Thuyết minh về lễ hội truyền thống tập hợp gợi ý cách viết và 20 mẫu văn hay. Thông qua việc thuyết minh về một lễ hội, các bạn học sinh có thể lựa chọn cách tiếp cận và một phong cách văn phong phù hợp để kiến thức trở thành phần không thể thiếu của bản thân.

Thuyết minh về lễ hội truyền thống hoặc thể hiện sức sống của thời đại rất xuất sắc dưới đây được viết với ngôn từ rõ ràng, dễ hiểu, giúp mở rộng và nâng cao kiến thức, đồng thời giúp học sinh chuẩn bị tốt hơn cho việc học môn Ngữ văn.
Bố cục thuyết minh về lễ hội truyền thống
I. Khởi đầu
Giới thiệu về lễ hội để ghi nhận những nét đẹp của phong tục truyền thống hoặc thể hiện sức sống của thời đại.
II. Phần chính:
Mô tả những đặc điểm của lễ hội dựa trên cấu trúc thời gian kết hợp với logic.
– Thông tin về thời gian, địa điểm tổ chức lễ hội, và nguồn gốc của nó:
- Thời điểm cụ thể (kết nối với ý nghĩa lịch sử).
- Nơi diễn ra lễ hội.
- Nguyên nhân và mục đích tổ chức lễ hội (tôn vinh truyền thống hoặc thể hiện sự sôi động của thời đại).
– Giới thiệu các công việc chuẩn bị cho lễ hội:
- Chuẩn bị các tiết mục biểu diễn.
- Chuẩn bị trang trí, tiến trình lễ hội (nếu là lễ hội truyền thống thì chuẩn bị cho việc rước kiệu, trang trí kiệu, chọn người,…).
- Chuẩn bị về địa điểm…
– Trình bày diễn biến của lễ hội theo trình tự thời gian. Thường lễ hội được chia thành hai phần: phần lễ và phần hội.
- Nếu là lễ hội tôn vinh nét đẹp phong tục truyền thống thì bao gồm: rước kiệu lễ Phật, dâng hương lễ vật, các hình thức diễn xướng dân gian, các đoàn khách thập phương.
- Nếu là lễ hội thể hiện sự sôi động của thời đại: tuyên bố lý do; các đại biểu thể hiện ý nghĩa, cảm xúc về lễ hội, các hoạt động biểu diễn (như đồng diễn, diễu hành, ca nhạc, các trò vui chơi,…)
– Đánh giá về ý nghĩa của lễ hội.
III. Tổng kết:
Tổng hợp lại ý nghĩa của lễ hội.
Lưu ý: bài văn được viết theo phong cách của thuyết minh văn, có thể bổ sung thêm miêu tả (về đặc điểm, diễn biến của lễ hội), biểu cảm (trình bày cảm nhận về ý nghĩa của lễ hội); sắp xếp nội dung một cách rõ ràng, logic.
Thuyết minh về một lễ hội
Hội Lim là một trong những lễ hội truyền thống diễn ra hàng năm tại làng Phù Đổng, huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội để kỷ niệm và tôn vinh vị thần linh Lim, một biểu tượng văn hóa tinh thần của người dân nơi đây.
Hội Gióng Phù Đổng được tổ chức hàng năm trong ba ngày, từ mùng 7 đến mùng 9 tháng 4 Âm lịch tại xã Phù Đổng, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội, nơi sinh ra người anh hùng huyền thoại Phù Đổng Thiên Vương.
Trước khi hội diễn ra, bảy thôn làng đại diện cho bảy xã chuẩn bị lễ vật trong ngày mở đầu của hội chính. Tuy nhiên, nghi lễ đặc biệt diễn ra vào đêm mùng 5, là lễ Dục Vọng để mời ông Gióng về với lễ vật, lễ phẩm đã được chuẩn bị chu đáo với lòng thành kính, mong đức Thánh Gióng phù hộ cho dân làng có một cuộc sống an lành, hạnh phúc. Ngoài ra, trong hội còn có nhiều trò chơi dân gian sôi động như chọi gà, cờ tướng, hát ca trù, hát chèo… Ngày chính của hội là mùng 6, ngày thánh hoá theo truyền thuyết. Ngày khai hội, dân làng và khách thập phương dâng hương, đúng nửa đêm có lễ khai quang - tắm cho pho tượng Thánh Gióng. Nghi lễ chính trong ngày của hội là lễ dâng hoa tre ở đền Sóc (thờ Thánh Gióng) và chém tướng giặc. Hoa tre được làm từ những thanh tre dài khoảng 50cm, đường kính khoảng 1cm, đầu được vót thành xơ và nhuộm màu. Sau lễ dâng hoa, tre được tung ra trước sân đền để người dự hội lấy để cầu may. Chém tướng giặc được thực hiện bằng cách chém một pho tượng, tái hiện lại truyền thuyết về Gióng dùng tre ngà quật chết tướng cầm đầu giặc Ân là Thạch Linh (đá thành tinh). Mặc dù có các nghi thức liên quan đến truyền thuyết về Thánh Gióng, nhưng các nhà nghiên cứu cho rằng: 'Hội Gióng Sóc Sơn vẫn giữ nguyên tính chất của hội cầu mùa theo tín ngưỡng dân gian phổ biến ở hầu hết các hội xuân vùng đồng bằng và trung du Bắc Bộ'.
Hội Gióng Phù Đổng được đánh giá là một trong những lễ hội lớn nhất ở đồng bằng Bắc Bộ về quy mô đoàn rước và số lượng người tham dự.
Thuyết minh về một lễ hội ngắn gọn
Hội Lồng Tồng, hay còn được biết đến với tên gọi hội xuống đồng, là một trong những lễ hội truyền thống của dân tộc Tày. Lễ hội diễn ra hàng năm vào những ngày đầu tiên của tháng giêng và kéo dài đến đầu tiên của tháng hai âm lịch. Đây là một hoạt động tín ngưỡng cầu mưa thuận gió hòa, cho cây cối mạnh mẽ, mùa màng bội thu và cuộc sống an lành, hạnh phúc.
Lễ hội Lồng Tồng diễn ra từ ngày mồng 4 đến ngày mồng 10 tháng giêng. Lồng Tồng, hay Lồng Tồng theo tiếng Tày – Nùng hoặc Lồng Tồng theo tiếng Dao, có nghĩa là xuống đồng. Đây là một lễ hội mang nét đặc trưng của nền nông nghiệp từ các nghi lễ, các nghi thức, đến các trò chơi trong lễ hội. Lễ hội Lồng Tồng tồn tại từ lâu đời, được truyền bá qua nhiều thế hệ trong cộng đồng dân tộc Tày, Nùng ở các tỉnh miền núi phía Bắc như Thái Nguyên, Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn và một số tỉnh Tây Bắc.
Trước ngày hội diễn ra, mọi gia đình đều dọn dẹp nhà cửa, làng xóm sạch sẽ và chuẩn bị thực phẩm để đón tiếp khách. Vào ngày lễ xuống đồng, ngoài đồng của Bản, mỗi gia đình cũng chuẩn bị một bàn cỗ theo khả năng của mình. Điều này tôn vinh sự khéo léo của phụ nữ trong việc làm bếp, nấu nướng các món ăn truyền thống như bánh chưng, bánh giầy, chè lam, bánh bỏng... Trên mỗi bàn cỗ thường có một chiếc bánh hình bông hoa với nhiều màu sắc. Mỗi bàn cỗ còn có hai đôi quả được làm bằng vải màu, bên trong là cát, bông, có hình tuần lộc đa màu sắc.
