Nhận xét về nhân vật Tiểu Thanh trong Đọc Tiểu Thanh kí của Nguyễn Du bao gồm dàn ý chi tiết kèm theo 4 bài văn mẫu hay, giúp bạn đọc có nhiều ý tưởng mới khi viết văn.
Nhận xét về nhân vật Tiểu Thanh giúp chúng ta thấy rõ đây là một người con gái tài năng và xinh đẹp, nhưng phải chịu đựng nhiều khổ đau do sự ghen tuông và đã qua đời khi còn trẻ. Tập thơ của Tiểu Thanh bị vợ cả đốt hết, chỉ còn lại một số bài được gọi là “Phần dư”. Nguyễn Du đã đọc những bài thơ này, viếng mộ nàng và rơi nước mắt thương tiếc số phận của nàng. Dưới đây là 4 bài văn cảm nhận về Tiểu Thanh hay nhất, kính mời các bạn lớp 10 cùng theo dõi tại đây.
Dàn ý nhận xét về Tiểu Thanh
I. Khởi đầu:
Tiểu Thanh là biệt hiệu của một cô gái tên Phùng sống vào thời Minh, tại Trung Quốc. Nàng bị ghen tỵ bởi vợ cả và phải rời khỏi Cô Sơn gần Tây Hồ. Với nỗi cô đơn và buồn phiền, nàng qua đời khi chỉ mới 18 tuổi, chỉ để lại một tập thơ mang tên “Tiểu Thanh kí”. Khi đọc phần còn lại của tập thơ này, Nguyễn Du đã bày tỏ sự xúc động và sáng tác bài thơ: Độc tập Tiểu Thanh kí.
- Ghi lại nội dung bài thơ và chuyển đến phần tiếp theo.
II. Phần chính:
1. Tả cảnh đẹp của Tây Hồ biến thành gò hoang
Nguyễn Du mô tả cảnh đẹp của Tây Hồ, nơi Tiểu Thanh phải rời đi vì bị vợ cả ghen. Hiện nay, đó đã trở thành một gò hoang, tượng trưng cho số phận bi đắng của người con gái tài sắc nhưng không may. Thương tiếc nàng, Nguyễn Du chỉ có thể đọc những bài thơ còn sót lại của nàng, và đau lòng thương cảm:
Cảm xúc rơi lệ bên đống giấy tan tác.
2. Tiểu Thanh và Nguyễn Du đều là những linh hồn cô đơn. Hai tâm hồn cô đơn nhưng lại hỗ trợ lẫn nhau, và người hiện tại cảm nhận rõ nỗi đau buồn của người xưa.
Khuôn mặt trang điểm còn hận thù, giấy và bút không có số phận, vẫn còn bước vương vấn.
- Dù đã mất, nhưng sắc đẹp vẫn gợi lên nỗi hận thù. Văn chương không có số phận nhưng lại tiếp tục tồn tại và vương vấn phiền muộn.
- Sắc đẹp và văn chương là những điều gắn kết với Tiểu Thanh suốt cuộc đời. Mặc cho sắc son phấn không thể sống lại, Nguyễn Du đã tạo ra những tình huống để tỏ ra thương cảm và hận thù. Văn chương cũng vậy, không có số mệnh nhưng lại tiếp tục tồn tại và đem lại nỗi buồn cho Tiểu Thanh.
Bức tranh tình thương lớn lao vô hạn,
Ánh sáng nghệ thuật tỏa rạng hồn người.
- Từ những lời thơ sống động, Nguyễn Du dẫn dắt đến những suy tư triết lí. Nỗi hận sâu kín như kim cổ vô hạn. Nhà thơ truyền đạt tình cảm hận thù và thương tiếc cho số phận của Tiểu Thanh. Mong muốn khám phá bí ẩn vì sao có nỗi hận này, nhưng câu hỏi không có câu trả lời lại khiến hận thêm sâu sắc.
- Phong lưu thường được hưởng thú vui phong lưu, vì sao phải gánh vác nỗi oan trái với tự nhiên?
Không tìm được câu trả lời, nhà thơ chỉ biết rằng: Ta cùng đồng hành, cùng chia sẻ những gánh nặng, những lời oan khuất kẻ mắc phải vì tinh thần phong lưu như chính chúng ta.
