Cảm nhận Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử rất ấn tượng, được viết bằng văn phong rõ ràng, dễ hiểu, giúp nâng cao kiến thức môn Ngữ văn
Cảm nhận bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ có 13 bài văn mẫu siêu hay, kèm theo gợi ý cách viết chi tiết để học sinh có sự lựa chọn phù hợp
Dàn ý cảm nhận bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ
Mở bài cảm nhận bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ
- Giới thiệu về tác giả Hàn Mặc Tử và bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”
- Cảm nhận tổng quan về bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”
Thân bài của bài thơ
Bức tranh thiên nhiên ở thôn Vĩ
* Câu hỏi: Tại sao anh không trở về thôn Vĩ?
- Câu hỏi có thể được hiểu theo hai cách:
- Người thôn Vĩ hỏi tác giả
- Tác giả tự hỏi về bản thân
Dù hiểu theo cách nào, câu hỏi này thể hiện nỗi nhớ và mong muốn trở về thôn Vĩ.
* Câu hỏi 2: Nhìn nắng hàng cau mới lên
- Hình ảnh của “nắng hàng cau”: ánh nắng trải rộng khắp làng quê.
- Ý nghĩa của “nhìn nắng” và “nắng mới” là thể hiện một không gian tràn ngập ánh sáng và sức sống.
* Câu 3:
- Khu vườn không chỉ đầy ánh nắng mà còn màu xanh tươi.
- Màu xanh như ngọc: một màu xanh mát mẻ, tươi mới và dễ chịu.
* Câu 4: Lá trúc che khuất bức chữ điền
- Trong không gian tự nhiên của thôn Vĩ, hình ảnh con người xuất hiện mờ nhạt:
- Khuôn mặt chữ điền của người thôn Vĩ hiện lên sau tán lá trúc. Nét mặt đó gợi lên vẻ hiền lành và hòa hợp với thiên nhiên, có phải là người con gái mà Hàn Mặc Tử lén thương?
Bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ sáng sủa, tươi tắn và hài hòa với con người.
2. Bức tranh sông nước dưới ánh trăng
* Câu 5 và câu 6:
- Hình ảnh tự nhiên thể hiện sự chia lìa: gió, mây vốn ôm trọn, nay chia lìa thành hai ngả.
- Dòng sông như nhuốm màu buồn thảm, đầy nỗi đau lòng.
- Hoa bắp lay nhẹ nhàng như cuộc sống lưu lạc đầy khó khăn của con người.
* Câu 11: Tại đây, sương khói mờ tạo nên khung cảnh huyền ảo, không thực sự.
Hình ảnh thiên nhiên đêm trăng mang nét buồn và mơ màng, không gian hư không.
Sự tương phản giữa hai bức tranh thiên nhiên ở làng quê thôn Vĩ và dưới ánh trăng.
3. Tâm trạng của nhà thơ
Khung cảnh chuyển động từ thực tế đến huyền ảo, từ vườn thôn Vĩ đến sông trăng, rồi chìm vào tâm trí mơ màng của sương khói.
Câu hỏi “Ai biết tình ai có sâu đậm?” thể hiện sự trữ tình, cả hỏi người lẫn hỏi chính mình, vừa gần gũi vừa xa cách, vừa hoài nghi vừa tức giận và trách móc.
Đại từ “ai” nhấn mạnh nỗi cô đơn, hư không của một tâm hồn khao khát được yêu thương, được sống.
Làm mờ hình tượng của người và vật trữ tình, tạo ra cảm giác ám ảnh về nỗi đau trong cõi vô tận, tâm trạng uất ức và tuyệt vọng của nhà thơ.
III. Kết bài
Cảm nhận về bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”
Sơ đồ tư duy của bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ
Cảm nhận bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ - Mẫu số 1
Hàn Mặc Tử đã thể hiện tâm trạng đau đớn, quằn quại của mình trong thơ, tìm kiếm sự đồng điệu với tâm hồn. Bài thơ Đây Thôn Vĩ Dạ là một tác phẩm kiệt xuất của ông, khiến người đọc cảm thấy như mình đang chịu đựng nỗi đau và sự chia lìa, đồng thời cũng thấy được tình yêu đời và khát khao sống mãnh liệt nhưng cũng đầy khó khăn và bế tắc của Hàn Mặc Tử.