Lễ hội Lồng Tồng thường gồm hai phần: phần lễ và phần hội. Phần lễ bắt đầu khi chiêng và trống vang lên, các bô lão và tráng đinh rước Thần Nông và Thành Hoàng từ đình ra ruộng, trong khi các gia đình khác mang bàn cỗ ra trên bãi hội. Người chủ trì hội thường thực hiện nghi lễ cúng cầu cho các thần rồi tuyên bố phá cỗ. Gia đình nào có bàn cỗ thịnh soạn và mời được nhiều khách đến thưởng thức cỗ nhà mình thì được coi là điều may mắn cho cả năm. Có những bô lão được mời thưởng cỗ, cùng với các thanh niên gái trai tham gia múa hát, chúc phúc cho từng gia đình.
Hội được tổ chức trên một thửa ruộng lớn được gọi là ruộng xuống đồng. Hội thường chia thành hai phần: Phần lễ bao gồm các nghi lễ tạ ơn trời đất, cầu cho sự mưa thuận gió hòa, gia súc, gia cầm phát triển, làng xóm bình yên. Người chủ trì hội thường là ông Thoại đinh (người đứng đầu đình làng) hoặc người phụ trách việc thờ cúng Thần Nông của làng. Mọi gia đình tham dự hội đều mang theo bàn cỗ làm lễ vật cúng thần đất, thần núi, Thần Nông và Thành Hoàng: đó là những bàn cỗ được sắp xếp đẹp mắt, trình bày lộng lẫy. Trên bàn cỗ thường có xôi nếp, thịt lợn, rượu trắng và các loại bánh như khẩu sli, khẩu select, bánh khảo, bánh dày, chè lam...Ở những hội lớn, người chủ trì thường tổ chức lễ hiến tam sinh (trâu, heo, gà hoặc dê). Trên thửa ruộng xuống đồng, các thần được trình diện. Phần hội bắt đầu khi chiêng và trống vang lên, các bô lão và tráng đinh rước Thần Nông và Thành Hoàng từ đình ra ruộng, còn các gia đình khác mang bàn cỗ ra, bày trên bãi hội. Người chủ trì hội thường thực hiện nghi lễ cúng cầu cho các thần rồi tuyên bố phá cỗ. Gia đình nào có bàn cỗ thịnh soạn và mời được nhiều khách đến thưởng thức cỗ nhà mình thì được coi là điều may mắn cho cả năm. Có những bô lão được mời thưởng cỗ, cùng với các thanh niên gái trai tham gia múa hát, chúc phúc cho từng gia đình. Sau khi ăn cỗ, mọi người tiếp tục tham gia các trò chơi dân gian và các hoạt động văn hóa như hát Then, hát Cọi, thi cày ruộng, leo cột, ném còn... Tất cả tạo nên một không khí vui vẻ, hào hứng, chào đón một năm mới với mùa màng bội thu, hiệu quả cao.
Phần hội bắt đầu với các tiết mục văn nghệ đặc sắc như hát Then, hát Cọi...Ngoài ra, có nhiều hoạt động thể thao dân tộc và trò chơi dân gian khác như: Ném còn, leo cột, bịt mắt đánh trống, kéo co, đẩy gậy, thi cày ruộng... Tất cả đều mang lại niềm vui, sự háo hức và chuẩn bị cho một năm mới với vụ mùa mới có năng suất và hiệu quả.
Lễ hội Lồng Tồng của dân tộc Tày, Nùng từ lâu đã trở thành một phần của văn hóa với giá trị nhân văn rất lớn. Với ý nghĩa và nét đặc sắc của riêng mình, những ngày lễ hội luôn thu hút sự quan tâm của du khách từ khắp nơi.
Thuyết minh về lễ hội chọi trâu
'Dù ai buôn đâu bán đâu, Mồng chín tháng tám chọi trâu thì về, Dù ai buôn bán trăm nghề, Mồng chín tháng tám thì về chọi trâu”
Lễ hội chọi trâu có từ lâu và khởi nguồn từ đâu thì không ai biết chính xác, tuy nhiên, có rất nhiều truyền thuyết xoay quanh lễ hội này, mỗi câu chuyện đều đi kèm với một câu chuyện độc đáo khác nhau nhưng tất cả đều nhấn mạnh: Hội chọi trâu là một truyền thống hùng vĩ với tính cách thượng võ, dũng mãnh và lòng can đảm đặc biệt của người Đồ Sơn.
Để có những ngày hội sôi động, người dân Đồ Sơn phải chuẩn bị rất kỹ lưỡng trong khoảng 8 tháng. Theo người dân Đồ Sơn, việc quan trọng nhất là tìm và chăm sóc trâu. Thông thường, sau Tết Nguyên đán, các sở chọi thường gửi người đi khắp nơi để mua trâu, đôi khi phải lặn lội hàng tháng vào các tỉnh như Thanh Hóa, Nghệ An, Nam Định, Thái Bình, thậm chí lên tận Tuyên Quang, Bắc Kạn mới tìm được con trâu ưng ý.
Qua nhiều năm lặn lội tìm mua trâu, người Đồ Sơn nhận ra rằng, các con trâu mua được ở chợ Gồi (Nam Định), Thủy Nguyên (Hải Phòng), Thanh Hà (Hải Dương) thường được đánh giá cao hơn. Vì vậy, sau mỗi Tết Nguyên Đán, người Đồ Sơn lại hối hả đến những nơi này để tìm mua trâu.
Một người chủ trâu có nhiều kinh nghiệm cho biết: “Việc chọn trâu là một quá trình cầu kỳ và tỉ mỉ, trâu phải là những con đực khỏe mạnh, có khả năng chống đỡ được đòn của đối thủ (tức là gan lỳ). Thông thường, những con trâu có da đồng, lông móc, hàm đen, tóc tráp (lông trên đầu cứng, dày để tránh nắng)… được coi là trâu gan. Trâu phải có ức rộng, cổ tròn dài và hơi thu nhỏ về phía đầu, lưng càng dày, càng phẳng càng tốt. Háng trâu phải rộng nhưng thu nhỏ về phía hậu càng nhọn càng tốt. Sừng trâu phải đen như mun, đầu sừng vênh lên như hai cánh cung, giữa hai sừng có túm tóc hình chóp trên đỉnh đầu là khoáy tròn. Mắt trâu phải đen, tròng đỏ. Mặt trâu giống mặt ngựa là trâu chọi hay…”.
Việc chăm sóc, huấn luyện trâu không chỉ khó khăn về việc chọn mua trâu mà còn phức tạp hơn gấp bội. Những người được giao nhiệm vụ chăm sóc và huấn luyện trâu thường là những người có kinh nghiệm. Trâu chọi được nuôi trong chuồng riêng, tách biệt và kín đáo. Đặc biệt, trâu chọi không được nhìn thấy trâu nhà cốt để tránh làm mất bản năng hoang dã của chúng. Các trường huấn luyện thường là những bãi đất rộng, có nhiều người đứng xung quanh gõ chiêng trống và hò hét.
Trong quá trình huấn luyện, cờ đỏ thường được đặt lên đầu trâu, mình trâu để làm cho chúng quen với không khí của ngày hội. Những người huấn luyện còn dạy trâu những chiêu thức đánh và đòn hiểm độc. Sau khi được huấn luyện, trâu được chọn làm trâu chọi sẽ được tôn kính gọi là “ông trâu”. Trâu nào giành giải nhất sẽ được tôn vinh là “cụ trâu”.
Ở Đồ Sơn, mỗi phường đều có những người yêu thích trâu chọi, họ có kinh nghiệm về việc tìm mua trâu, chăm sóc và huấn luyện trâu chọi. Những người này được coi là các nghệ nhân. Trong ngày hội, họ được gọi tôn kính với tư cách là chủ của “ông trâu”.
Lễ khai mạc hội chọi trâu là lễ tế thần Điểm Tước (vị thần thuỷ, cũng là Thành Hoàng của làng Đồ Sơn). Lễ tế thần trong ngày hội chọi trâu là lễ lớn nhất trong năm của người Đồ Sơn. Gần đây, các thủ tục của phần lễ dường như trở nên đơn giản hóa. Tuy nhiên, phần hội chọi trâu vẫn luôn có sức hút đặc biệt thu hút đông đảo du khách từ khắp nơi đến cổ vũ.
Khi tham dự hội, mọi người đều đầy cảm xúc, hồi hộp và mong đợi. Từ hai bên của sới chọi, hai con “ông trâu” được dẫn ra, có người che lấp và múa cờ hai bên. Khi hai con “ông trâu” cách nhau 20m, người dẫn trâu nhanh chóng rút “sẹo” cho chúng rồi khẩn trương thoát ra khỏi sới chọi. Hai con trâu lao vào nhau với tốc độ khủng khiếp, hai đôi sừng va chạm với tiếng kêu đầy cảm xúc. Cứ như vậy, hai con trâu tiếp tục tranh đấu gay gắt giữa tiếng hò reo vang dậy từ hàng ngàn khán giả.
Cuối cùng, hội chọi trâu kết thúc bằng một cuộc rước giải trâu nhất về đình để cúng thần. Cuộc rước này phải có sự tham gia của tất cả mọi người dân Đồ Sơn (bao gồm cả chủ trâu thua cuộc) thể hiện sự đoàn kết, vui vẻ và đồng lòng mừng ngày vui chung. Con trâu dẫn đầu được tặng phần thưởng là một lá cờ màu hồng thêu hai chữ “Thượng Đẳng” bằng kim tuyến, và một bát hương làm từ đá xanh đem theo trong cuộc rước về.
Theo phong tục của địa phương, các con trâu tham gia chọi, dù thắng hay thua, đều phải bị giết để cúng thần. Dân Đồ Sơn sẽ lấy một bát tiết cùng một ít lông của trâu (mao huyết) để cúng thần, sau đó đổ xuống ao để tiễn thần. Du khách đến dự lễ hội có thể mua thịt trâu về ăn để cầu may mắn và chúc phúc.
Với những nét văn hóa truyền thống độc đáo, lễ hội chọi trâu Đồ Sơn đã trở thành một sản phẩm du lịch độc đáo thu hút du khách từ khắp nơi đến với Hải Phòng. Năm 2000, Lễ hội chọi trâu Đồ Sơn đã được Nhà nước công nhận là một trong 15 lễ hội lớn của cả nước.
Tóm tắt về lễ hội
Lễ hội Gióng là một trong những lễ hội cổ truyền, liên quan đến tín ngưỡng dân gian Việt Nam về Thánh Gióng - một trong “Tứ bất tử”. Theo truyền thống, Thánh Gióng đã xuống trần thành cậu bé làng Phù Đổng, đánh bại giặc Ân, mang lại hòa bình cho đất nước. Hội Gióng tại đền Sóc diễn ra vào tháng giêng hàng năm nhằm tưởng nhớ công lao vĩ đại của người.
Hội Gióng tại đền Sóc Sơn có sự tham gia của nhiều làng lân cận và được chuẩn bị kỹ lưỡng từ rất sớm. Khoảng 2-3 tuần trước ngày hội, các thôn làng đã bắt đầu chuẩn bị cho sự kiện này.
Theo thông tin ghi trên mặt bia số 6 của bia 8 mặt, việc phân công rước các vật phẩm lễ hội của các làng được thực hiện theo thứ tự như sau: Thôn Vệ Linh (xã Phù Linh) - rước giò hoa tre; Thôn Dược Thượng (xã Tiên Dược) - rước voi; Thôn Đan Tảo (xã Tân Minh) - rước trầu cau; Thôn Đức Hậu (xã Đức Hòa) - rước ngà voi; Thôn Yên Sào (xã Xuân Giang) - rước cỏ voi; Thôn Yên Tàng (xã Bắc Phú) - rước tướng. Ngày nay, trong lễ hội tại đền Sóc, còn có thêm việc rước ngựa Gióng của thôn Phù Mã (xã Phù Linh) và rước cầu húc của thôn Xuân Dục (xã Tân Minh).
Lễ hội diễn ra từ ngày mồng 6/4 đến 12/4 (âm lịch). Trong những ngày 6-8/4, dân làng tổ chức lễ rước cờ đến đền Mẫu và rước cơm chay lên đền Thượng. Ngày chính của hội (9/4) có lễ rước kiệu võng từ đền Mẫu lên đền Thượng và tổ chức hội trận (mô phỏng trận phá giặc Ân). Ngày mồng 10 làm lễ duyệt quân tạ ơn Gióng. Ngày 11 là lễ rửa khí giới. Ngày 12 là lễ rước cờ báo tin thắng trận với trời đất. Cuối cùng là lễ khao quân, đến đêm có hát chèo mừng thắng trận. Hội Gióng là một sân khấu dân gian quy mô lớn với hàng trăm vai diễn theo kịch bản được thiết kế từ xa xưa để truyền đạt. Sức hấp dẫn của Hội Gióng chủ yếu nằm ở việc giáo dục lòng yêu nước, tôn vinh truyền thống võ công, ý chí mạnh mẽ và khao khát độc lập, tự do của dân tộc.
Với việc bảo tồn và lưu truyền lịch sử, văn hóa qua nhiều thế hệ, Hội Gióng tại đền Phù Đổng và đền Sóc đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại vào năm 2010.
Giới thiệu về lễ hội truyền thống
'Dù ai buôn đâu bán đâu
Mùng chín tháng tám chọi Trâu thì về
Dù ai buôn bán trăm nghề
Mùng chín tháng tám nhớ về chọi Trâu'
Việt Nam là một quốc gia có nền văn hiến hơn bốn ngàn năm, với sự đa dạng và phong phú của văn hóa, phong tục truyền thống, đặc biệt là các lễ hội dân gian. Ở mỗi địa phương, mỗi vùng miền lại tổ chức những lễ hội khác nhau quanh năm, thể hiện nhiều nét đặc sắc của tín ngưỡng, ý nghĩa độc đáo. Một trong những lễ hội đáng chú ý là lễ hội chọi trâu Đồ Sơn.
Lễ hội chọi trâu Đồ Sơn, mặc dù nguồn gốc không rõ ràng, nhưng được biết là tập tục truyền thống của dân vùng biển Đồ Sơn, Hải Phòng. Diễn ra vào ngày 9/8 âm lịch hàng năm, thu hút sự tham gia của hàng ngàn du khách và được xem là một trong những hoạt động văn hóa quan trọng nhất của địa phương. Năm 2013, lễ hội chọi trâu Đồ Sơn đã được công nhận là Di sản Văn hóa phi vật thể cấp Quốc gia, thể hiện những giá trị văn hóa truyền thống đặc biệt.
Về nguồn gốc của lễ hội này trong dân gian có nhiều truyền thuyết, sự tích khác nhau. Trong đó nổi tiếng nhất là thần tích 'Tước Điểm Đại Vương' - vị Thủy Thần cai trị vùng biển Đồ Sơn. Có một người dân đi qua đền thờ của vị thần này thì vô tình chứng kiến cảnh hai con trâu đang húc nhau, rồi chúng bỏ chạy xuống biển. Hai con trâu ấy được coi là vật cưỡi dưới trướng thần thánh này, hàng năm ngày 9/8 âm lịch, người dân nơi đây tổ chức lễ chọi trâu để tế thần, chọn ra những con trâu to khỏe nhất để hiến tế cho thần linh. Cũng có một câu chuyện kể về việc một cô thôn nữ được vua Thủy Tề cưới về, bãi biển chỗ đám rước nàng đi qua hàng năm tôm cá tập trung về nhiều vô kể. Để đảm bảo công bằng, người dân tổ chức lễ chọi trâu, làng nào thắng thì được quyền đánh bắt ở vùng biển ấy một năm. Sở dĩ nơi đây có lễ hội chọi trâu là để làm yên lòng cá Kình dưới biển, hàng năm người dân tổ chức chọi trâu, rồi đem con trâu thắng đi hiến tế để cầu mong cho dân làng đi biển không bị cá kình ăn thịt nữa.
