tỏa sáng, gợi nhớ tinh thần trung thành. Viết về tình thương dân tộc và quay về với đồng bào, Tố Hữu đã thể hiện được hình thức nghệ thuật phản ánh tinh thần dân tộc, trong đó nổi bật là việc sử dụng thể thơ lục bát và ngôn ngữ thơ đậm chất dân gian. Có thể coi Việt Bắc là khúc tình ca và cũng là khúc ca hùng biện về cách mạng, về cuộc chiến và con người chiến đấu mà nguồn gốc sâu xa của nó là tình yêu quê hương, niềm tự hào về sức mạnh của dân tộc, là truyền thống lòng hiếu khách, tình nghĩa trung thành của người Việt.
Cảm nhận về bài thơ Sóng
Trong dòng văn học Việt Nam, Xuân Quỳnh là biểu tượng thơ tiêu biểu của thế hệ trẻ thời kỳ kháng chiến với những đóng góp quan trọng qua những tác phẩm phản ánh giọng điệu trữ tình của tuổi trẻ. Tiếng thơ của Xuân Quỳnh luôn mang vẻ đẹp nữ tính qua con tim và lời thơ chân thành với những niềm vui giản dị của cuộc sống, cùng với những lo lắng, những dự cảm. Điều này được thể hiện rõ qua bài thơ “Sóng” - một trong những bài thơ tình nổi tiếng góp phần khẳng định vị trí “nữ hoàng thơ tình Việt Nam” của nhà thơ.
Trong tác phẩm, sóng và người phụ nữ là hai biểu tượng chính đi kèm, thể hiện những cung bậc cảm xúc của nhân vật về tình yêu và hạnh phúc đời thường. Bài thơ đề cập đến tình yêu của người phụ nữ, vừa hiện đại, vừa sâu sắc về truyền thống. Thông qua hình tượng sóng, nhà thơ đã thành công tái hiện những sự mâu thuẫn trong tình yêu:
“Dữ dội và dịu dàng
Ồn ào và yên bình”
Tác giả thông qua việc miêu tả trạng thái của sóng biển vỗ vào bờ, tái hiện sự thay đổi tâm trạng của người phụ nữ trong tình yêu: lúc ồn ào dữ dội, lúc yên bình dịu dàng. Đó là biểu hiện của một trái tim yêu mãnh liệt, chân thành. Tình yêu đó không bị gò bó mà luôn tuân theo tiếng gọi của trái tim để đạt được hạnh phúc:
“Sông không thể hiểu mình
Sóng tìm ra biển sâu”
Giống như sóng tự do trên biển, vùng vẫy giữa đại dương, người phụ nữ trong tình yêu cũng sẵn lòng vượt qua mọi thách thức để tìm kiếm tình yêu chân thành. Điều này thể hiện sức mạnh của khát vọng hạnh phúc trong trái tim người phụ nữ. Đây là yếu tố tạo nên vẻ đẹp độc đáo trong những bài thơ về tình yêu. Trong thơ ca truyền thống, người phụ nữ thường được miêu tả như một người nhẫn nhịn, cam chịu: “Thân em như hạt mưa sa - Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày” nhưng trong thơ của Xuân Quỳnh, người phụ nữ mạnh mẽ, không bị hạn chế để tìm kiếm tình yêu.
Trong những bài thơ của 'Sóng', vẻ đẹp hiện đại được thể hiện qua tâm trạng phong phú và lòng trắc ẩn, lo âu của người phụ nữ trong tình yêu:
“Cuộc đời dài vô tận
Năm tháng vẫn trôi qua
Biển rộng vẫn mênh mông
Mây vẫn trôi về xa
Đồng thời, những dòng thơ mềm mại như sóng biển nhấn mạnh mong ước của người phụ nữ:
Không thể tan biến đi
Thành hàng trăm sóng nhỏ
Giữa dòng biển tình yêu
Để vẫn mãi vỗ về
Xuân Quỳnh đã dùng từ 'ngàn' và 'trăm' để diễn đạt mong muốn vĩnh cửu hóa tình yêu thông qua hình ảnh của sóng biển xa xôi. Mong ước đó phản ánh trái tim say đắm, chân thành của người phụ nữ. Bên cạnh vẻ đẹp hiện đại, những bài thơ của Xuân Quỳnh cũng gợi lên cảm giác sâu sắc về vẻ đẹp truyền thống của tình yêu thông qua sự nhớ mong da diết:
“Dưới lòng biển sóng rì rào
Sóng trắng mặt nước đầu cao
Ôi, sóng ơi, nhớ bờ xa
Ngày đêm không yên giấc mơ
Trái tim nhớ mãi hình bóng anh
Thậm chí cả trong giấc mộng em vẫn thức”
Nếu sóng biển là biểu tượng của biển cả thì nỗi nhớ chính là điều đặc biệt gắn liền với tình yêu. Trong truyền thống ca dao Việt Nam, có rất nhiều câu thơ về nỗi nhớ:
“Nhớ ai mơ màng, say sưa
Nhớ ai, ai nhớ, giờ đây ai”
Hoặc:
“Nhớ ai lên cơn cuồng nhiệt
Như ngồi trên lửa như đứng trên than”
Thấu hiểu qua những câu ca dao tràn đầy tình cảm, độc giả có thể cảm nhận được rằng tình yêu luôn kèm theo nỗi nhớ. Trên những dòng thơ của Xuân Quỳnh, nỗi nhớ được biểu hiện một cách rõ ràng: “Trái tim nhớ đến anh - Thậm chí cả trong giấc mơ em cũng thức”. Nỗi nhớ đã thấm sâu vào tiềm thức của người phụ nữ và trở thành biểu hiện cao nhất của tình yêu đậm đà, nồng nàn và chân thành.
Và giống như phụ nữ truyền thống, tình yêu trong lòng Xuân Quỳnh luôn gắn liền với sự trung thành và kiên định:
“Cho dù đi về phía bắc
Hay rẽ sang phương nam
Em luôn ngẫm suy
Về anh một lối đi”
Thông qua cách diễn đạt sáng tạo “đi về phía bắc / rẽ sang phương nam”, tác giả đã làm rõ sự trung thành kiên định trong tình yêu có thể vượt qua mọi giới hạn không gian. Hai từ “một lối” phát ra như một lời thề thiêng liêng về tình yêu chân thành, toàn vẹn. Qua đó, độc giả có thể cảm nhận được khát khao cháy bỏng của nữ sĩ về hạnh phúc, tình yêu.
Như vậy, thông qua việc sử dụng song hành giữa hai hình ảnh “sóng” và “em” vừa hòa quyện vừa riêng biệt, tác giả Xuân Quỳnh đã mô tả về một tình yêu vừa hiện đại, vừa đậm truyền thống qua cái nhìn độc đáo của phụ nữ say đắm trong tình yêu. Bằng thể thơ năm chữ cùng với việc chia nhịp mạnh mẽ, nữ sĩ đã tạo nên một tác phẩm bất hủ về tình yêu, nỗi nhớ và hạnh phúc giản dị của cuộc sống.
Cảm xúc về bài thơ Mùa xuân nhỏ nhắn
Mùa xuân nhỏ nhắn của Thanh Hải là một tác phẩm thơ trong sáng, đầy tinh tế. Đó là bản tinh hoa của một con người luôn khao khát trao dồi, khát khao sống có ý nghĩa. Đó là lời trái tim của nhà thơ và cũng của những ai đam mê cuộc sống trần gian tươi đẹp này.
Mùa xuân nhỏ nhắn ra đời khi nhà thơ đang ốm đau nằm trên giường bệnh. Chắc chắn, trong những ngày cuối cùng đó, sau những trải nghiệm về cuộc sống với tất cả tình yêu thương, Thanh Hải muốn tiếp tục phát ra tiếng hót của 'chim chiền chiện' để góp phần tạo nên một 'mùa xuân nhỏ nhắn' cho cuộc sống, cho con người và cho đất nước thân yêu.
Với thể thơ 5 chữ, với cách ngắt nhịp nhanh, gọn nhẹ nhàng mà vẫn đầy dư âm, bài thơ đã khiến tôi cảm thấy hân hoan, sôi động. Những gam màu tươi sáng, những hình ảnh đẹp, tràn đầy sức sống trong mỗi câu thơ đều len lỏi vào tâm trí trẻ thơ của tôi.
Mùa xuân của thiên nhiên, của đất nước được nhà thơ cảm nhận trong sự đầy đặn của sự sống, trong nhịp sống đang bận rộn và trong sự tươi mới mơn mởn của những hi vọng cho tương lai. Giữa màu xanh bình yên của dòng sông xuân, sắc tím ngả của những bông hoa không hề bị lạc lõng, lộn xộn. Chúng bám chặt vào bờ sông như những sợi dây vô hình tạo nên sức sống. Trên bức tranh màu dịu dàng của 'sông xanh' và 'hoa tím ngả', tiếng hót trong trẻo của con chim chiền chiện vang lên, truyền đi vô tận về bầu trời xanh biếc. Từng tiếng hót, từng nhịp thở của mùa xuân hoà quyện vào không gian, vang vọng vào lòng người như những 'giọt tâm hồn' tỏa sáng. Tiếng hót kia khiến chúng ta không thể lơ đãng mà phải gọi tên khao khát muốn nắm bắt, muốn 'đưa tay hứng'.
Không rời xa hơi xuân của thiên nhiên, đất nước đang trong quá trình phát triển cũng nhộn nhịp, sôi động. Sức sống của đất nước không chỉ là một khái niệm trừu tượng mà nó được thể hiện qua 'sức xuân' của mỗi con người. Mùa xuân trên vai lính, mùa lộc xuân trong tay nông dân. Mỗi bước chân của người mang lại một chồi non, một mầm xanh. Và như vậy, sức xuân của đất nước lại trào lên như những đợt sóng đang xôn xao. Đất nước phấn chấn, hứng khởi trong một nhịp thở mới, nhanh chóng. Niềm tin mới của dân tộc nảy mầm từ truyền thống hàng ngàn năm xây dựng quê hương. Cho nên, dù có những khó khăn và gian khổ nhưng cả nước 'vẫn tiến lên phía trước' với một quyết tâm không mệt mỏi.
Các dòng thơ của Thanh Hải đầy hình ảnh, màu sắc và âm thanh. Chúng tạo ra một không khí hân hoan, sôi động, phơi phới hạnh phúc. Chúng là một bức tranh tươi sáng, màu mỡ, là một bản nhạc vui nhộn, tiết tấu trong trẻo, ngân nga và gợi cảm. Điều đặc biệt là: bức tranh của thiên nhiên, bức tranh của đất nước đầy sức sống đã được nhà thơ cảm nhận khi ông đang gần kề giây phút rời bỏ cõi đời này. Trên giường bệnh, nhà thơ vẫn mở rộng tâm hồn, lắng nghe và chấp nhận tất cả những âm thanh xao động của cuộc sống bên ngoài. Ông vẫn nghe thấy từng bước chân của cuộc đời rất nhẹ nhàng. Bốn bức tường của căn phòng bệnh không thể ngăn cách cuộc sống với nhà thơ, những cơn đau của bệnh tật không làm giảm đi ý chí, sự nhiệt huyết và niềm đam mê yêu đời trong trái tim của người nghệ sĩ. Sức mạnh ý chí phi thường đó xứng đáng để chúng ta phải trân trọng và che chở.
Bài thơ kết thúc trọn vẹn trong lòng và sự say mê của người đọc với một ước nguyện chân thành và mãnh liệt không ngừng. Đó là một khát khao bùng cháy: muốn trở thành một bông hoa như bông hoa tím kia, muốn trở thành một con chim hót lên trời với những giọt lệ lung linh như con chim chiền chiện. Sự khao khát đó không chỉ là dấu hiệu của một con người đang gặp gỡ sự chết chóc. Đó là sự mãnh liệt và phấn khích của một trái tim đầy sức sống và ham muốn hiến dâng cho cuộc sống.
Nhiều người đã đồng ý với tôi rằng: những người trẻ đọc Mùa xuân nho nhỏ có thể tìm ra lý tưởng sống cho bản thân, còn những người đã dành cả tuổi thanh xuân cho đất nước vẫn cảm thấy có thể làm được nhiều hơn. Mùa xuân nho nhỏ không chỉ là niềm đam mê của riêng tôi. Nó xứng đáng trở thành một bài thơ quý giá trong tủ sách của hàng triệu người.
Cảm nhận về bài thơ Truyện Kiều
Giống như mọi người dân Việt Nam, tôi yêu tiếng nói của dân tộc mình, một tiếng nói tràn đầy cảm xúc. Vì thế, tôi yêu những câu lục bát uyển chuyển và đằm thắm chứa đựng tình cảm. Tôi đặc biệt say mê Truyện Kiều của Nguyễn Du vì trong đó, tôi thấy Nguyễn Du, một nhà văn có tài và tình, một người có tình yêu sâu sắc với dân tộc và lòng nhân ái đầy ấm áp đối với những số phận không may mắn. Và trong xã hội xưa, người phụ nữ là những người bị đau khổ nhất.
Tôi muốn bày tỏ sự kính trọng của mình đối với đại thi hào dân tộc Nguyễn Du. Mặc dù cả dân tộc đã kính trọng ông, nhưng tôi muốn thể hiện tình cảm của mình đối với nhà văn tài ba và đa tài này.
Điều đầu tiên khiến tôi yêu quý và kính trọng Nguyễn Du chính là tình cảm của ông dành cho con người. Ông là một người có tấm lòng nhân từ. Chính vì điều này, ông đã sáng tác ra những tác phẩm văn học chứa đựng những giá trị nhân văn sâu sắc. Người thi sĩ đa tài, quan trọng của triều Lê không ít lần 'Khéo dư nước mắt khóc người đời xưa'. Ông tự nhận ra rằng, người thi sĩ thường cảm thấy đau khổ bởi họ luôn chia sẻ nỗi đau, nỗi khổ của người khác (Phong vận kỳ oan ngã tự cư). Tình cảm nhân ái khiến ông luôn nhạy cảm với nỗi đau của người khác, và vì thế, những bài thơ của ông thường đầy nước mắt: nước mắt của Kiều, nước mắt của người ca nữ Long Thành và của Tiểu Thanh. Họ đều là những người tài năng, tài sắc song bị số phận bất công. Nhà thơ chia sẻ và cảm thương nỗi đau của họ không chỉ là sự đồng cảm của con người với con người. Nỗi đau của Nguyễn Du còn là sự tiếc nuối, xót xa trước cái chết của những tài năng. 'Cái tốt đẹp thì khó bền', 'hoa thường héo cỏ thường tươi', đó là luật lệ của cuộc sống. Sự vô tâm của con người trước nỗi đau, trước giá trị của cái đẹp cũng là điều bình thường. Biết điều này, Nguyễn Du vẫn luôn lo lắng:
Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?
“Tấm lòng thơ vẫn tình đời thiết tha” (Tố Hữu) là điều khiến ông luôn được mọi người trân trọng.
Một trong những lý do khiến tôi bị cuốn hút bởi Nguyễn Du là tài năng của ông. Ông yêu thích Tiếng Việt, và đã thành công trong việc làm cho ngôn ngữ này trở nên phong phú hơn. Truyện Kiều đã mang lại cho chúng ta niềm vui không chỉ qua cách diễn đạt lục bát dễ hiểu, dễ nhớ mà còn qua tình yêu của Nguyễn Du dành cho ngôn ngữ và văn học dân tộc. Ông sử dụng từ ngữ và cách diễn đạt gần gũi với tiếng nói của nhân dân, một cách giản dị nhưng vẫn mang lại vẻ đẹp nghệ thuật tinh tế. Đó như những bức tranh bốn mùa của ông:
Cỏ non xanh rợn chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
Tiếng Việt trở nên tinh tế hơn, phong phú hơn về âm thanh, hình ảnh và sắc điệu nhờ vào sự sáng tạo của ông. Truyện Kiều thể hiện một cách phong phú nhất khả năng biểu hiện của Tiếng Việt và khả năng biểu cảm của thể thơ lục bát.
Có vô số lý do để ta kính trọng đại thi hào dân tộc Nguyễn Du, nhưng lý do lớn nhất, chính đáng nhất chính là nhân cách cao quý của ông, là kết quả của sự hài hoà giữa tài năng và lòng nhân ái của Nguyễn Du.
...............
Tải tài liệu để đọc thêm các bài văn mẫu hấp dẫn nhất