Một thời bao giờ quay lại
Người đời vẫn nhớ Tố Như thương lặng lẽ.
- Khi Tiểu Thanh ra đi vào thế kỉ XVI, sau ba trăm năm vào thế kỉ XIX, một người tên là Tố Như (hay Nguyễn Du) đã viết thơ thương mến cho nàng. Nhưng sau ba trăm năm khi Tố Như ra đi, không biết trong thiên hạ ai sẽ ngợi ca cho ông.
- Một câu hỏi đầy xúc động, thể hiện nỗi đau đớn sâu sắc. Cuộc đời hiếm hoi có những mối tri âm, tri kỉ. Nguyễn Du đang thương tiếc Tiểu Thanh, đồng thời cũng tự thương tiếc bản thân. Vì họ cùng chung một số mệnh đầy bi thương.
III. Kết luận
Tấm lòng nhân đạo cao cả của Nguyễn Du được thể hiện sâu sắc trong các tác phẩm của ông, đặc biệt là trong bài thơ này. Ông thương những người đang sống (Sở kiến hành), thương những người chịu đau khổ (Truyện Kiều), thương những người khổ cực (Văn chiêu hồn), và cả những người đã ra đi (Đọc Tiểu Thanh kí). Đúng như câu thơ của Tố Hữu:
Tấm lòng thơ luôn trìu mến với cuộc đời.
Phân tích nhân vật Tiểu Thanh - Mẫu 1
Nguyễn Du đến gặp Tiểu Thanh như một sự định mệnh, giống như Thuý Kiều gặp Đạm Tiên trong Truyện Kiều. Dù là ngày Tết Thanh Minh, sắc xuân không tươi vui nhưng nổi buồn vẫn chìm đọng trên những nấm cỏ:
Nấm đất rêu rao bên đường,
Cỏ xanh vàng nhạt nửa nửa.
Sắc vàng của cỏ úa trong mùa xuân hoà quyện với cảm xúc buồn bã, phù hợp với cuộc gặp gỡ đầy duyên nợ giữa hai nhân vật lịch sử. Mặc dù Nguyễn Du và Tiểu Thanh chia cách bởi thời gian, nhưng tình cảm không bao giờ bị phai nhạt. Đọc Tiểu Thanh kí của Nguyễn Du, ta cảm nhận được lòng trìu mến và xót thương vô hạn cho Tiểu Thanh.
Cuộc gặp gỡ của Nguyễn Du và Tiểu Thanh như là một sự hẹn ước trong định mệnh. Đó là cuộc hội ngộ của hai tài năng và tình thơ văn sâu lắng:
Tây Hồ vẻ đẹp biến thành gò hoang
Thổn thức bên sông với tờ giấy tan tác
Cảnh sắc được miêu tả vô cùng hoang tàn. Nguyễn Du nhắc đến địa danh Tây Hồ trong câu thơ đầu tiên, nơi có núi Cô Sơn và hồ Tây, từng là nhà của Tiểu Thanh - một cô gái sắc tài nhưng bất hạnh. Sự thay đổi của thời gian được thể hiện qua việc vườn hoa biến thành gò hoang và từ sự có đến sự mất. Câu thơ gợi lên sự thay đổi mạnh mẽ và nỗi đau xót khi cái đẹp bị tiêu tan. Toàn bộ câu chuyện buồn về Tiểu Thanh quay về trong câu thơ, là một biểu hiện của tình cảm nhân sinh.
Câu thơ mới đưa ra đề tài gặp gỡ của Nguyễn Du:
Chỉ có một quyển sách được viếng thăm đặt trước cửa sổ
(Chỉ viếng thăm nàng qua một cuốn sách đọc trước cửa sổ)
Chỉ có một cuốn sách được chuyển giao và đặt trước cửa sổ
(Chỉ viếng thăm nàng qua một cuốn sách đặt trước cửa sổ)
Khi Tiểu Thanh còn sống, nàng đã sáng tác tập thơ 'Tiểu Thanh kí' để ghi lại những cảm xúc buồn bã, cô đơn của mình. Khi nàng qua đời, vợ cả đã đốt sách thơ đó, may mắn vẫn còn lại vài bài. Cuộc viếng thăm tinh thần Tiểu Thanh không chỉ là ở Côn Sơn mà còn hiện hữu trong những bài thơ còn sót lại. Nguyễn Du đã vượt qua thời gian và không gian để thể hiện tình thương và tiếc thương của mình, nhưng câu thơ vẫn là một lời nhắc nhở về số phận buồn của Tiểu Thanh.
Tiểu Thanh vừa xinh đẹp vừa bất hạnh, có tài năng nhưng lại gặp phải số mệnh khó lường. Điều đó đã gây ảnh hưởng sâu sắc trong tâm hồn Nguyễn Du suốt cuộc đời của ông:
Sắc đẹp không mệnh, vẫn còn hận thương,
Văn chương không số mệnh, đốt vẫn còn vương.
Hai câu thơ này tóm lược nỗi oán trái của Tiểu Thanh. Sắc đẹp và tài năng của nàng đã trở thành nguồn gốc của nỗi oán hận. Tuy tập sách của nàng đã bị đốt nhưng cái số phận buồn bã của Tiểu Thanh vẫn còn vương lại, làm đau đớn và gợi lên nỗi oan trách cho những kẻ giống như nàng. Hai câu thơ này là biểu hiện của sự xót xa và tôn vinh về cái đẹp và cái tài.
Bốn câu thơ cuối cùng nói về sự thay đổi trong quan điểm. Từ việc thương một người con gái, Nguyễn Du đã biến thành việc thương một kiếp người, một số mệnh. Từ việc thương người, ông ngậm ngùi nhận thức được nỗi đau của mình.
Nguyễn Du tổng kết nỗi oan, nỗi hận của Tiểu Thanh thành biểu tượng cho nỗi oan trách, bất công của nhiều người cùng chia sẻ số phận:
Nỗi oan thắc bền trời hỏi,
Cái án khốn khổ tự gánh mang.
Câu thơ tập trung nhiều nỗi oan trên đời thành một câu hỏi lớn đặt ra mà không có lời giải đáp. Tại sao những người phong lưu lại gánh chịu nỗi khổ đau? Tại sao những người tài hoa lại gặp phải số phận đau đớn? Câu thơ thể hiện nỗi lòng nhân thế, những biến cố thường gặp trong cuộc sống: những người phong lưu thường phải gánh chịu oan khuất, đau đớn. Câu hỏi này nhấn mạnh sự tuyệt vọng, không có lời giải đáp. Nỗi hận, nỗi oan càng trở nên sâu sắc và đau đớn hơn.
Độc Tiểu Thanh kí cũng là biểu hiện của nỗi day dứt suốt đời của Nguyễn Du. Đó là sự day dứt về những khó khăn của thời đại, những biến cố xã hội. Niềm day dứt đó phải chịu sự khốn khổ của thời kỳ mà Nguyễn Du sống.
Phân tích nhân vật Tiểu Thanh - Mẫu 2

Phùng Sinh là người Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc, sống vào cuối thời kỳ Minh, giàu có và thích ăn chơi. Một lần đến Dương Châu (Giang Tô), Phùng Sinh mua được Tiểu Thanh, tên chữ Nguyên Nguyên, cùng họ Phùng về làm thiếp. Nàng xinh đẹp, thông minh từ nhỏ, giỏi thơ ca, từ khúc, đàn hát và múa. Khi được bán cho Phùng Sinh, nàng mới mười sáu tuổi. Nhìn thấy hình dáng của gia đình Phùng, Tiểu Thanh đã cảm nhận được cuộc sống bất hạnh của mình sau này. Nàng than thở:
Đời này đây, hết rồi!
Vợ cả Phùng Sinh là người ngổ ngáo, nổi tiếng ghen tuông và không công bằng với Tiểu Thanh. Cuối cùng, bà buộc nàng phải sống riêng dưới chân núi Cô Sơn bên Tây Hồ, gần đê Tô, con đê do Tô Đông Pha, một quan nhà Tống nổi tiếng xây dựng. Bà không cho Phùng Sinh thăm nàng. Cảnh này đau lòng, làm cho người ta cảm thấy đau lòng hơn. Nàng phải sống cô đơn với mấy đứa cháu nhỏ và một bà già. Nỗi hờn oán, buồn phiền chỉ biết thể hiện qua nước mắt và thơ ca. Dần dần, nỗi buồn này đã trở thành bệnh.
Một lần, trong cơn bệnh nặng, nàng đã yêu cầu tìm thợ vẽ chân dung nàng, nói rằng:
- Chỉ có hình thôi, chưa có hồn.