Ý nghĩa chính của lễ hội chọi trâu Đồ Sơn là để ghi nhớ công ơn của các vị thủy thần, cầu mong cho công việc đánh bắt được thuận lợi, mưa thuận gió hòa, tôm cá đầy ghe, thể hiện tinh thần đoàn kết, tương trợ lẫn nhau giữa các làng xã. Bộc lộ được những nét đẹp trong sinh hoạt cộng đồng của người dân miền biển, có sự kết hợp tinh tế giữa văn hóa nông nghiệp vùng đồng bằng với văn hóa cư dân miền biển. Trâu chọi được sử dụng làm lễ vật hiến tế, nghi thức tế lễ các vị thủy thần, tạo thành một phong tục văn hóa rất đặc trưng.
Chuẩn bị cho lễ hội chọi trâu hàng năm cũng khá kỳ công, trâu chọi được lựa chọn từ những vùng đất nổi tiếng với giống trâu đẹp, khỏe, để nuôi dưỡng, chăm sóc và huấn luyện suốt một năm. Con trâu chọi đạt chuẩn là những con trâu đực to khỏe, da hồng, lông móc, ngực nở, tấm lưng dày rộng, háng rộng và thu nhọn về phía sau, sừng phải đen bóng, lông trên đầu cứng, giữa hai sừng có xoáy tròn, mắt đen, trong đỏ,... Công việc này đòi hỏi kinh nghiệm, kiên nhẫn và nhiều thời gian. Chuẩn bị trường đấu không cần nhiều, chỉ cần khu đất rộng khoảng 800m vuông, bên ngoài có hào nước bao quanh, xung quanh bố trí khán đài, chỗ ngồi cho khán giả xem chọi trâu là được.
Lễ hội chọi trâu Đồ Sơn được chia ra làm hai phần là phần lễ và phần hội, nhưng hai phần này được tổ chức xen kẽ với nhau. Phần lễ bắt đầu từ ngày mùng 1 tháng khi cách vị cao niên có vai trò tiến hành làm lễ tế Thủy Thần ở đình tổng, sau đó là lễ rước nước, lọ nước thần sẽ được rước về các đình riêng của mỗi làng. Để chuẩn bị cho hội chọi trâu, các nhà có trâu chọi phải đem trâu ra làm lễ tế Thành Hoàng, sau khi hoàn tất lễ trâu được gọi một cách tôn kính là 'ông Trâu'. Đến ngày 9/8 âm, lễ hội chọi trâu chính thức diễn ra, sau khi xin phép Thành Hoàng cho trâu đi chọi, các 'ông trâu' được rước bằng nghi lễ long trọng với lọng, kiệu, cờ ngũ sắc, trống chiêng, long đỉnh,... Khi trâu được đưa vào đấu trường, lần lượt tiếng trống, tiếng loa đồng loạt nổi lên, cổ vũ tinh thần mạnh mẽ, kết hợp với múa cờ. Kết thúc trận đấu sống mái 'ông trâu' chiến thắng được rước về Đình tổng bằng nghi lễ trang trọng. Ngày 10/8 toàn bộ trâu đã tham gia thi đấu sẽ được đem đi hiến tế và khao cả làng, nhằm chia lộc, mong cho đời sống được khấm khá hơn. Lễ hội kéo dài đến ngày 16/8 âm, kết thúc bằng nghi lễ 'tống thần' và rã đám, chính thức khép lại một kỳ lễ hội quan trọng trong năm.
Lễ hội chọi trâu Đồ Sơn là một trong những lễ hội đặc sắc, mang ý nghĩa văn hóa to lớn, thể hiện được vẻ đẹp của phong tục truyền thống của người dân miền biển trong công việc sản xuất, cũng như mối quan hệ hài hòa giữa con người với thiên nhiên. Tuy nhiên, việc đảm bảo an toàn trong chọi trâu cũng cần được chú ý và có những biện pháp nghiêm ngặt để tránh xảy ra những tai nạn đáng tiếc làm mất đi ý nghĩa tốt đẹp của ngày hội này.
Thuyết minh về lễ hội tốt nhất
Ngày xuân gia đình sum họp, ngày xuân chim muông khoe sắc, cây cỏ đâm chồi nảy lộc. Ngày xuân cũng là thời điểm diễn ra rất nhiều lễ hội đặc sắc. Từ xa xưa, những lễ hội đã trở thành một phần không thể thiếu của ngày xuân tại đất nước Việt Nam. Nhắc đến lễ hội đặc trưng ngày xuân, không thể không kể đến lễ hội khai ấn đền Trần.
Lễ hội khai ấn đền Trần là một trong những lễ hội đầu xuân nổi tiếng nhất Việt Nam, nhằm tôn vinh công đức của các vị vua Trần. Sự ra đời của lễ hội này liên quan chặt chẽ đến lịch sử của đền Trần.
Đền Trần tọa lạc trên đường Trần Thừa, thành phố Nam Định, nơi thờ 14 vị vua cùng các quan lại phò tá nhà Trần. Đền Trần được xây dựng trên nền Thái Miếu cũ của nhà Trần, đã bị quân Minh phá hủy vào thế kỉ XV. Dòng họ Trần lập nghiệp tại vùng đất Tức Mạc, nơi phát triển đế vương. Năm 1239, vua Trần xây dựng cung điện. Năm 1262, vua Trần Thánh Tông mở yến tiệc đổi Tức Mạc thành phủ Thiên Trường, xây dựng thành đô, cung điện lộng lẫy. Phủ Thiên Trường trở thành kinh đô thứ hai sau Thăng Long. Sau thời kỳ suy vong của nhà Trần, đền đài cung điện trở thành phế tích. Sau khi đánh tan quân xâm lược nhà Minh, nhân dân nơi đây vẫn nhớ công lao to lớn của triều vương Trần. Nhân dân dựng đền thờ và mở lễ hội để ghi lại dấu ấn không thể phai mờ, bày tỏ lòng biết ơn.
Theo tư liệu ghi lại, ban đầu đền Trần được gọi là nhà thờ Đại tôn. Đến năm 1695, đền mới được xây dựng bằng gỗ lim. Năm 1705, nó chính thức được đổi tên thành Trần Miếu (miếu nhà Trần). Năm 1852, đền Thiên Trường được sửa lại lớn, khi đó phát hiện tấm bia đá có dòng chữ “Hưng Đạo thân vương Cố Trạch” (Nhà của Hưng Đạo vương ở Cố Trạch). Từ đó, dân xây dựng đền Cố Trạch để thờ Hưng Đạo Vương, cha mẹ của ông và vợ của ông là Thiên Thành công chúa.
Đền Trần bao gồm 3 công trình kiến trúc: đền Thiên Trường (đền Thượng), đền Cố Trạch (đền Hạ) và đền Trùng Hoa. Trước khi vào đền, ta phải đi qua hệ thống cổng ngũ môn. Sau cổng là một hồ nước hình chữ nhật. Ở chính giữa phía sau hồ là khu vực của đền Thiên Trường. Phía Tây của đền Thiên Trường là đền Trùng Hoa, còn phía Đông là đền Cố Trạch. Cả 3 công trình đều có kiến trúc tương tự và quy mô như nhau. Mỗi công trình bao gồm tòa Tiền Đường 5 gian, tòa Trung Đường 5 gian và tòa Chính Tổng 3 gian.
Thời kỳ chống lại quân Nguyên Mông, nhà Trần thực hiện chính sách “vườn không nhà trống”, nên rút quân về toàn bộ Thiên Trường. Qua bao biến cố lịch sử, ấn cũ của triều Trần đã mất. Đến năm 1822, vua Minh Mạng đến thăm Thiên Trường và lại khắc ấn. Ấn cũ có chữ 'Trần triều chi bảo', ấn mới ghi là 'Trần triều điển cố' để nhắc lại truyền thống cũ, dưới đó có thêm câu 'Tích phúc vô cương'. Trước khi lễ hội đền Trần bắt đầu, phải tiến hành khai ấn.
Lễ khai ấn đầu tiên được tổ chức vào thời kỳ nhà Trần, khoảng thế kỷ XIII, theo sử sách ghi lại vào khoảng năm 1239. Đây là nghi lễ tế tổ của dòng họ nhà Trần. Vua Trần tổ chức tiệc chiêu đãi và phong chức cho những quan có công với triều đình tại Phủ Thiên Trường. Khi đối mặt với sự xâm lược của quân Mông, lễ hội bị gián đoạn và không được tổ chức. Cho đến năm 1269, Trần Thánh Tông mới mở lại lễ hội.
Từ đó, lễ khai ấn Đền Trần được tổ chức thường niên vào ngày rằm tháng Giêng từ 11 giờ đêm ngày 14 đến 1 giờ sáng ngày 15. Đây cũng là dấu hiệu báo hiệu kết thúc những ngày tết truyền thống của dân tộc để bắt đầu lại công việc sản xuất.
Khi tham gia lễ hội, các làng phải tổ chức rước kiệu về đền Thiên Trường để cúng tế các vua Trần. Các cụ ông, cụ bà mặc áo dài và khăn xếp, cùng cộng đồng làng tề tụu tại đền Cố Trạch để thực hiện lễ tế và sau đó tham dự lễ khai ấn. Hòm ấn được đặt trang trọng trên bàn thờ, bên trong có 2 con dấu bằng gỗ. Trên mặt của con dấu nhỏ có khắc hai chữ “Trần Miếu”, còn trên mặt của con dấu lớn có dòng chữ “Trần triều tự điển” cùng với dòng chữ nhỏ “tích phúc vô cương”.
Vào khoảng giữa đêm, từ khoảng 23 giờ đến 1 giờ, người chủ tế tiến hành lễ ở đền Cố Trạch, sau đó mang ấn lên kiệu để di chuyển sang đền Thiên Trường, thực hiện lễ dâng hương cúng tế và kêu gọi trời đất tại bàn thờ Trung Thiên. Sau đó, ấn được mang vào nội cung, đặt tại ban công để thực hiện lễ khai ấn.
Người phụ trách lễ tế đặt tờ “điệp” - một loại giấy truyền thống của Việt Nam lên phía trước của người chủ tế, chiêng trống vang lên. Người chủ tế với tư cách trang trọng ký dấu mực đỏ trên tờ “điệp”, bên cạnh dấu son trên tờ giấy phải ghi rõ ngày, tháng, năm, viết sao cho đến chữ cuối cùng là chữ “sinh”. Những người nhận được tờ “điệp” đã được ký dấu đưa về treo tại đền, tại ngôi nhà hoặc từ đường, với hy vọng trừ ma và bảo vệ khỏi mọi điều xấu, mang lại may mắn trong công việc và cuộc sống trong năm, đảm bảo mọi điều tốt lành.
Vào sáng ngày 15 tháng Giêng, lễ rước nước được tổ chức. Trước khi khởi hành, người chủ tế tham gia lễ tế để lấy một nén hương từ bát hương tổ và 14 nén hương từ các bát hương Hoàng đế, sau đó cắm vào bát nhang công đồng trên kiệu 8 chân. Đoàn rước mặc trang phục lễ nghi, cùng với cờ hoa vàng rực, nghênh kiệu ra khỏi cổng đền và thực hiện lễ cúng tế trời đất. Tiếp theo, đoàn tiếp tục đi đến bến sông Hồng tại bến Hữu Bị, cách đền khoảng 3 km.
Khi kiệu dừng lại, Ban tổ chức lễ đưa bình chứa nước xuống thuyền, thuyền được trang trí với cờ hoa vàng, tiếng trống vang lên khi chèo ra giữa sông. Người chủ tế múc nước từ sông vào bình, khi bình đầy nước thì mang lên kiệu và theo đường dẫn cũ để rước nước về đền. Nước từ bình được mang ra để tiến hành lễ cúng tế. Sau khi lễ kết thúc, nước này được phân phát cho con cháu họ Trần uống, để ghi nhớ nguồn gốc tổ tiên.
Miêu tả một lễ hội truyền thống
Dù ai đi ngược về phía nào
Đều nhớ ngày Giỗ Tổ mùng 10 tháng 3
Cả miền đất nước truyền đi câu hát
Đất và nước vẫn gắn kết hàng ngàn năm qua.
Trong suốt nhiều thế hệ, trong tinh thần sống của người Việt, đã luôn có sự tôn vinh lễ hội Đền Hùng và Giỗ Tổ Hùng Vương, diễn ra vào ngày 10 tháng 3 âm lịch. Mỗi năm, lễ hội Giỗ Tổ vẫn được tổ chức theo truyền thống văn hóa dân tộc. Cứ mỗi 5 năm (tức là hàng năm chia hết cho 5), lễ hội được tổ chức theo nghi lễ quốc gia, những năm còn lại do tỉnh Phú Thọ đảm nhiệm. Việc tổ chức lễ hội Giỗ Tổ rất cẩn trọng, gồm hai phần: lễ và hội.
Lễ hội Rước Kiệu vẫn được duy trì trang nghiêm tại các đền chùa trên núi Hùng. Lễ cúng tế của các đoàn đại biểu từ Đảng, Chính phủ, và các địa phương trên khắp cả nước diễn ra trọng thể tại đền Thượng. Từ chiều ngày 9, các làng được phép tổ chức rước kiệu và chuẩn bị lễ vật tại nhà bảo tàng dưới chân núi. Sáng sớm ngày 10, các đại biểu tập trung tại Việt Trì, điều hành đoàn rước kiệu đến chân núi Hùng. Các đoàn đại biểu đi sau kiệu lễ, lên đến đền theo nhạc phù hợp và vũ điệu truyền thống. Trước “Điện Kính Thiên”, đoàn dừng lại để thực hiện lễ cúng tế. Đồng bào thắp hương tại các đền chùa trên núi, cầu xin sự bảo hộ từ tổ tiên.
Lễ Dâng Hương diễn ra sôi động và hoành tráng tại các đền chùa và dưới chân núi Hùng. Lễ hội ngày nay phát triển với nhiều hoạt động văn hóa mới. Cảnh quan văn hóa truyền thống và hiện đại đan xen trong lễ hội. Khu vực hội có nhiều cửa hàng bán đồ lưu niệm, văn hóa phẩm, các dịch vụ ăn uống và văn thể giải trí được tổ chức một cách có trật tự và quy củ. Các trò chơi dân gian như đu quay, đấu vật, chọi gà, bắn nỏ, rước kiệu, kéo lửa nấu cơm thi, cờ tướng,... được bảo tồn và lựa chọn kỹ lưỡng. Sân khấu của các đoàn nghệ thuật chuyên nghiệp cũng là nơi để trình diễn và trao đổi văn hóa giữa các vùng. Trong đó, các nghệ sĩ dân gian mang đến âm thanh của trống đồng trên đỉnh núi Hùng, kêu gọi mặt trời cho mưa, nắng thuận hòa, mang lại mùa màng bội thu, hạnh phúc cho mọi người. Các bài hát Xoan - Ghẹo với giai điệu du dương, lời ca tinh tế đã làm cho lễ hội Đền Hùng trở nên đặc sắc, thấm đẫm văn hóa vùng Trung du Đất Tổ. Điểm đặc biệt quan trọng trong trung tâm lễ hội là nhà bảo tàng Hùng Vương, nơi lưu giữ hàng ngàn cổ vật của thời các Vua Hùng.
Thời kỳ hiện đại ngày nay đang đóng góp vào việc làm đẹp và tôn vinh những giá trị tinh thần cao quý của lễ hội Giỗ Tổ Hùng Vương. Hằng năm, sự tâm linh của cuộc trẩy hội về Đền Hùng đã trở thành một phần không thể thiếu trong văn hóa tín ngưỡng của người Việt Nam, được thực hiện không phân biệt tuổi tác, tôn giáo, và địa vị xã hội. Tất cả mọi người, bất kể sống ở đâu, đều có quyền bình đẳng trong việc tưởng nhớ tổ tiên, thăm viếng đền và tham gia lễ hội Giỗ Tổ Hùng Vương.
Miêu tả về một lễ hội truyền thống
Bắc Ninh - nơi sinh ra những giai điệu quan họ, nổi tiếng với những bài hát sâu lắng, say đắm. Khi mùa xuân về, không chỉ mang lại sự sống mới mẻ cho Bắc Ninh mà còn là dịp để tổ chức một trong những lễ hội nổi tiếng nhất - Hội Lim. Hội Lim là một trong những lễ hội đặc trưng của mùa xuân trên đất nước Việt Nam.
Kinh Bắc từ lâu đã được biết đến là vùng đất của những câu chuyện cổ tích, những truyền thuyết văn hóa. Có lẽ chính vì thế, khi nhắc đến lịch sử và nguồn gốc của hội Lim, có một giả thuyết rằng: Hội Lim bắt nguồn từ các hội chùa, hội hát, liên quan đến tiếng hát của Trương Chi và vết tích của sông Tiêu Tương ở các làng vùng Lim, dựa trên câu chuyện Trương Chi - Mỵ Nương và đặc điểm văn hóa của hội Lim là lễ hội sinh hoạt văn hóa và ca hát Quan họ.
Hội Lim trở thành hội tổng vào thế kỷ XVIII. Ông Nguyễn Đình Diễn từ thôn Đình Cả, Nội Duệ, xứ Kinh Bắc đã đóng góp cho tổng Nội Duệ trùng tu đình chùa, mở rộng hội hè, bảo tồn phong tục truyền thống. Ông xây dựng lăng mộ của mình, lăng Hồng Vân trên núi Lim. Sau khi ông qua đời, người dân tổng Nội Duệ đã tôn thờ ông làm hậu thần, hậu Phật. Họ dựng bia kỷ niệm tại lăng Hồng Vân để ghi nhận công lao của ông và việc thờ phụng hậu. Tuy nhiên, qua nhiều thế kỷ, hội Lim đã trải qua nhiều thay đổi và phát triển văn hóa.
Hội Lim diễn ra từ ngày 12 đến 14 tháng Giêng hàng năm, tại huyện Tiên Du. Lễ hội bao gồm hai phần: lễ và hội. Việc chuẩn bị cho lễ hội diễn ra tỉ mỉ từ ngày 9 và 10. Đồi Lim là trung tâm của không gian lễ hội, với chùa Lim - nơi thờ ông Hiếu Trung Hầu, người khởi xướng tục hát quan họ, và diễn ra tại ba địa phương xung quanh là: xã Nội Duệ, xã Liên Bão và thị trấn Lim.
Trong ngày lễ chính (ngày 13 tháng Giêng) với các nghi thức rước, tế lễ các thành hoàng, các danh thần tại các địa điểm như đền Cổ Lũng, lăng Hồng Vân, lăng quận công Đỗ Nguyên Thụy, chùa Hồng Ân. Lễ rước khởi đầu với sự tham gia đông đảo của người dân trong bộ trang phục truyền thống, lễ lạ và đẹp mắt kéo dài đến gần một cây số. Trong phần lễ, có tục hát thờ hậu. Toàn bộ quan viên, hương lão, nam đinh của tổng Nội Duệ phải tham dự tế lễ hậu thần tại lăng Hồng Vân. Trong lúc tế, có nghi thức hát quan họ thờ thần.
Phần hội cũng rất sôi động với nhiều trò chơi dân gian như đấu võ, đấu vật, đấu cờ, thi dệt cửi, nấu cơm. Hội thi hát diễn ra gần trưa, tổ chức trên du thuyền. Trên hồ nước, thuyền rồng trôi xa bến trong tiếng hát quan họ sâu lắng. Phía trước thuyền là các liền chị duyên dáng trong tà áo tứ thân, nón quai thao, và ở phía đầu và cuối thuyền là các liền anh mặc áo dài, đội khăn xếp. Vào tối ngày 12 âm lịch, các làng quan họ thi hát với nhau, mang đến những giai điệu quan họ truyền thống của Bắc Ninh.
Hội Lim là biểu tượng của nền văn hoá - nghệ thuật truyền thống của xứ Bắc và dân ca Quan họ đã trở thành di sản văn hoá của dân tộc Việt. Hội Lim thể hiện vẻ đẹp văn hoá lâu đời của Bắc Ninh và của dân tộc Việt Nam. Những trang phục truyền thống như tà áo tứ thân, nón quai thao, dải yếm lụa, khăn đóng, áo cặp the hoa gấm… đều phản ánh sức sống mạnh mẽ của mùa xuân. Thái độ của người dân ở đây cũng đủ để khiến khách tham quan cảm thấy bồi hồi, lưu luyến.
Qua nhiều thăng trầm lịch sử, Hội Lim không chỉ là một lễ hội mùa xuân đặc trưng mà còn là niềm tự hào của đất nước và con người Việt Nam. Một khi đã đặt chân đến đây, khó lòng quên đi những giai điệu ngọt ngào, da diết:
“Làng quan họ quê của tôi
Tháng giêng, thời khắc hội hợp
Những đêm trăng soi sáng, dòng sông ôm lấy làng xanh
Làng, những làng quan họ xanh biếc...'
Thuyết minh về lễ hội Dâu ở Bắc Ninh
Lễ hội là biểu tượng của nền văn hóa của mỗi dân tộc. Hầu như mọi làng, xã đều có lễ hội tổ chức vào đầu năm. Mọi người dân ở Thuận Thành, Bắc Ninh thường hát:
Bất kể ai đi đâu, làm gì
Chỉ cần thấy tháp chùa Dâu là về
Dù ai làm nghề gì
Nhớ ngày mồng tám, về hội Dâu.
Câu ca dao như một lời nhắc nhở cho những người theo đạo Phật nhớ về lễ hội Dâu tổ chức vào đầu năm hàng năm.
Hội Dâu được tổ chức vào ngày mùng 8 tháng 4 âm lịch hàng năm. Chùa Dâu là một trong những ngôi chùa cổ nhất tại Việt Nam, được xây dựng từ những năm đầu của thế kỷ XV. Mặc dù đã trải qua bao thăng trầm, nhưng chùa Dâu vẫn giữ được những đặc điểm nguyên thủy từ thời xưa đến nay. Hằng năm, lễ hội tại chùa Dâu thu hút rất đông tín đồ đến tham dự, đặc biệt là trong dịp lễ hội. Trước ngày lễ, người dân hân hoan sửa sang lại chùa chiền. Ngay từ chiều ngày mùng 7, lễ rước các bà Dâu, bà Đậu, bà Đàn, bà Keo diễn ra. Theo truyền thuyết, bốn bà này được chạm từ một cây dâu, trong đó chị cả là bà Dâu, nên chùa Dâu được xây lớn nhất. Đặc biệt vào ngày mùng 7, người dân đến cúng, quét dọn và làm lễ rửa chùa. Ngày lễ chính diễn ra rất sôi động, náo nhiệt. Mọi người đến đây với lòng thành kính, mong đức Phật ban cho sự an lành, ấm no. Chùa có nhiều gian điện, đặc biệt có pho tượng Kim Đồng - Ngọc Nữ với chuẩn mực nghệ thuật cao. Hành lang hai bên có nhiều pho tượng với nhiều tư thế khác nhau. Mọi người đến đây không chỉ để thắp hương, cầu an mà còn để vui chơi, đón không khí của ngày xuân. Có nhiều trò chơi được tổ chức như đu quay, hát quan họ đối đáp, giao duyên giữa các liền anh, liền chị dưới thuyền rồng. Khắp sân chùa là những hàng bán đồ cúng, những nén hương trầm, hoặc những đồ chơi dân gian cho trẻ em như sáo, trống... Tất cả tạo ra một không khí cộng đồng ấm cúng. Mọi người quên đi sự bận rộn, bon chen để nhớ tới đức Phật cùng sự thánh thiện, bình an trong tâm hồn. Khoảng 7 giờ sáng ngày 8/4, tiếng chiêng, tiếng trống và tiếng cúng tế dâng sớ cầu mong bình an, lạy tạ các vị thần thánh của đội tế lễ tứ sắc chùa lập ra. Đặc biệt, tại lễ hội Dâu, việc thờ Tứ Pháp như Pháp Vân (bà Dâu), Pháp Vũ, Pháp Điện, Pháp Lôi được tổ chức trang trọng.
Sau khi lễ hỏi kết thúc, đoàn rước từ chùa Tổ bắt đầu quay về, cùng hàng đoàn người kéo nhau đi theo hộ tống. Người đầu tiên cầm bình nước, người thứ hai dâng hương, sau đó là đoàn kiệu được những người trai tráng lồng khiêng. Họ mặc những trang phục như quân tốt đỏ thời xưa, theo sau là các bà mặc áo nâu đội sớ. Người cầm nước vừa đi vừa vẩy nước vào người xung quanh, tin rằng sẽ được may mắn, được Phật ban phước. Khi lễ hội kết thúc, mọi người thắp hương ở ngoài sân thờ và hẹn gặp lại năm sau. Thường mỗi năm, sau lễ hội, trời đều mưa, và người dân tin rằng đó là lễ tẩy chùa, một điều huyền bí.
Lễ hội thể hiện sự tổ chức cao, kết hợp giữa làng xã và ý thức cộng đồng, thu hút khách thập phương bằng những nét nghệ thuật, văn hóa đặc sắc, phong phú. Đối với Bắc Ninh, nơi được xem là nơi gốc của Phật giáo, đây là dịp thể hiện sự tài hoa, tinh tế, lịch lãm trong văn hóa ứng xử, giao tiếp. Là một người con của Bắc Ninh, em cảm thấy tự hào về truyền thống của quê hương mình và sẽ luôn gìn giữ, bảo vệ những nét văn hóa đó, đặc biệt là những lễ hội truyền thống mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc vào những ngày đầu xuân.
Thuyết minh về lễ hội đua voi ở Tây Nguyên
Tây Nguyên, một vùng đất hùng vĩ với những cao nguyên đất đỏ xếp tầng, những rừng xanh bạt ngàn, những mảnh đất màu mỡ, khí hậu ôn hòa quanh năm. Đây là nơi quy tụ nhiều dân tộc anh em sinh sống, những con người thật thà, chất phác mang bản sắc của núi rừng cao nguyên. Tây Nguyên là cái nôi của những sử thi huyền thoại, với truyền thống văn hóa độc đáo, đậm chất núi rừng. Đua voi là một trong những lễ hội đặc sắc nhất của đồng bào dân tộc thiểu số Tây Nguyên.
Lễ hội diễn ra vào tháng ba âm lịch, mỗi hai năm tổ chức một lần. Mùa xuân được chọn là thời điểm tổ chức lễ hội đua voi, thể hiện mong muốn một khởi đầu mới trong năm mới, mang lại hạnh phúc, ấm áp cho người dân ở các làng xóm, tạo ra một không khí phấn khích, sôi động, làm say đắm mọi người đã từng đặt chân đến đây. Voi là biểu tượng của núi rừng Tây Nguyên, đã từ lâu trở thành người bạn thân thiết của con người. Chúng giúp người dân vận chuyển hàng hóa và thậm chí tham gia vào các lễ hội, các buổi biểu diễn. Voi là loài động vật hiền lành, thông minh và được người dân yêu quý, tôn trọng như một biểu tượng mạnh mẽ của vùng đất cao nguyên nắng gió.
Tây Nguyên là một địa điểm lý tưởng để tổ chức các lễ hội vui tươi. Lễ hội Đua Voi tại Đắk Lắk tôn vinh truyền thống văn hóa và kỹ năng cưỡi voi của người dân Tây Nguyên. Hội Đua Voi kết hợp với các sự kiện khác như lễ cúng, lễ hội văn hóa cồng chiêng... Mọi người tin rằng một năm mới sẽ mang lại nhiều niềm vui, mùa màng bội thu và hạnh phúc cho mỗi gia đình.
Hội Đua Voi được tổ chức hoành tráng trong một ngày duy nhất. Chuẩn bị đã diễn ra từ nhiều tháng trước, các con voi tham dự được nuôi dưỡng tốt và được đưa tới các bãi cỏ xanh để nghỉ ngơi. Ngày hội, các con voi tập trung tại một bãi đất rộng lớn để thi đấu. Các phần thi bao gồm: chạy, bơi và đá bóng. Khán giả cổ vũ nồng nhiệt, cùng thưởng thức các món ăn đặc sản của Tây Nguyên.
Hội Đua Voi bắt đầu với tiếng còi báo hiệu, những chú voi dũng mãnh tiến vào vạch xuất phát dưới sự chỉ huy của những người dẫn dắt. Sau tiếng còi báo hiệu thứ hai, cuộc đua bắt đầu. Khán giả reo hò, cổ vũ, làm cho không khí trở nên náo nhiệt hơn bao giờ hết. Các đội thi đấu cố gắng giữ cho voi của mình chạy đúng hướng và đúng địa điểm, trong sự cổ vũ của mọi người.
Hội Đua Voi kết thúc với buổi tiệc ăn mừng. Tiếng cồng chiêng rộn ràng, mọi người nhảy múa quanh đống lửa sáng. Lễ hội đã mang lại sự gần gũi, hạnh phúc và niềm vui cho mọi người.
Lễ hội Đua Voi từ lâu đã trở thành biểu tượng văn hóa độc đáo của các dân tộc trên vùng đất Tây Nguyên, nơi nắng và gió tỏa sáng, mang trong mình tinh thần anh hùng và mạnh mẽ của người dân. Bản Đôn là điểm đến lý tưởng cho du khách khám phá vẻ đẹp thiên nhiên của núi rừng, trải nghiệm văn hóa độc đáo và thưởng thức ẩm thực đa dạng. Lễ hội Đua Voi đã trở thành một sự kiện du lịch hấp dẫn, thu hút du khách từ khắp nơi.
Thuyết minh về Hội Lim
“Làng quan họ quê tôi
Tháng giêng múa hát hội
Những đêm trăng hát gọi
Con sông Cầu làng bao xanh
Ngang lưng làng quan họ xanh xanh”
Chỉ với những câu ca đơn giản đó, ta đã cảm nhận được sức hút của Hội Lim - một lễ hội truyền thống được người dân mong đợi. Những bài ca quan họ đã trở thành một phần không thể thiếu trong văn hóa của người dân Kinh Bắc và cả của người Việt Nam.
Kinh Bắc là một vùng đất đặc biệt, lưu giữ nhiều dấu ấn văn hóa và lịch sử của dân tộc. Hội Lim là một minh chứng rõ ràng cho sự giàu có và độc đáo của văn hóa này.
Hội Lim là một trong những lễ hội truyền thống được tổ chức hàng năm vào ngày 13 tháng giêng âm lịch tại huyện Tiên Du, Kinh Bắc. Đây là biểu tượng văn hóa quan trọng của vùng này, vẫn giữ được giá trị và thu hút du khách mỗi dịp đầu năm mới.
Theo truyền thuyết, Hội Lim xuất phát từ hội chùa liên quan đến tiếng hát của chàng Trương ở làng quê Lim. Câu chuyện về tình yêu của Trương Chi và Mỵ Nương cũng là một phần của nguồn gốc lễ hội này.
Hội Lim có lịch sử lâu đời và phát triển từ hội hàng tổng. Dù tạm ngưng trong thời kỳ chiến tranh, nhưng sau đổi mới, lễ hội đã trở lại và tiếp tục làm phong phú đời sống tinh thần của người dân.
Ngoài việc kỷ niệm ông Hiếu Trung Hầu - người sáng lập ra quan họ, Hội Lim còn là dịp để cộng đồng hiện hữu ở 3 xã chính Nội Duệ, Liên Bảo và thị trấn Lim tụ họp, thể hiện lòng kính trọng và tình yêu quê hương qua nhiều hoạt động như thi nấu cơm, hát quan họ, đấu vật...
Lễ hội bắt đầu bằng màn rước kiệu, sau đó là Hội Quan họ, nơi các thanh niên nam nữ hát đối nhau trên thuyền thúng giữa ao. Đây cũng là cơ hội để các bạn trẻ tìm kiếm tình yêu trong không gian lãng mạn của lễ hội.
Hội Lim đã làm cho bao du khách xa xứ phải say mê. Bằng những bài hát ngọt ngào, trữ tình và những cử chỉ dịu dàng của mọi người... Nó không chỉ thể hiện vẻ đẹp của văn hóa truyền thống mà còn tôn vinh truyền thống yêu nước, tôn kính nguồn gốc quý báu của dân tộc.
Thuyết minh về lễ hội Đền Gióng
Những lễ hội sôi động, náo nhiệt là một phần không thể thiếu trong tinh thần sống của người Việt Nam. Họ tổ chức các lễ hội để bày tỏ lòng biết ơn đối với các vị thần và anh hùng dân tộc. Lễ hội Gióng cũng là một dịp mang ý nghĩa thiêng liêng để kỷ niệm về vị thánh Gióng hay còn gọi là Phù Đổng Thiên Vương.
Hội Gióng là một lễ hội truyền thống tôn vinh và ca ngợi chiến công của anh hùng Thánh Gióng, một trong tứ đại anh hùng của dân gian Việt Nam. Lễ hội tái hiện sinh động các trận đấu của Thánh Gióng và nhân dân Văn Lang trong cuộc chiến chống lại giặc Ân, từ đó nâng cao nhận thức của cộng đồng về chiến tranh bộ lạc thời cổ, đồng thời giáo dục lòng yêu nước, truyền thống võ hào, ý chí kiên cường và khao khát độc lập, tự do của dân tộc.
Hội Gióng được tổ chức tại nhiều địa điểm trong vùng đồng bằng Bắc Bộ, nhưng nổi bật nhất là Hội Gióng tại đền Phù Đổng và đền Sóc (Hà Nội). Hội Gióng tại đền Sóc (xã Phù Linh, huyện Sóc Sơn, Hà Nội) diễn ra từ ngày 6 đến 8 tháng Giêng âm lịch hàng năm. Theo truyền thuyết, sau khi đánh bại giặc Ân, Phù Linh là nơi cuối cùng Thánh Gióng dừng chân trước khi lên trời.
Để kỷ niệm công lao của Đức Thánh, tại đây, nhân dân đã xây dựng Khu di tích đền Sóc bao gồm 6 công trình: đền Hạ (hay còn gọi là đền Trình), chùa Đại Bi, đền Mẫu, đền Thượng (hay còn gọi là đền Sóc), tượng đài Thánh Gióng và nhà bia. Trong số đó, đền Thượng là nơi thờ Thánh Gióng và tổ chức lễ hội với đầy đủ các nghi lễ truyền thống như: lễ Mộc Dục; lễ rước; lễ dâng hương; lễ hóa voi và ngựa…
Để sẵn sàng cho ngày hội chính, vào đêm mùng 5, lễ Mộc Dục (tắm tượng) được tiến hành để mời Đức Thánh về dự hội. Đến ngày mùng 6 khai mạc hội, nhân dân 8 thôn làng thuộc 6 xã xung quanh Khu di tích đền Sóc là Tân Minh, Tiên Dược, Phù Linh, Đức Hòa, Xuân Giang và Bắc Phú dâng các lễ vật đã được chuẩn bị chu đáo lên Đức Thánh, mong ngài phù hộ cho dân làng có một cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
Trong số đó, nghi lễ dâng hoa tre lên đền Thượng của thôn Vệ Linh (xã Phù Linh) được tổ chức trước tiên. Hoa tre được làm từ những thanh tre dài khoảng 50cm, đường kính khoảng 1cm, đầu tre tuốt bông và nhuộm màu tượng trưng cho roi ngựa của Thánh Gióng. Hoa tre sau khi dâng lên đền Thượng sẽ được rước xuống đền Hạ rồi phát cho người dự hội để cầu may.
Sáng ngày mùng 7, ngày chính hội (ngày Thánh Gióng theo truyền thuyết), hoạt cảnh chém tướng giặc được biểu diễn để tái hiện cảnh Thánh Gióng chém 3 tướng giặc Ân cuối cùng tại chân núi Vệ Linh trước khi bay lên trời. Đến chiều ngày mùng 8, lễ hóa mô hình voi và ngựa giấy với kích thước lớn được tiến hành để kết thúc lễ hội bởi voi chiến và ngựa sắt là hai linh vật liên quan chặt chẽ đến chiến thắng của Thánh Gióng và ngựa sắt là hai linh vật liên quan chặt chẽ đến việc Thánh Gióng chống giặc Ân, bảo vệ non sông bờ cõi.
Tất cả du khách tham dự lễ hội đều mong được cùng tham gia khiêng voi và ngựa ra bờ sông để hóa bởi theo tín ngưỡng, bất cứ ai được chạm vào đồ tế của Đức Thánh đều sẽ gặp may mắn trong cuộc sống. Trong thời gian diễn ra lễ hội còn có nhiều trò chơi dân gian được tổ chức như chọi gà, cờ tướng, hát ca trù, hát chèo…
Hội Gióng tại đền Phù Đổng được ví như một sân khấu dân gian rộng lớn với hàng trăm vai diễn thể hiện theo một kịch bản đã được chuẩn hóa. Trong đó, mỗi vai diễn đều chứa đựng những ý tưởng sâu sắc như: “ông Hiệu“ là các tướng lĩnh của Thánh Gióng; “Phù Giá” là đội quân chính quy của Thánh Gióng; các “Cô Tướng“ tượng trưng cho 28 đạo quân xâm lược của nhà Ân; “Ông Hổ“ là đội quân tổng hợp; “Làng áo đỏ“ là đội quân trinh sát nhỏ tuổi; “Làng áo đen“ là đội dân binh…
Bên cạnh đó, lễ hội còn có các màn rước như: “Rước khám đường“ là đi trinh sát giặc; “Rước nước“ là để tôi luyện khí giới trước khi xuất quân; “Rước Đống Đàm“ là đàm phán, kêu gọi hòa bình; “Rước trận Soi Bia“ là mô phỏng cách điệu những trận đánh ác liệt…
Giá trị nổi bật toàn cầu của Hội Gióng thể hiện ở chỗ nó chính là một hiện tượng văn hóa được bảo tồn, lưu truyền khá liên tục và toàn vẹn qua nhiều thế hệ. Lễ hội còn có vai trò liên kết cộng đồng và chứa đựng nhiều ý tưởng sáng tạo, thể hiện khát vọng đất nước được thái bình, nhân dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
Về mặt mỹ thuật, Hội Gióng mang nhiều nét đẹp và giá trị của lễ hội như các đám rước, các hiệu cờ, hiệu trống, hiệu chiêng, diễn xướng dân gian, múa hát ải lao, múa hổ… Ngày 16/11/2010, tại thành phố Nairobi (thủ đô của Kenya), trong kỳ họp thứ 5 của Ủy ban liên Chính phủ theo Công ước năm 2003 của UNESCO, Hội Gióng tại đền Phù Đổng và đền Sóc đã chính thức được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. UNESCO đã ghi nhận một cách ngắn gọn và đầy đủ về Hội Gióng, đó là 'Một bảo tàng văn hóa của Việt Nam, lưu giữ nhiều lớp phù sa văn hóa, tín ngưỡng'.
................
Tải file tài liệu để đọc thêm về miêu tả của lễ hội truyền thống