Bắt đầu bằng một câu hỏi, bài thơ đã mở ra một bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ tươi đẹp, đầy sức sống:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Câu hỏi ở đầu thể hiện tâm trạng cô đơn và khao khát gắn kết. Bốn câu thơ tiếp theo mở ra không gian thôn Vĩ tươi đẹp. Nắng hàng cau mới lên tạo nên vẻ đẹp thanh khiết, tươi mới, trong trẻo. Câu thơ này là một biểu hiện của khát vọng về vẻ đẹp tinh khiết của Hàn Mặc Tử. Xanh như ngọc gợi lên vẻ quý phái và sự sống tràn đầy. Mướt biểu hiện vẻ đẹp rực rỡ và đầy sức sống của mảnh vườn. Câu thơ cuối hình ảnh lá trúc che ngang mặt chữ điền, gợi sự hài hòa giữa con người và thiên nhiên, đồng thời tạo ra vẻ đẹp hoàn hảo.
Tuy nhiên, điều bất thường là trong khổ thơ thứ hai, ngược lại với sự tươi mới và gắn kết, thơ mang màu sắc ảm đạm:
“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Hình ảnh gió mây trong cuộc sống luôn liên kết, song hành nhau, và sự chia cắt trong thơ Hàn Mặc Tử gợi lên nhiều niềm ám ảnh và sự gợi mở. Cảnh thơ không chỉ là thị giác, mà còn là cảm giác. Sự chia lìa hiện hữu trong những dòng nước buồn và hoa bắp lay. Điều này thể hiện sự tương phản giữa vẻ đẹp và nỗi đau của nhà thơ, khiến hồn thơ đầy khao khát kiếm tìm sự đồng cảm.
“Mơ khách đường xa khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”
Cả “em”, cả thôn Vĩ tươi đẹp đã vượt xa tầm với, trở thành những ảo ảnh trong trí tưởng tượng của nhà thơ. Sự đối lập giữa thế giới tươi đẹp và thế giới tối tăm, cô đơn thể hiện sự mâu thuẫn và nỗi khao khát của nhà thơ.
Thơ của Hàn Mặc Tử thể hiện niềm đau, sự cô đơn và nỗi khát khao sự đồng điệu. Bức tranh Đây thôn Vĩ Dạ đẹp đẽ nhưng cũng đầy ám ảnh, chứa đựng nhiều nỗi niềm của Tử.
Cảm nhận Đây thôn Vĩ Dạ - Mẫu 2
Hàn Mặc Tử, một tượng đài của phong trào thơ Mới, sống cuộc đời đau thương với căn bệnh phong. Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ, xuất hiện trong tập Thơ Điên (1938), thể hiện sự phức tạp của ông và thế giới tâm hồn đầy nghệ sĩ.
Bài thơ viết về thôn Vĩ Dạ ven sông Hương, thành phố Huế. Đây là nơi ông ghi lại ký ức thời học trò và tình yêu đơn phương, lấy cảm hứng từ bức bưu ảnh của Hoàng Thị Kim Cúc.
Đây thôn Vĩ Dạ bắt đầu với câu hỏi đầy da diết:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”
Câu thơ như lời hỏi của Vĩ Dạ đối với thi nhân, nhưng thực ra chỉ là câu tự hỏi của nhà thơ. Nỗi nhớ và khao khát quay về thôn Vĩ đã thôi thúc nhà thơ tưởng tượng về những người và nơi ấy. “Về chơi” tức là quay về nơi mà nhà thơ yêu thương, nơi gắn bó với tâm hồn.
Quay về Vĩ Dạ, không cần gì hơn cao quý, nhà thơ chỉ muốn nhìn những khung cảnh quen thuộc:
“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Bức tranh thôn Vĩ được chuyển từ xa đến gần, từ cao đến thấp, mỗi góc độ mang những nét thơ mộng riêng. Trên hành trình tưởng tượng, nhìn đầu tiên của thi nhân đọng lại trên ánh nắng, nắng của hàng cau giữa bầu trời. “Nắng hàng cau” là nắng đặc trưng của Vĩ Dạ, nơi trồng rất nhiều cau. Hàng cau vươn cao đón tia nắng sớm, là hình ảnh đặc biệt của Vĩ Dạ.
Gần thêm là khu vườn của người khác hiện ra:
“Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”
Không chỉ là một khu vườn cụ thể, đó là một khu vườn tưởng tượng của một ai đó, với vẻ đẹp sống động và lấp lánh. Từ “mướt” miêu tả hình ảnh vườn cây trái tươi tốt, mơn mởn, đọng sương đêm. “Xanh như ngọc” gợi lên vẻ đẹp tươi mới của vườn được ánh sáng mặt trời chiếu rọi, những chiếc lá như ngọc bích khổng lồ dưới ánh nắng vàng rực rỡ.
Say mê ngắm phong cảnh Vĩ Dạ, càng say hơn nữa là hình ảnh của “mặt chữ điền” bị che bởi lá trúc:
“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Đây là một biểu hiện tinh tế của Hàn Mặc Tử, khi hòa quyện thiên nhiên và con người trong khung cảnh đầy ấm áp, sinh động. Hình ảnh khuôn mặt bị che bởi lá trúc gợi nhớ về nét dịu dàng, kín đáo của người dân Huế. Hàn Mặc Tử có lẽ đã lấy ý tưởng từ câu ca dao quen thuộc của người Huế:
Da em trắng, áo đen mặc ngoài
Lòng em có đất có trời
Có câu nhân nghĩa có lời thuỷ chung”
Bằng một nét vẽ độc đáo, Hàn Mặc Tử lồng ghép tâm hồn của Vĩ Dạ vào cảnh đẹp và con người ấm áp, dịu dàng.
Bức tranh phong cảnh Vĩ Dạ đẹp và thơ mộng, kết hợp với tâm hồn gắn bó với quê hương và khao khát giao cảm với cuộc sống. Khổ thơ thể hiện nỗ lực sáng tạo mới của Hàn Mặc Tử trong việc đưa vào thơ những hình ảnh đầy xúc cảm, tạo ra vẻ đẹp hiện đại cho thơ.
Trong khổ thơ thứ hai, cảnh thôn Vĩ Dạ không còn tĩnh lặng mà đầy sự sống động và biến đổi.
“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Bức tranh phong cảnh mở ra với trời mây, sông nước, hùng vĩ và thơ mộng, tạo ra âm điệu yên bình của xứ Huế. Hàn Mặc Tử cũng mô tả dòng Hương giang dưới ánh trăng khuya, sáng rực với con thuyền trăng neo đậu trên bến sông trong cảnh đêm thăm thẳm.
Tuy nhiên, sau vẻ đẹp ấy là tâm trạng kín đáo của thi nhân qua từng câu thơ tả cảnh ngụ tình. Hàn Mặc Tử nhân hóa mây và gió thành hai con người riêng biệt, nhưng đang trong cảnh chia ly, gió một đường, mây một nẻo. Hình ảnh này gợi lên nỗi buồn của thi nhân khi mây gió cũng mang nặng nỗi sầu muộn.
Dòng sông Hương lững lờ trôi cũng đựng nỗi buồn của thi nhân, với sự “buồn thiu”. Dòng sông được nhân hoá để thể hiện nỗi cô đơn của thi nhân, khi nhìn quanh chỉ thấy hoa bắp lay động và sự vắng lặng, quạnh quẽ đìu hiu khiến cho nỗi cô đơn càng thêm thấm thía.
Mặc dù bị ngăn trở bởi bệnh tật, nhà thơ vẫn khao khát được yêu thương giải tỏa nỗi đau, hiện rõ trong bóng “thuyền ai” mang sự sống trên bến sông:
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Bóng “thuyền ai” vẫn hiện hình mờ nhạt, nhà thơ vội vàng gọi hỏi, cuống quýt, bồi hồi, nhưng niềm hy vọng giảm bớt nhanh chóng. Vì thế, nhà thơ mong “chở trăng về kịp tối nay”, khiến lòng anh đang cô đơn nhất, chỉ hy vọng vầng trăng sẽ giải tỏa nỗi cô đơn. Trăng là nguồn cảm hứng vô tận, mặc cho bệnh tật, nhà thơ vẫn khao khát chạm đến. Đọc thơ Hàn Mặc Tử, người ta không chỉ cảm phục hồn thơ mà còn nể nang nghị lực sống của con người đóng góp cho đời.
Bốn câu thơ là bức tranh sông nước mây trời Vĩ Dạ với nỗi buồn, cô đơn của thi nhân và khát khao giao cảm với thế gian. Đoạn thơ vẫn kế thừa truyền thống nhưng thể hiện nỗ lực cách tân của Hàn Mặc Tử với ngôn từ đời thường.
Khổ cuối cùng thể hiện niềm khao khát trở về Vĩ Dạ:
“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”
Câu thơ đầu tiên không tuân theo ngữ pháp nhưng thể hiện ý của Hàn Mặc Tử muốn kết hợp chủ thể và khách để, để người mơ và “khách đường xa” là một. Mơ trở về Vĩ Dạ, nhưng nhà thơ tự biến thành người lữ hành từ xa. Nhịp thơ 1/3/3 và điệp ngữ “khách đường xa” tạo âm sắc náo nức, thể hiện tình yêu sâu sắc của Hàn Mặc Tử đối với Vĩ Dạ!
Mơ về Vĩ Dạ để ngâm mình trong tình cảnh và tình người ở Vĩ Dạ:
“Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh”
Vĩ Dạ hiện lên trong sương khói, với hình ảnh thiếu nữ dáng dấp trong tà áo dài trắng duyên dáng. Đó có thể là hình ảnh của các nữ sinh Đồng Khánh đã in sâu vào lòng thi nhân. Hàn Mặc Tử vẽ nét chấm phá, thể hiện tâm hồn của Vĩ Dạ.
Trở về Vĩ Dạ để ngâm mình trong tình cảm và cảnh đẹp, nhưng chỉ thấy “áo em trắng quá”, trắng đến mức “nhìn không ra” vì sương khói đã làm hình ảnh trở nên mờ nhạt, không rõ ràng. Vậy nên:
“Ai biết tình ai có đậm đà?”
Làn sương khói mơ ảo không chỉ làm khó nhận ra nhân dạng mà còn làm mờ cả hình bóng. Hiện thực khắc nghiệt đã khiến Hàn Mặc Tử thêm một lần nữa rơi vào tình trạng thất vọng.
Bài thơ bắt đầu bằng câu hỏi “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” nồng nàn tình người, nhưng kết thúc lại là sự hoài nghi về tình người:
“Ai biết tình ai có đậm đà?”
Câu thơ chứa đựng nỗi đau thương cùng hoài nghi, không biết tình người ở Vĩ Dạ còn “đậm đà” như trước không? Điệu “ai” lặp lại trong câu thơ vừa tạo nên vẻ ca dao của thơ Hàn Mặc Tử vừa thể hiện tâm trạng của người yêu đơn phương.
Bài thơ kết thúc nhưng để lại ấn tượng về Vĩ Dạ qua hình ảnh thiên nhiên và con người, đặc biệt là với sự kết hợp giữa những hình ảnh thiên nhiên và tình cảm người, từ cảnh sáng sớm trong vườn, cảnh sông nước, đến bóng dáng áo dài trắng, tất cả đều phản ánh linh hồn và tình yêu của nhà thơ. Đằng sau đó là tâm trạng cô đơn, nhớ về Vĩ Dạ và mong muốn giao cảm với cuộc sống. Đây là kết tinh của tình yêu cuộc sống và đam mê với cái đẹp không tận của Hàn Mặc Tử.
Cảm nhận về bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ - Mẫu 3
Hàn Mặc Tử - một nhà thơ sáng tạo và mạnh mẽ, không chỉ sáng tác những bài thơ thanh khiết mà còn có những tác phẩm kì dị, bí ẩn. Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là minh chứng rõ nhất cho phong cách sáng tạo của ông, được sáng tác trong những thời điểm ông đối mặt với bệnh tật nghiêm trọng.
Trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ, ta cảm nhận được vẻ đẹp tự nhiên tươi mới, cảm nhận được tình cảm ấm áp nhưng cũng chứa đựng nỗi buồn, niềm nhớ nhung của nhà thơ. Cảnh thiên nhiên và tình cảm con người hoà quyện tạo nên không gian thực và mộng.
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên
Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.”
Bắt đầu bằng câu hỏi dễ thương “Sao anh không về chơi thôn Vĩ” với lời trách móc nhẹ nhàng, lời hỏi cũng chứa đựng mong mỏi và hy vọng gặp người ở xứ Huế. Để cùng trải nghiệm vẻ đẹp của thôn Vĩ - một vùng quê tươi đẹp, ấm áp và đậm chất quê hương. Câu hỏi này vừa là một lời mời gọi, vừa là một lời trách móc đầy yêu thương. Tiếp theo là những câu thơ mở ra không gian thôn Vĩ với màu xanh tươi, trong lành, mát mẻ. Đầu tiên là hình ảnh “nắng hàng cau”, với động từ “nhìn” ở đầu câu làm nổi bật sức hút của ánh nắng bình minh. Đó là một màu nắng trong trẻo, tinh khôi của những tia nắng đầu tiên chiếu lên hàng cây cau xanh mướt trong vườn. Ánh nắng long lanh, kết hợp với những giọt sương đêm còn đọng trên lá cây tạo nên vẻ đẹp kiều diễm của hàng cây trong vườn. Câu thơ này mô tả một sắc nắng rất đặc biệt và độc đáo. Nắng tự nhiên làm sống lại vườn cây, cỏ cây trở nên tươi tắn, đầy sức sống.
“Vườn ai mướt xanh như ngọc”
Trong bức tranh của buổi bình minh, màu vàng nắng hòa quyện với sắc xanh ngọc của cây cỏ trong vườn nhà. Câu thơ này thể hiện sự ngạc nhiên và kinh ngạc của nhà thơ trước vẻ đẹp sống động của thiên nhiên, nơi có sự sống phong phú. Vườn xanh mướt, tươi tắn, và rực rỡ dưới ánh nắng, tạo nên một cảnh vật rất đẹp mắt và sống động. Sự tươi tắn của khu vườn có thể là sự ban tặng từ thiên nhiên hoặc do sự chăm sóc tận tâm của con người.
Trong cảnh thiên nhiên tươi đẹp, người con gái yêu kiều, kín đáo hiện lên như một hình bóng sau những nhành lá trúc mảnh mai:
“Lá trúc che ngang mặt người con gái.”
“Mặt người con gái” là biểu tượng để chỉ người con gái xứ Huế, với vẻ đẹp dịu dàng và kín đáo. Trong bức tranh thiên nhiên tươi đẹp, hình ảnh con người càng trở nên nổi bật, tôn lên vẻ hài hòa của cảnh vật.
Kế đến sau cảnh vườn Vĩ Dạ tươi tắn là hình ảnh sông Hương dịu dàng trong hoàng hôn, khi ánh đêm buông xuống. Cảnh sông mang theo nỗi niềm bâng khuâng, nhớ nhung và hy vọng xa xôi của thi nhân. Trong tâm trạng thấp thoáng, tác giả bao trùm bởi lo âu và nỗi buồn sâu lắng:
“Gió theo lối gió, mây theo đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp rung lắc
Thuyền nào đậu bến sông kia dưới ánh trăng
Có chở trăng về kịp cho tối nay không?”
Thơ xưa thường miêu tả gió, mây để gợi lên cảm giác buồn thương, nhớ nhung. Hàn Mặc Tử cũng không khác gì, nhưng sự lang thang, trôi nổi của gió mây giống như cuộc đời nhà thơ, đầy không chắc chắn, không biết nơi nào là nhà. Gió, mây thường đi đôi, nhưng giờ đây lại bước theo lối riêng, đường riêng, khiến cho sự chia lìa, xa cách càng hiện hữu. Có lẽ lúc này, nhà thơ đã cảm nhận trước một cuộc đời ngắn ngủi của mình, giống như gió, mây, chia lìa với trần gian để quay về cõi bình yên vĩnh cửu. Ta không còn thấy vẻ đẹp tươi mới của khu vườn như trước, mà chỉ còn lại nỗi u uất, buồn thương của một tâm hồn đầy nỗi chia ly, tiễn biệt. Cảnh tràn ngập nỗi buồn, sông nước “buồn thiu” trôi chảy, hoa bắp lay trong gió cũng chán nản, mệt mỏi. Tình cảm u uất hiện hữu trong từng góc cảnh, đúng như câu thơ đã nói:
“Cảnh buồn làm lòng người đau đớn
Người buồn cảnh có lúc vui chăng bao giờ”.
Hai câu thơ cuối đậm chất khát khao, mong muốn có ai đó cùng chia sẻ, tâm sự trong những thời khắc buồn phiền:
“Thuyền nào đậu bến sông trăng ấy
Có mang trăng về kịp tối hôm nay không?”
Đêm trăng sáng soi sáng sông Hương, ánh trăng vàng rơi xuống làm cho dòng sông thêm mộng mơ, đẹp tự nhiên. Mặc dù cảnh đẹp, nhưng lòng người lại nặng nề với nỗi đau nhân sinh. Câu hỏi nhẹ nhàng “Có mang trăng về kịp tối hôm nay không?” đong đầy khao khát, hy vọng của tác giả về một tình yêu trọn vẹn trước khi kết thúc cuộc đời. Nhưng liệu người ấy có kịp trở về không? Đối với ông, cuộc đời trôi đi một cách nhanh chóng, nhưng nỗi nhớ vẫn kéo dài. Tiếng thơ nhẹ nhàng nhưng chứa đựng nhiều tâm sự sâu sắc, vừa buồn vừa khao khát mong chờ.
Thực tại không như mong đợi, tác giả tìm đến trong giấc mơ, một giấc mơ không hoàn hảo nhưng cũng đủ để an ủi lòng người:
“Mơ về khách từ xa, khách từ xa
Áo em trắng quá trắng khó nhận ra;
Ở đây sương khói làm nhòe bóng dáng
Ai biết tình yêu có đậm đà như thế nào?”
Một trái tim luôn đong đầy yêu thương nên trong giấc mơ cũng chứa đựng nỗi nhớ. Từ “khách từ xa” kết hợp với “mơ” và hình ảnh “áo em trắng quá” mô tả một ảo ảnh đẹp đẽ về người con gái mà tác giả yêu quý. Màu áo trắng trong sáng, thuần khiết như chính tâm hồn của người con gái xứ Huế.
“Ở đây sương mù mờ bóng người
Người biết tình cảm đậm đà như thế nào?”
Là một giấc mơ, dù có đẹp đến đâu cũng chỉ là giấc mơ, không thể thành hiện thực. Đối diện với thực tại phụ phàng, sương mù khiến bóng hình người con gái như tan biến hoặc khoảng cách khiến tình cảm mờ nhạt thêm. Câu hỏi nhẹ nhàng “Người biết tình cảm của người đối diện có đậm đà như thế nào?” cuối bài thơ nổi bật nỗi phân vân, mâu thuẫn, và lo lắng của tác giả về một mối tình đơn phương, không biết liệu tình cảm mà họ dành cho mình có thực sự sâu sắc không?
“Đây thôn Vĩ Dạ” là một bức tranh thiên nhiên tuyệt vời tại xứ Huế, và là biểu tượng của tình yêu. Nhờ tâm hồn đầy tình yêu và tài năng văn chương, Hàn Mặc Tử đã tạo ra một tác phẩm vĩ đại vượt thời gian.
Cảm nhận về bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ - Mẫu 4
Hàn Mặc Tử là một nhà thơ nổi tiếng trong trường phái thơ điên, và bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” là một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của ông, thể hiện phong cách sáng tạo độc đáo.
Trong khổ thơ đầu tiên, Hàn Mặc Tử đã vẽ lên bức tranh của thôn Vĩ trong những ngày tươi đẹp:
“Tại sao anh không về thăm thôn Vĩ?
Nhìn những tia nắng trên hàng cây mới vươn mình
Vườn nào mà mướt quá, xanh như ngọc
Lá trúc che kín như một bức tường chữ điền”
Câu hỏi nhẹ nhàng mở đầu bài thơ “Tại sao anh không về thăm thôn Vĩ?” khơi dậy trong đọc giả hai cách hiểu. Đầu tiên, đó có thể là câu hỏi của người thôn Vĩ dành cho tác giả. Như đã kể lại, nguồn cảm hứng cho bài thơ của Hàn Mặc Tử đến từ lời thăm hỏi của một cô gái thôn Vĩ khi nhà thơ đang mắc bệnh nặng. Cô ấy đã gửi một tấm thiệp với bức tranh thôn Vĩ kèm theo lời nhắn hỏi tại sao anh không về thăm lại thôn Vĩ. Tuy nhiên, đó cũng là câu hỏi mà Hàn Mặc Tử tự hỏi về chính mình. Cả hai cách hiểu đều khiến người đọc cảm nhận được nỗi nhớ về quê hương cũng như mong muốn quay về thôn Vĩ của nhà thơ.
Bức tranh thiên nhiên được vẽ qua những hình ảnh giản dị. Đó là khu vườn thôn Vĩ với “những tia nắng trên hàng cây mới vươn mình”. Sự chuyển động từ “nhìn” - “nắng mới” thể hiện một không gian đầy sức sống. Ánh sáng của buổi sáng mang lại một luồng sinh khí mới. Khu vườn không chỉ có màu vàng của ánh nắng mà còn có màu xanh của cây cỏ “Vườn nào mà mướt quá, xanh như ngọc”. “Nào” là một từ tập trung, nhà thơ không biết khu vườn đó thuộc về ai. Từ “mướt” mang lại cảm giác về một màu xanh của sự sống, rực rỡ khắp khu vườn. Trong không gian thiên nhiên đó, con người hiện ra: “Lá trúc che kín như một bức tường chữ điền”. Hình ảnh này lại gợi cho đọc giả hai cách hiểu. Khuôn mặt của người thôn Vĩ nhỏ nhắn mờ nhạt sau những tán trúc. Khuôn mặt này hiện ra vẻ hiền lành, hạnh phúc, có lẽ đó là khuôn mặt của người con gái mà Hàn Mặc Tử thầm mến. Hoặc có thể đó là khung cửa sổ hình chữ điền nhô ra sau những tán trúc. Như vậy, đọc giả có thể cảm nhận được tình cảm sâu sắc của nhà thơ dành cho thôn Vĩ.
Tiếp theo, Hàn Mặc Tử đã vẽ nên bức tranh sông nước đêm trăng, một hình ảnh hoàn toàn đối lập với thiên nhiên thôn Vĩ Dạ:
“Theo gió mây, đường mây,
Nước buồn thiu, hoa bắp lay”
Trong tự nhiên, gió và mây thường song hành với nhau. Nhưng trong thơ Hàn Mặc Tử, chúng lại tượng trưng cho sự chia lìa, xa cách: “gió theo gió, mây đường mây”. Điều này khiến ta tự hỏi đó là sự chia ly của tự nhiên hay của con người? Thậm chí cả dòng nước - một sự vật vô tri, vô giác - giờ đây cũng được nhà thơ nhân hóa, có cảm xúc. Dòng nước “buồn thiu” - một cách mô tả nhân hóa - khiến con sông như một người, có tâm trạng. Cuối cùng, hình ảnh “hoa bắp lay” - bông hoa bé nhỏ trôi trên dòng nước - cũng giống như cuộc đời lưu lạc trôi nổi của con người.
Tranh vẽ thiên nhiên trong đêm trăng:
“Thuyền nào đậu bến sông trăng ấy
Có chở trăng về kịp tối nay?”
“Trăng” đã trở thành một biểu tượng quen thuộc trong thơ ca. Nếu trong thơ của Lí Bạch, ánh trăng gợi nhớ về quê hương:
“Bên giường, trăng sáng tỏa,
Ngỡ mặt đất phủ sương mờ.
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng ngời,
Cúi đầu nhớ về cố hương”
Trong thơ của Bác Hồ, ánh trăng không chỉ thể hiện tình yêu với thiên nhiên mà còn biểu lộ tâm hồn thư thái, lạc quan dù trong hoàn cảnh ngục tù.
“Nơi tù không rượu cũng không hoa,
Đêm nay cảnh đẹp khó lòng quên.
Người đứng nhìn trăng qua cửa sổ,
Trăng soi khe cửa, nhớ nhà thơ”
Trong bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”, nhà thơ tạo hình ảnh “sông trăng” để mô tả cảnh ánh trăng vàng phản chiếu xuống dòng nước, tạo nên một không gian lãng mạn. Kết thúc bài thơ là câu hỏi “Có chở trăng về kịp tối nay?” thể hiện tâm trạng lo âu của nhà thơ, sợ rằng không kịp trở về trước khi tối tới.
Cuối cùng, nhà thơ đã khắc họa tâm trạng trữ tình của nhân vật:
Mơ người xa lạ, người xa lạ Áo em trắng tinh khôi ngờ chẳng thấu Dưới bóng sương mờ nhòa hình thù Lòng ai yêu thương đậm đà như mây giăng?”
Giữa không gian mơ hồ giữa hiện thực và ảo ảnh của cảnh vật và con người. Khung cảnh chuyển động từ thực tại đến hư không, từ làng quê Vĩ Dạ đến dòng sông trăng, rồi đắm chìm vào tâm hồn mơ mịt của bóng sương. Tiếng gọi “người xa lạ” như một lời thiết tha, Hàn Mặc Tử nhớ về quê hương để rồi phải chịu đựng trong lòng sự cô đơn. Câu hỏi lặng thầm “Lòng ai yêu thương đậm đà như mây giăng?” là dấu hỏi của người nhân vật trữ tình, vừa muốn hỏi người khác vừa muốn hỏi lòng mình, nửa gần gũi nửa xa xôi, nửa tin tưởng nửa nghi ngờ, nửa nhớ thương nửa đau buồn, nửa tự trách nửa than thở. Khi sử dụng từ “ai” làm cho sự cô đơn, hốt hoảng ngày càng sâu thêm, giữa mênh mông không gian vô tận, tâm hồn chật chội, tràn đầy nỗi cô đơn và u sầu.
Như vậy, bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” đã để lại trong lòng người đọc một cảm xúc về vẻ đẹp tự nhiên của miền quê, là trái tim của một con người say mê yêu đời, yêu người.
Cảm nhận Đây thôn Vĩ Dạ - Mẫu 5
Hàn Mặc Tử là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào thơ mới. Ông là một nhà thơ tài năng nhưng lại mang theo bệnh tật và nghèo khó, điều này khiến cho thơ của ông luôn nằm trong hai thế giới, một thế giới mới mẻ và trong trẻo, một thế giới ma quái và đáng sợ. Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những tác phẩm nổi tiếng trong tập Thơ Điên của ông, được sáng tác vào năm 1938. Bức tranh về thôn quê Vĩ Dạ không chỉ yên bình và tươi đẹp mà còn là tình yêu tha thiết và khao khát được giao cảm với cuộc đời của Hàn Mặc Tử.
Đây là xóm Vĩ Dạ, nơi mà Hàn Mặc Tử từng nhớ nhất. Dưới ánh nắng rực rỡ, những kỷ niệm tuổi thơ như rạng rỡ trở lại, khiến lòng người như lạc vào một thế giới thuần khiết.
Trong tâm trạng đặc biệt, Hàn Mặc Tử mở đầu bài thơ bằng một câu hỏi cảm động:
“Tại sao anh không trở lại thôn Vĩ?”
Tiếng câu thơ như mời gọi hồn thi nhân về với quê hương, như đang nói lên nỗi nhớ thương mãnh liệt. Nhưng đó chỉ là sự tự hỏi, là sự mong muốn của nhà thơ trở lại với kí ức ngọt ngào ở Vĩ Dạ. Hàn Mặc Tử không chỉ đơn giản muốn quay lại, mà muốn sống lại:
“Ánh nắng trải dài, mới bừng tỏ
Vườn xanh mướt như ngọc sáng hồng
Lá trúc gợi lên kí ức trường xưa”
Nhà thơ đắm chìm trong vẻ đẹp của vườn Vĩ Dạ, trong những khoảnh khắc yên bình và dịu dàng của lòng người. Bức tranh Vĩ Dạ được tường thuật chi tiết từ xa đến gần, từ trên cao xuống dưới, mỗi góc nhìn đều mang vẻ đẹp mơ mộng và tràn đầy sức sống. Góc nhìn đầu tiên của nhà thơ ghi nhận là hình ảnh của ánh nắng bình minh trên những hàng cây cau.
“Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên”
Từ “nắng” gợi lên không gian rực rỡ của màu vàng, sự tinh tế và dịu dàng của buổi sớm. Ánh nắng trên hàng cây cau là biểu tượng của Vĩ Dạ với những khu vườn xanh mướt. Cây cau vươn mình, đón ánh sáng mặt trời, tạo ra bức tranh tự nhiên tuyệt vời của Vĩ Dạ. Hàn Mặc Tử đã làm sống lại một buổi sáng tươi mới và mát mẻ của thành phố Huế trong tâm trạng thơ mộng.
Trong ánh nắng bình minh ấy là hình ảnh của khu vườn xanh mát:
“Vườn xanh mướt như ngọc sáng hồng”
Đây là khu vườn của “người nào” chỉ bởi nó được tạo dựng trong tưởng tượng của nhà thơ. Cùng với từ “mướt” và so sánh “xanh như ngọc” đã tạo ra cảm giác sống động, rực rỡ của khu vườn Vĩ Dạ. Từ “mướt” trong câu thơ vô cùng tinh tế, nó đã khơi gợi hình ảnh một vườn cây mỡ màng, tươi tốt, mơn mởn. Những cành cây, nhánh lá còn mang những giọt sương đêm lóng lánh. Có lẽ vì thế mà Hàn Mặc Tử đã so sánh “xanh như ngọc”. Khu vườn đầy sương đêm lại được mặt trời chiếu rọi lung linh như một viên ngọc lớn. Lời thơ không chỉ tạo ra hình ảnh của khu vườn mà còn chứa đựng những lời khen ngợi, trầm trồ của nhà thơ về cảnh Vