Phân tích tư tưởng sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm bao gồm 4 bài văn mẫu xuất sắc kèm theo 2 gợi ý cách viết chi tiết. Điều này giúp học sinh có thể chọn cách tiếp cận và phong cách văn phong phù hợp, từ đó làm cho kiến thức trở thành của riêng mình.
TOP 4 mẫu tư tưởng sống Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm được biên soạn rất chi tiết, dễ hiểu và có thể tự học để mở rộng và nâng cao kiến thức. Điều này giúp học sinh nắm vững môn Ngữ văn và chuẩn bị tốt hơn cho việc học. Ngoài ra, hãy tham khảo thêm các bài văn phân tích bài thơ Nhàn.
Kết cấu tư tưởng sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm
Kết cấu số 1
I. Khởi đầu
- Trình bày về quan niệm 'nhàn' trong văn học trung đại: Đây là một triết lý sống phổ biến, mỗi người lại có cách hiểu và biểu hiện riêng về khái niệm này.
- Giới thiệu về nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm và quan niệm sống Nhàn của ông: Sống theo tự nhiên, hòa hợp với thiên nhiên, ưa thích cuộc sống giản dị, yên bình, không quá mê muội với vật chất và danh vọng, coi trọng sự trong sạch trong lòng.
II. Nội dung chính
1. Tiêu đề.
- Thuật ngữ “Nhàn” đồng nghĩa với sự thư thái, tự do, không bị ràng buộc. Đây là trạng thái khi con người không phải làm việc, có thể thư thả, suy tư thoải mái.
- Khái niệm 'Nhàn' có thể hiểu theo hai khía cạnh: Nhàn về thân - sự rảnh rỗi về cơ thể và nhàn về tâm - sự thong thả, an nhàn trong tâm hồn.
→ Trong bài thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm, từ 'Nhàn' được hiểu là trạng thái tinh thần thoải mái, không bị áp lực, không lo toan. Đây là sự nhàn tâm, không phải là sự nhàn thân. Ngược lại với Nguyễn Trãi (trong bài thơ Cảnh ngày hè), ông mô tả về sự nhàn thân, không phải sự nhàn tâm.
2. Khám phá vẻ đẹp của sự Nhàn trong tâm với hình ảnh thú vui làm vườn
- Cảnh vật giản dị, gần gũi: vườn mai, ao, dây câu: Những hoạt động cụ thể hàng ngày của nông dân, như làm vườn, câu cá
- Từ “một” lặp lại liên tục kết hợp với việc đếm: Thể hiện cuộc sống bận rộn, đầy công việc và khó khăn.
→ Câu đầu tiên của bài thơ cho biết cuộc sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm ở quê với những công việc mệt nhọc, vất vả hàng ngày.
- Từ “thơ thẩn”: Biểu hiện sự ung dung, tự do, không bị ràng buộc.
- “Dầu ai vui thú nào”: Phủ nhận sự hưởng thụ những thú vui đời thường mà mọi người thường trân trọng.
→ Tâm trạng của tác giả: Vui vẻ, coi những công việc vất vả như là niềm vui trong cuộc sống nông thôn.
⇒ Quan niệm sống nhàn: Dù cuộc sống bận rộn, gian khổ, nhưng tâm hồn luôn tự do, ung dung, thư thái.
3. Nhàn là triết lí sống
- Phép đối: Ta – con người, dại – thông thái, nơi yên bình - nơi ồn ào: Đặt nặng vào quan niệm và triết lí sống của tác giả.
- Phép ẩn dụ:
- Nơi yên bình: Làng quê êm đềm, thanh bình, nơi tâm hồn tìm lại sự yên tĩnh
- Nơi ồn ào: Xô bồ của cuộc sống xã hội, sự hỗn loạn, cuộc tranh giành, đấu đá.
- Nói ngược là: Dại thì ta – khôn là người: Đại diện cho sự dại của một cá nhân cao quý và sự khôn của những người chỉ biết tìm lợi ích.
→ Dùng từ hóm hỉnh kèm chút mỉa mai, để tự nhắc nhở và dạy bảo.
⇒ Niềm tin sống nhàn nhã: Rời xa cuộc sống quan trọng với những cuộc đua về danh vọng và lợi ích cá nhân, quay về với cuộc sống giản dị, yên bình của làng quê.
4. Sống nhàn là sống theo tự nhiên
- Hình ảnh bốn mùa: Xuân – hạ - thu – đông: Tạo hình ra cảnh vật của vùng quê Bắc bộ.
- Đồ ăn: Thu ăn măng tre, đông ăn măng rừng: Đồ ăn đơn giản, tự nhiên, mùa nào có thì ăn.
- Hoạt động: Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao: Sống hòa mình vào sự thay đổi của thiên nhiên, sống gần gũi với thiên nhiên, tinh tế và giản dị.
- Rhythm 4/3 lưu loát, âm điệu vui tươi thoải mái: Khích lệ cuộc sống thong thả, thư giãn.
⇒ Triết lý sống nhàn: Sống theo tự nhiên, thưởng thức những gì thiên nhiên ban tặng, không tham lam, không vội vàng.
5. Triết lý cuộc sống nhàn.
- Sử dụng điển tích của Thuần Vũ Phần: Nhận biết rằng phú quý chỉ là ảo mộng không có thực.
- Động từ “nhìn thấy”: Tâm trạng tự tin và kiêu hãnh của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
⇒ Triết lý sống nhàn: Hiểu rằng vinh hoa và phú quý chỉ là những giấc mộng phù du, duy nhất tồn tại trong tâm hồn và nhân cách con người.
Dạy bài học cho con người: Hãy tránh xa cuộc đua về danh vọng và lợi ích, hướng tới cuộc sống thanh bình, đầy đủ.
III. Kết luận
- Tóm tắt triết lý sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
- Kết nối và mở rộng: Ngoài Nguyễn Bỉnh Khiêm, triết lý sống nhàn cũng được thể hiện sâu sắc trong các tác phẩm của Nguyễn Trãi, Nguyễn Công Trứ,..
Dàn ý thứ 2
1. Giới thiệu
Giới thiệu về tác giả Nguyễn Bỉnh Khiêm và bài thơ Nhàn.
2. Nội dung chính
a. Hai câu đầu
Thơ thảnh thơi ai hạnh phúc như thế”
Từ những câu thơ đầu đã tạo ra một không khí thoải mái, nhẹ nhàng.
Sử dụng những đồ dùng quen thuộc của người lao động để miêu tả cảnh sống nghèo khó nhưng bình yên, thanh thản.
Tâm trạng của nhà thơ phản ánh tâm trạng của một người hiền tài “sống giản dị trên đường tu hành” vượt lên trên những lo toan của cuộc sống hàng ngày để tìm kiếm niềm vui trong việc tu tâm.
b. 2 câu chính
Bằng cách sử dụng kỹ thuật phân đối: “dại - khôn, nơi vắng vẻ - chốn đông đúc” và cách tự xưng “ta - người” đã làm rõ sự khác biệt trong cách sống của tác giả so với đám đông. Ông cho rằng nơi yên bình là nơi làng quê thôn dã, nơi không có sự bon chen của thị trấn, đó mới thực sự là cuộc sống đích thực.
→ Sự tương phản giữa hai câu đã làm nổi bật ý nghĩa, nhấn mạnh triết lý sống của tác giả khác biệt so với phổ thông. Đồng thời, ý muốn lên án thói xấu, thói tục, và thể hiện sự kiêu căng của người trí thức.
c. 2 câu tổng kết
“Thu ăn măng tre, đông ăn măng rừng
Xuân tắm suối, hạ tắm ao hồ”
Cuộc sống đơn giản không cần những thứ xa hoa chỉ cần sản vật từ thiên nhiên như “măng tre” “măng rừng” → Hiểu được cuộc sống bình dị, thanh cao, và sống hòa mình với tự nhiên của tác giả.
Sự thú vị của cuộc sống bình yên, tiềm ẩn trong con người có phẩm giá cao khi sống trong thế giới loạn lạc đó để giữ vững phẩm chất của mình.
d. 2 câu kết
Rượu đến gốc cây ta sẽ say
Nhìn thấy phú quý tựa giấc mơ
Nhìn nhẹ nhàng cuộc sống xa hoa và phú quý, ông coi đó như một giấc mơ phù du.
Phong cách sống cao quý vượt lên trên cuộc sống thông thường.
3. Tóm tắt
Tổng kết lại giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.
Phân tích triết lý sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm - Mô hình 1
Từ khi rút lui vào ẩn, thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm thường đề cập đến lối sống nhàn. Trải qua bốn mươi hai năm sống ẩn dật và tham gia vào việc làm quan, ông luôn tự hào và kiên định với lựa chọn của mình. Bài thơ Nhàn là một ví dụ điển hình cho triết lí sống của nhà thơ.
Chủ đề nhàn thường xuất hiện trong văn học thời Trung Đại. Nó đại diện cho một phần của tư duy văn hóa sâu sắc của người xưa, đặc biệt là tầng lớp trí thức phong kiến. Sống nhàn là sống hòa mình với tự nhiên, tu dưỡng tâm hồn, tạo điều kiện cho sự sáng tạo văn học và tinh thần. Sống nhàn mang lại niềm vui cao quý và sức khỏe tinh thần cho con người. Biết sống nhàn là biết tìm thú vui trong sự bình yên, đó là một triết lí từ thời xa xưa.
Triết lí sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm trong bài thơ Nhàn thể hiện sự tự do trong lựa chọn cuộc sống, sự tự khẳng định bản thân. Chính nhờ vào điều này mà nhà thơ có được phong thái thoải mái và ung dung trong cuộc sống hàng ngày:
Một ngày, một cuốc, một câu câu
Thơ thảnh thơi, dù ai hạnh phúc như thế.
Thơ đơn giản, không cần phải trau chuốt nhưng nhờ sự sắp xếp hợp lý và linh hoạt mà trở nên sâu sắc. Ngày, cuốc, câu câu là những dụng cụ gắn liền với công việc hàng ngày. Cách liệt kê này tạo nên một nhịp điệu tự nhiên, diễn đạt tâm trạng thoải mái của nhà thơ.
Câu thứ hai nhấn mạnh ý của câu thứ nhất bằng cụm từ “thơ thẩn”. Thơ thẩn là trạng thái thoải mái, không bị áp đặt bởi âu lo và ham muốn. Cụm từ “dù ai vui thú nào” thể hiện ý thức không chạy theo danh vọng, giàu có, không bị cuốn theo dục vọng, kiên định với lối sống đã chọn. Hai câu thơ tạo ra hình ảnh của một người tu sĩ sống bình yên, khiến ta liên tưởng đến cuộc sống giản dị của thi nhân Nguyễn Trãi “Ao cạn vớt bèo cấy muống; Đìa thanh phát cỏ ương sen”. Đó cũng là cuộc sống bình dị, dân dã của Nguyễn Trãi khi ông từ chức về ẩn cư. Hai câu tiếp tục phát triển ý của hai câu đề bằng quan điểm của tác giả về “dại” và “khôn”
Ta dại, tìm nơi yên bình
Người khôn, đến nơi ồn ào.
Nhà thơ tự nhận mình là người dại, trong khi người khác là người khôn. Nhịp thơ 2/5 đều đặn tạo ra một giọng điệu tự tin, pha trộn với chút châm biếm. Những từ như “yên bình”, “ồn ào” vốn giàu ý nghĩa biểu cảm, ở đây được sử dụng với ý nghĩa tượng trưng. Tìm “nơi yên bình” có nghĩa là tìm kiếm sự thanh thản, không phải là chốn chạy theo danh lợi, không phải là nơi “đua đòi tư vấn” mà là nơi đề cao sự tự do, nơi được sống thoải mái theo cách mà ta muốn. Đến “chốn ồn ào” là đến nơi đông đúc, nơi hối hả, nơi mọi người cạnh tranh, đấu tranh với nhau.
Hai câu thứ hai sử dụng kỹ thuật đối lập một cách chính xác. Nhà thơ so sánh cuộc sống nhàn với cuộc sống hối hả, đua đòi, mưu danh lợi, phú quý trong thành phố để khẳng định lối sống mà ông đã chọn: sống nhàn. Sống nhàn mang lại sự hài lòng với bản thân, tự do tinh thần, không bị lôi cuốn bởi ham muốn vật chất, từ đó nuôi dưỡng tính cách tự nhiên, yêu thích làm điều tốt. Theo như nhà thơ nói, “Tâm an, thân rảnh, tay chân thư thái” (Trung tân ngụ hứng). Đó là niềm vui về tinh thần cũng như về thể chất.
Đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm, sống nhàn không chỉ mang lại niềm vui trong tinh thần và thể chất mà còn là sự hòa mình vào nhịp điệu của tự nhiên qua bốn mùa: Niềm vui đó được nhà thơ nêu bật trong hai câu tổng kết:
Mùa thu ăn măng trúc, mùa đông ăn giá
Mùa xuân tắm trong hồ sen, mùa hạ tắm trong ao.
Cuộc sống hàng ngày như “ăn”, “tắm” được nhà thơ miêu tả rất tự nhiên: Mùa thu ăn măng trúc, mùa đông ăn giá; Mùa xuân tắm trong hồ sen, mùa hạ tắm trong ao. Các từ xuân, thu, hạ, đông được ngắt thành một nhịp, từ ăn, tắm được lặp lại hai lần để nhấn mạnh rằng đây là sinh hoạt hàng ngày quanh năm. Ăn, tắm đều thú vị, tự nhiên. Mỗi mùa đều có thứ gì đó, mọi thứ đều sẵn có. Đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm, niềm vui của tâm hồn có thể tìm thấy trong thiên nhiên, tài nguyên tự nhiên phong phú và không giới hạn, cũng như trong sinh hoạt hàng ngày. Dù đơn giản và khiêm tốn nhưng mọi thứ đều có sẵn, không cần phải tìm kiếm mà vẫn được thảnh thơi, thoải mái. Và nhà thơ luôn tự hào về sự lựa chọn đó của mình:
Cao quý nhưng khiêm tốn như một kẻ sĩ trong xã hội
An nhàn như một người tiên trên thế gian (Ngụ hứng).
Dịch là:
Cao quý nhưng khiêm tốn như một kẻ sĩ trong xã hội
An nhàn như một người tiên trên thế gian.
Một người như Nguyễn Bỉnh Khiêm, được sống như tiên, được làm tiên trong đời, thì có bao nhiêu người giống như vậy?
Kiên trì với lối sống nhàn, Nguyễn Bỉnh Khiêm đem đối lập lối sống ấy với cuộc sống bon chen giành giật ở thành thị. Ông tỏ rõ thái độ coi thường công danh phú quý trong hai câu thơ kết:
Nếu rượu đến cùng cội cây, ta vẫn sẽ uống
Nhìn xem phú quý tựa như một giấc chiêm bao.
“Rượu” là biểu tượng cho phú quý, công danh. Đến rồi đi, không cần phải bon chen, không cần phải làm màu. Hơn nữa, cái công danh, cái giàu sang đó cũng không khác gì một giấc mơ phù phiếm. Hai câu thơ kết tác giả đã sáng tạo vận dụng điển cố, cách ngắt nhịp linh hoạt (1/3/3; 4/3) hình ảnh so sánh làm nổi bật ý nghĩa coi thường phú quý. Từ đó, nhà thơ lại một lần nữa khẳng định sự lựa chọn lối sống của mình, lối sống tự nhiên không theo đuổi danh lợi.
Trong bài thơ Nôm Đường luật thất ngôn bát cú, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã rõ ràng khẳng định lối sống mà ông đã chọn: sống nhàn. Đó là lối sống tự nhiên, coi thường công danh phú quý. Tất nhiên, quan niệm “sống nhàn” của ông không phải là lối sống tránh khỏi thực tế cuộc sống mà vẫn liên quan chặt chẽ với nó. Lối sống ấy đã xuất hiện ở một số nhà nho khác như Nguyễn Trãi, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến. Đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm, sống nhàn không chỉ là một lối sống đẹp mà còn là một triết lí sống.
Nhàn là một bài thơ hay của Nguyễn Bỉnh Khiêm khẳng định niềm tin vào lối sống mà nhà thơ đã chọn “sống nhàn”. Sống nhàn là một quan niệm sống, một triết lí nhân sinh của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Qua bài thơ tác giả còn thể hiện sự gắn bó với cuộc sống bình dị, tài năng thơ Nôm cũng như những đóng góp của ông đối với ngôn ngữ thơ ca dân tộc: giản dị, tự nhiên, cô đọng, kết cấu và nhịp điệu câu thơ luôn biến đổi phù hợp với yêu cầu và mục đích diễn tả.
Quan niệm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm - Mẫu 2
Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉ làm quan tám năm sau đó trở về ở ẩn. Bởi vậy, thơ ca của ông thấm đượm triết lí sống nhàn. Sự nghiệp sáng tác của ông cho thấy quan niệm sống nhàn hết sức phong phú, phức tạp. Và trong bài thơ Nhàn đã phần nào thể hiện được sự phong phú về quan điểm sống ấy. Trước hết, quan điểm sống nhàn ở Nguyễn Bỉnh Khiêm thể hiện ở lối sống hòa hợp, thuận theo tự nhiên:
Một ngày, một cuốc, một cần câu
Thư thảnh, dầu ai vui thú gì
Trong câu thơ đầu tác giả sử dụng từ “một”, kết hợp với cấu trúc lặp lại (mai, cuốc, cần câu) và nhịp điệu nhẹ nhàng 2/2/3 để thể hiện sự đều đặn, thong thả của cuộc sống. Điều này cho thấy phong thái sống bình dị, vui vẻ với thú điền viên. Ông cũng sử dụng từ “thư thảnh” tinh tế, thể hiện sự an nhàn, thư thái trong tâm hồn. Hai câu thơ đầu đã hé lộ lối sống, quan niệm sống nhàn của Trạng Trình, được thể hiện qua lối sống giản dị, ung dung, thảnh thơi, tránh xa cuộc sống đua chen vật chất, chức tước tầm thường. Lối sống nhàn này tiếp tục phản ánh trong cách sống của ông:
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao
Câu thơ với nhịp 1/3/1/2 kết hợp với nghệ thuật đối cho thấy nhịp độ sinh hoạt đều đặn, thường xuyên của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Đồng thời chỉ với hai câu thơ nhưng tác giả đã vẽ nên bức tranh tứ bình thật độc đáo: xuân – tắm hồ sen, hạ - tắm ao, thu – măng trúc, đông – giá. Ông không lấy hoa cúc, phong, lựu,… để miêu tả về các mùa như các nhà thơ khác:
Người trên ngựa, kẻ chia bào
Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san
Dưới ánh trăng, mùa hè đã đến gần
Lửa lựu bên tường lập lòe, đâm bông
(Nguyễn Du)
Nguyễn Bỉnh Khiêm chọn các sự vật đơn giản, gần gũi để nhấn mạnh nét đặc trưng của từng mùa. Thức ăn là những sản vật tự nhiên, phản ánh bản chất thôn dã, phổ biến trong sinh hoạt hàng ngày. Cuộc sống của ông tuân theo nhịp điệu tự nhiên: tắm hồ sen, tắm ao. Lối sống khiêm nhường, bình dị của ông phản ánh sự tinh tế của một trí thức đầy tài năng. Mọi nhu cầu cuộc sống đều được đáp ứng mà không thiếu thốn, giúp con người gần gũi hơn với tự nhiên, hòa mình với môi trường xung quanh. Điều này đưa ông gần hơn với triết lí sống của thi nhân Nguyễn Trãi ở thế kỷ XV:
Ao cạn vớt bèo cấy muống
thanh, phát cỏ, ươm sen
Cuộc sống tự do, thư thái, ung dung mà biết bao nhà nho mơ ước. Nhàn đối với ông cũng là việc tránh xa cuộc sống bon chen, danh vọng để giữ vững phẩm chất cao quý:
Ta dại tìm nơi yên bình
Người khôn đua chen với thế giới
Nơi yên bình và thế giới bon chen là hai biểu tượng cho hai loại cuộc sống khác nhau. Nơi yên bình là nơi tĩnh lặng của thiên nhiên, khiến tâm hồn con người trở nên bình an. Ngược lại, thế giới bon chen là nơi cuộc sống sôi động, đầy cạnh tranh, mưu lợi. Hai câu thơ đối nhau, phản ánh hai cách sống khác biệt: một sống thanh thản, tự do, một sống với vật chất, chạy theo danh vọng. Điều này cũng thể hiện trong nhiều bài thơ khác của ông:
Khôn mà hiểm độc là khôn dại
Dại vốn hiền lành, dại ấy khôn
Cách diễn đạt ngược đã mạnh mẽ khẳng định tôn chỉ sống xa xa cuộc sống bon chen, tìm kiếm nơi yên bình để giữ vững phẩm chất cao quý, đồng thời từ chối chạy theo danh lợi, quyền thế. Tuy nhiên, cái 'Nhàn' của Nguyễn Bỉnh Khiêm lại khác biệt so với triết lí ẩn dật của các nhà nho khác. Ông sống thoải mái về thân thể nhưng tâm hồn ông không bao giờ bất khuất:
Rượu đến cội cây ta sẽ uống
Nhìn xem phú quý tựa giấc mơ
Câu thơ nêu lên một truyền thống: Thuần Vu Phần đã say rượu mơ thấy mình đến được vùng đất Hòe Nhai và tìm thấy cây công danh, phú quý. Khi tỉnh giấc, ông chỉ thấy một tổ kiến trước mắt. Ý nghĩa của điển tích đó là Nguyễn Bỉnh Khiêm không sử dụng rượu để mơ mộng về danh lợi mà để tỉnh táo, để nhận ra sự thật: phú quý chỉ là một giấc mơ. Điều này phản ánh rằng danh lợi không phải là mục tiêu cuối cùng, nhân cách và phẩm chất mới là thứ tồn tại mãi mãi. Hai câu thơ cuối cùng khẳng định rõ ràng ý nghĩa của triết lí sống nhàn. Với Nguyễn Bỉnh Khiêm, sống nhàn là để bảo vệ nhân cách, tu dưỡng tâm hồn, đạt được sự thư thái, thanh nhàn. Cần phải phân biệt 'nhàn' ở đây là một tôn chỉ, một phương châm sống, không phải là sự lười biếng trong tâm hồn.
Bài thơ bằng hình thức thất ngôn bát cú đường luật, đơn giản, súc tích, ngôn ngữ giản dị đã minh họa triết lí sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm một cách đầy đủ và toàn diện. Đó là lối sống cao quý, tinh tế, hòa hợp với tự nhiên, đồng thời tránh xa cuộc sống vật chất, quyền lợi. Trong bối cảnh của thời đại, lối sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm được xem là một phương pháp tích cực để bảo vệ nhân cách trong sáng.
Quan điểm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm - Mẫu 3
Nguyễn Bỉnh Khiêm từ bỏ chức quan triều Mạc để trở về quê dạy học và sống nhàn nhã, hòa mình với tự nhiên, giữ vững phẩm chất thanh cao hơn cả danh lợi. Triết lý sống nhàn của Trạng Trình được thể hiện qua bài thơ 'Nhàn' viết bằng chữ Nôm, rút từ tập 'Bạch Vân quốc ngữ thi'. 'Nhàn' không chỉ là quan điểm sống, mà còn là sự thổ lộ về cuộc sống, sở thích cá nhân.
Sau khi dâng sớ và yêu cầu bị xử tử bởi 18 vị thần lộng lẫy nhưng vua không chấp nhận, Nguyễn Bỉnh Khiêm quyết định trở về quê dạy học, sống một cuộc sống nhàn nhã như một 'nông dân thực sự'. Cuộc sống bình dị, thanh nhàn diễn ra hàng ngày với:
'Một mai, một cuốc, một cần câu
Thong thả dưới ánh nắng, ai sẽ vui sướng'.
Nhịp điệu thơ thong thả như chính cuộc sống ở nông thôn yên bình với 'mai', 'cuốc', 'cần câu'. Từ 'một' đếm số lần lượt liệt kê ra các công cụ làm việc bình dị kết hợp với nhịp thơ 2/2/2 đã tạo nên tâm trạng sẵn lòng, chu đáo trong công việc. Từ 'thong thả' miêu tả tư thế an nhàn, tự do và cuộc sống chân thật, đơn giản của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Đại từ không xác định 'ai' đề cập đến mọi người mải mê trong niềm vui, trái ngược với ông chỉ thích tận hưởng với thiên nhiên, cây cỏ mà không lo lắng về danh lợi, phú quý trong cuộc sống. Tâm trạng thanh thản, yên bình và niềm vui tao nhã, cao quý với bốn mùa xuân, hạ, thu, đông - mỗi mùa có niềm vui riêng.
'Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao'.
Cuộc sống đơn giản mỗi ngày trôi qua với những món ăn quê mùa, dân dã như 'măng trúc', 'giá' do chính lao động của mình tạo ra, cùng với những thói quen bình thường, giản dị như 'tắm hồ sen', 'tắm ao'. Sự sắp xếp từ ngữ ở hai câu thơ này đã phác họa bức tranh tứ bình về cuộc sống giản dị nhưng cao quý với bốn mùa mang những đặc trưng riêng. Sử dụng từ ngữ đơn giản, dân dã như lời của một người nông dân thực thụ chứ không phải của một quan lại. Thú vui thư thái không làm mất đi vẻ đẹp nhân cách và trí tuệ rực rỡ.
'Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn, người đến chốn lao xao'.
Dại - khôn trong cuộc sống là quan điểm của mỗi người, vì nước luôn chảy xuôi thấp còn con người thì muốn tiến lên cao. Trong hai câu thơ này, chúng ta thấy sự đối lập giữa 'ta' và 'người'. So sánh và phản ánh: dại - khôn, vắng vẻ - lao xao đã chỉ ra sự đối nghịch giữa phẩm chất - danh lợi và Nguyễn Bỉnh Khiêm đã chọn giữ lại phẩm chất cao quý, theo đuổi triết lý sống nhàn, sống thanh nhàn và thanh cao bất chấp cuộc sống quan trường, tranh giành. Ngược lại với thời đại thông thường, ông tránh xa để tìm kiếm bên trong, tìm về 'nơi vắng vẻ', nơi không có sự tranh đấu và cũng không cần phải cạnh tranh với người khác.
Quê hương thanh bình và yên tĩnh giúp ông tìm thấy sự thư thái, thoải mái trong tâm hồn và duy trì phẩm chất thanh cao của bản thân. Mặc dù người khác chọn 'chốn lao xao' với cuộc sống bon chen, cạnh tranh, nơi chỉ có quyền lực và tiền bạc, không có tình thương. 'Dại' của 'ta' là 'dại' của một người có trí tuệ, hiểu biết sâu sắc về lẽ thường, sống trọn vẹn mỗi ngày với sự thanh thản, thư thái theo tự nhiên. 'Khôn' của 'người' là chấp nhận tham gia vào 'chốn lao xao' để tìm kiếm lợi ích cho bản thân, mắc kẹt trong cuộc sống bận rộn, bị cuốn theo vòng quay của danh vọng và lợi ích. 'Người' nhìn thấy 'ta' như là 'dại' nhưng liệu 'ta dại' và 'người khôn' có thực sự như vậy không? Trong thời gian của mình, Nguyễn Bỉnh Khiêm, một quan chức dưới thời triều Mạc, tự nhận mình là 'dại' nhưng lại thấu hiểu sâu sắc về cách sống. Cách nói này mang tính đùa giỡn, phản chiếu một cách hóm hỉnh nhưng cũng chứa đựng một tầm nhìn sâu sắc, làm nổi bật phẩm chất nhân cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bài thơ là cách ông nhận ra sự dại và khôn thực sự trong cuộc sống.
Sống thanh cao và hài hòa với tự nhiên là triết lý sống nhàn suốt bài thơ. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã chọn con đường sống đối lập với xã hội, đứng ngoài quan sát cuộc sống bon chen, lòng người tăm tối, tránh xa sự tranh giành vật chất. Bài thơ 'Nhàn' nhấn mạnh tính cách, trí tuệ sáng ngời, một triết lý sống phù hợp với tình hình xã hội lúc đó. Dù thời cuộc thay đổi, quan niệm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn là điều đáng quý trọng và tôn trọng.
Quan niệm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm - Mẫu 4
Nguyễn Bỉnh Khiêm là một nhà thơ với những quan điểm sống sâu sắc và mới mẻ, vượt xa thời đại của mình. Bài thơ 'Nhàn' với triết lý sống nhàn là một ví dụ điển hình. Từng dòng thơ của bài thơ này mở rộng và phát triển quan điểm sống nhàn độc đáo, sâu sắc của ông. Đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm, nhàn không chỉ là một triết lý sống, mà còn là một hướng dẫn để những người đọc tiếp cận thế giới đẹp đẽ và thuần khiết.
“Một mai một cuốc một cần câu
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào”
Hình ảnh Nguyễn Bỉnh Khiêm trong câu thơ này giống như một người nông dân chân thật và một người đạo sĩ ẩn dật, ông quay về ẩn dật, tránh xa cuộc sống bon chen, tận hưởng cuộc sống bình dị, hòa mình vào thiên nhiên. Từ “thơ thẩn” phản ánh tư thế và tâm trạng của nhân vật trầm lặng, thoải mái, tự do mà cũng đầy tự tin như một thách thức với cuộc sống rằng dù người khác vui vẻ với điều gì đi nữa, ta vẫn mãi say mê với cuộc sống đồng quê, với niềm vui của cuộc sống thanh bình. Tóm lại, “nhàn” trong hai câu thơ này có thể hiểu là sự thoải mái, thảnh thơi trong tâm hồn, vui vẻ với cuộc sống đồng quê. Sang hai câu thơ sau, quan điểm này được mở rộng hơn một cách mới mẻ:
'Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người đến chốn lao xao'
Nơi vắng vẻ là nơi ít người, là quê dân dã bình yên, cuộc sống thanh nhàn không lo toan, không phiền muộn, nơi tâm hồn con người được hòa nhập với thiên nhiên, thư thái không vướng bận vào vòng của danh lợi. Ngược lại, chốn lao xao là thế giới của quan trường với sự ganh đua, thù hận, nơi mênh mông vật chất và ồn ào của cuộc sống. Điều này làm cho câu thơ mang nghĩa mỉa mai: Người khôn thế mà vẫn chọn đến chốn lao lực sống, như con thiêu thân chạy vào ngọn đèn. Họ có biết rằng nơi đó đầy rẫy ganh đua, đố kị, âm mưu và hờn dỗi, một cuộc sống mà con người luôn phải đấu tranh và suy nghĩ, liệu có thể mang lại hạnh phúc không? Hóa ra, sự dại của nhà thơ lại chứa đựng sự khôn ngoan. Sự khôn ngoan của người lại chứa đựng sự dại dột. Sự dại của Nguyễn Bỉnh Khiêm là 'Sáng suốt giống như ngu', tức là sự dại dột của người hiểu biết về vòng xoay của cuộc sống:
'Dưới công danh đeo khổ nhục
Trong dại dột có phong lưu'
Như vậy, triết lí nhàn trong hai câu thơ này thực chất là sự thanh cao, không bị cuốn vào cuộc chơi của danh lợi và sự tranh đấu. Sang hai câu tiếp theo, triết lí 'nhàn' của Nguyễn Bỉnh Khiêm mang lại cảm nhận sâu sắc, mới mẻ hơn:
'Thu ăn măng trúc đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao'
Hai câu thơ trên đều thể hiện sự gắn kết mạnh mẽ với cuộc sống thôn quê, nơi mà tác giả thực sự đồng hành và chia sẻ cùng những người dân nông thôn bình dị, chất phác. Cuộc sống ở đây thanh nhàn, không bon chen, không lo lắng. Điều này đem lại câu hỏi về sự khác biệt trong trải nghiệm cuộc sống của mỗi người. Nhàn ở đây ám chỉ việc sống hòa mình với tự nhiên. Câu kết thì cho thấy ý kiến toàn diện của tác giả:
“Rượu, đến cội cây ta sẽ uống
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao”
Trong câu thơ trên, sự phù vân của phú quý được coi là mơ hồ, tồn tại một cách tạm thời và dễ dàng tan biến như giấc mơ. Điều này thể hiện sự khinh thường của tác giả đối với phú quý, danh vọng, coi chúng như những thứ tạm thời và vô nghĩa. Đây là một quan điểm sống đáng trân trọng của Nguyễn Bỉnh Khiêm, người sống trong thời đại đầy biến động và sự thịnh vượng chủ yếu được đánh giá bằng tiền bạc. Trong khi xã hội mải mê theo đuổi danh vọng và phú quý, ông chọn bày tỏ sự khinh bỉ với chúng. Lúc đó, nhàn có nghĩa là coi thường danh vọng và phú quý.
Bằng những dòng thơ giản dị và những tượng trưng sâu sắc, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã truyền đạt thông điệp sâu sắc về triết lý sống nhàn. Nhàn ở đây là việc sống đơn giản, thanh cao, tránh xa cuộc sống xô bồ và vật chất; nhàn là việc trở về với thiên nhiên và thú vui nông trang để làm sạch tâm hồn. Thông qua từng câu thơ, triết lý sống nhàn được thể hiện một cách mới lạ và độc đáo, giúp độc giả nhận thức và suy ngẫm về nhiều khía cạnh, tạo nên sự sâu sắc trong cảm nhận và tư duy.