Bức thứ hai, nàng nói: 'Đã có hồn rồi, nhưng còn thiếu sự sống động...'. Chỉ đến khi vẽ bức thứ ba mới thực sự hài lòng.
Sau khi hoàn thành bức vẽ, Tiểu Thanh đặt nó trên bàn, sắp xếp hoa quả và thắp hương để cúng tự mình. Sau đó, nàng gọi người hầu viết thư tuyệt mệnh. Cuối thư là bốn câu thơ:
Ruột tằm dứt, lệ ròng ròng
Lầu son gác tía mong chờ ngày tương phùng
Chiều tà ửng mặt đào say đắm
Ấy là hồn thiếu nữ ngất ngây yêu kiều
Sau khi viết xong, nàng đặt bút xuống, nắm chặt thư, nước mắt rơi lệ như mưa, rồi thở một tiếng cuối cùng và khuất thân.
Sau khi Tiểu Thanh qua đời, vợ cả Phùng Sinh vẫn không ngừng ghen tỵ. Tất cả tập thơ và hình ảnh của nàng đã bị đốt cháy. May mắn vẫn còn lại một bức chân dung, là bức thứ hai, và vài bài thơ nháp được gói vào quà tặng cho cô con gái của Tiểu Thanh, người ở già không bị phá hủy.
Hãy cho tôi giới thiệu một vài bài thơ:
Đón xuân, máu lệ rơi rơi
Áo giải xanh bay vờn cổ áo
Ba trăm gốc mai đang già
Chúng đã chuyển hoá thành hoa đỗ quyên
Những bài thơ này nói lên ý tưởng rằng, màu vàng buồn của hoa mai đã biến thành màu đỏ máu đầy bi thương của hoa đỗ quyên.
Bước chân lả lướt trên quả đài Phật
Chỉ mong không trở thành một kiếp người phong lưu
Mà chỉ là giọt nước dương thôi
Giọt nước để tưới sen, tạo nên một màu xanh bền vững đời đời
Những bài thơ này được sáng tác trong lúc dâng hương tại chùa Thiên Trúc ở Tây Hồ, nhưng không bằng phong cách tự do, mở lối như Nguyễn Công Trứ khi ông nói 'Kiếp sau, xin đừng làm người! Hãy trở thành cây thông đứng giữa trời và hát vang'. Nỗi đau buồn đã được biến hóa thành tâm nguyện từ bi, sự hiến dâng tốt đẹp.
Ngày mưa lạnh, lòng buồn không nghe tiếng mưa rơi
Ngồi bên đèn đọc những câu chuyện về những người xưa
Trên đời này vẫn còn nhiều người ngây thơ và khờ dại
Chẳng phải mình ta cũng có số phận bạc mệnh không đủ
Bài thơ được viết trong đêm gió mưa buốt lạnh, đang đọc Mẫu Đơn Đình, một ví dụ nổi tiếng về tình yêu không được đáp lại của Thang Hiến Tổ thời Nguyên, về nàng Lệ Nương mang mối tình si vụng trộm.
Nhiều người đã viết về Tiểu Thanh, như Chử Hạc Sinh, đang đứng trước mộ của nàng:
Lặng lẽ đến thăm mộ, ai đứng nắm cành cây xanh mát
Bâng khuâng rơi lệ, ôi những nỗi oan trái trong tình yêu
Mẫu Đơn Đình ơi, giờ đây ai còn đọc những câu chuyện lạnh lùng
Trong đêm tĩnh lặng, mưa nhẹ và gió nhẹ nhàng thổi qua rèm cửa
Vào đêm, Hạc Sinh một mình bước qua rừng mai, vẫn không thôi nghĩ về số phận bi thảm của Tiểu Thanh, hình như cô gái kiều diễm đang bước đi trước mình, và ông viết thêm hai bài tứ tuyệt. Xin ghi lại một bài với những dòng sau:
Đêm trăng sáng rọi vườn mai
Có lẽ thấy được bóng dáng diễm kiều xa xa
Trận gió chiều đã gieo oánh sao
Cành lan gầy lá trúc vỡ tan đau thương
Cảm nhận về Tiểu Thanh - Mẫu 3

Tiểu Thanh là một người phụ nữ tài năng và xinh đẹp, nhưng số phận của cô lại bị giam giữ trong một cuộc hôn nhân đầy đau khổ và chết khi còn rất trẻ. Tập thơ của Tiểu Thanh bị vợ cả đốt hết, chỉ còn lại một số bài được gọi là “Phần dư”. Nguyễn Du đã đọc những bài thơ này, thắp hương và khóc thương cho số phận bi thảm của cô.
Bài thơ Độc Tiểu Thanh kí thể hiện sự đau xót và thương cảm trước số phận bi thương của một phụ nữ tài hoa bị vùi lấp và chết trong oan ức. Nguyễn Du cũng cảm nhận được nỗi đau thương của chính mình trong bài thơ này:
“Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư
Chi phấn hữu thần liên tử hậu
Văn chương vô mệnh lụy phần dư
Cổ kim hận sự thiên nan vấn
Phong vận kỳ oan ngã tự cư
Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiền hạ hà nhân khấp Tố Như?”
Nhan sắc ngày xưa chỉ còn lại như một bóng hình trên mộ. Tài hoa xưa chỉ còn lại một phần nhỏ. Tuy nhiên, những dòng thơ ấy, những nỗi đau ấy đã khiến Nguyễn Du cảm động.
Tác giả miêu tả về địa danh Tây Hồ (ở Trung Quốc), nơi từng là thế giới rực rỡ nhưng giờ đã phủ bóng tối của quá khứ. Tây Hồ là nơi gợi nhớ những cảm xúc u hoài, buồn bã. Điều này khiến cho tình trạng u hoài này trở nên rõ ràng. Trong cảnh đẹp hoang tàn của Tây Hồ, nhà thơ đã rơi nước mắt cho Tiểu Thanh, viếng nàng qua một cuốn sách cũ mà nàng để lại:
Tây Hồ cảnh đẹp hoá gò hoang
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn.
Trong hai câu thơ này, Nguyễn Du đã tôn vinh tài năng và vẻ đẹp của Tiểu Thanh:
Chi phấn hữu thần liên tử hậu
Văn chương vô mệnh lụy phần dư
Nguyễn Du rất trân trọng Tiểu Thanh. Ông bị cảm động trước những số phận tài năng bị chìm nghỉm. Vẻ đẹp diệu kì, hình ảnh vừa phấn hồng vừa có tính thần thánh trở nên vĩnh cửu liên tục qua thời gian. Văn chương mặc dù không có số phận nhưng vẫn còn tồn tại và gợi lên cảm xúc của muôn đời. Tác giả suy ngẫm về sự mất đi của vẻ đẹp, của tài năng, khiến cho mọi người phải tiếc nuối. Người phụ nữ tài sắc sẽ mãi sống trong lòng thế giới, cũng như văn chương sẽ mang lại vẻ đẹp vĩnh cửu.
Trong hai câu trên, tác giả nâng cao cảm xúc lên một tầm cao mới, có ý nghĩa sâu xa, vượt ra ngoài không gian và thời gian:
“Cổ kim hận sự thiên nan vấn
Phong vận kì oan ngã tự cư”
Nỗi oan trái trong số phận của Tiểu Thanh được biểu hiện lên như một đau đớn bất tận. Với góc nhìn của Nguyễn Du, đó là một quy luật khó hiểu mà con người không thể kiểm soát. Tuy nhiên, Nguyễn Du đã chia sẻ sâu sắc cảm xúc với những số phận tài sắc bạc mệnh như Tiểu Thanh.
“Tài mệnh tương đố” là quan niệm đã tồn tại từ lâu. Sự phân biệt giữa “sắc” và “tài” thường đi kèm với những biến cố không may, điều đó thể hiện sự phức tạp và trái ngược trong cuộc sống. Trong tác phẩm Truyện Kiều, Nguyễn Du đã viết:
“Thương thay cùng một kiếp người
Hại thay mang lấy sắc tài làm chi”
Ở đây, Nguyễn Du đã thể hiện sự phẫn uất của cuộc sống, suy tư về người khác và cũng suy ngẫm về chính bản thân mình. Một người như Tiểu Thanh, có tài năng và vẻ đẹp, lại phải chịu đựng số phận oan trái. Tiểu Thanh trải qua nhiều đau khổ, qua đời khi còn trẻ, và những tác phẩm của nàng cũng bị phủ lên bởi bóng tối. Tố Như đã khóc cho Tiểu Thanh, và cũng khóc cho chính bản thân mình.
Phong vận kì oan ngã tự cư
“Phong vận kì oan” là biểu hiện của nỗi oán trái kì lạ của những người có tài năng và vẻ đẹp. Những phẩm trần nên được tôn vinh, nhưng thực tế lại đưa họ vào vòng xoáy của định mệnh khốc liệt. Tiểu Thanh, một người có tài năng và vẻ đẹp, phải ra đi khi còn trẻ, một thi nhân với văn chương tài hoa nhưng không được thịnh vượng như Nguyễn Du, họ giống nhau như thế nào? Đó là sự bất công trong cuộc đời. Một xã hội cổ đại hẹp hòi không thể chứa đựng được những người có tài năng như Tiểu Thanh. Nguyễn Du cũng gặp khó khăn trong việc được công nhận.
Cảm nhận về Tiểu Thanh - Mẫu 4
Thời xưa, nhiều phụ nữ gặp nhiều khó khăn và đau đớn, điều này được thể hiện qua những bài thơ, làm cho người đọc cảm thấy xót xa và thấu hiểu. Dù có vẻ đẹp và tài năng, nhưng số phận thường không công bằng, khiến họ phải chịu nhiều đau khổ và nỗi oán trách. Tiểu Thanh trong 'Đọc Tiểu Thanh Kí' của Nguyễn Du là một ví dụ điển hình cho điều này.
Tiểu Thanh, thông minh và xinh đẹp, bị cuốn vào cuộc sống phức tạp và đau đớn vì tình yêu và sự ghen tuông. Dù sống trong sự giàu có nhưng không hạnh phúc, nàng phải trải qua nhiều đau khổ vì ghen tuông của người vợ cả. Cuộc sống với chồng chung vẫn khó khăn, khiến nàng phải sống cô đơn và tìm sự an ủi trong văn chương và thơ ca. Cuối cùng, nàng qua đời khi mới tròn mười tám tuổi, để lại những tác phẩm đầy nước mắt. Nguyễn Du đã viết nên những vần thơ xót thương về cuộc đời nàng:
'Tây Hồ cảnh đẹp hoá gò hoang
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn'
Cảnh đẹp của Tây Hồ giờ đã chuyển thành hoang vắng, như cuộc đời Tiểu Thanh từ giàu có đến cô đơn và tàn lụi. Mảnh giấy tàn thể hiện sự nhẹ nhàng và thâm tâm của nàng, mang trong đó nỗi đau và oán trách về số phận không công bằng. Nguyễn Du đã lồng ghép những tâm trạng này vào vần thơ, khiến người đọc cảm nhận được sự thổn thức, đau đớn và xót xa.
'Son phấn có thần chôn vẫn hận
Văn chương vô mệnh đốt còn vương'
Cuộc đời của nàng đã chứa đựng nhiều gian khổ, khiến những điều tưởng như không thể còn đọng lại niềm hận thù không dứt. Dường như, dù thời gian trôi qua, sắc đẹp, phẩm chất và tài năng của nàng vẫn mãi tồn tại, không gì có thể xóa nhòa được. Dù có người muốn phủ nhận và hủy hoại, nhưng chúng vẫn tồn tại và sống mãi với cuộc đời nàng.
'Cổ kim hận sự trời khôn hỏi
Cái án phong lưu khách tự mang'
Số phận bi thảm của nàng Tiểu Thanh đã gây ra nhiều tiếc thương và căm phẫn trong lòng mọi người, và niềm tiếc hận đó vẫn còn mãi, khiến lòng người không ngừng xót xa và băn khoăn. Tại sao những người có tài năng lại phải chịu nhiều khổ cực như vậy? Tại sao họ không được trọng vọng và tôn trọng? Liệu trời cao có thể hiểu được nỗi lòng của những người phong lưu đầy oán hận?
Bài thơ là lời than khóc của Nguyễn Du dành cho cuộc đời bi thảm của Tiểu Thanh, người vừa tài năng vừa bị số mệnh đối xử tàn nhẫn. Không chỉ tạo hình ảnh về Tiểu Thanh tài hoa bạc mệnh mà còn thể hiện tâm trạng cao quý và đau đáu của một tâm hồn chân thật đối với cuộc sống và con người.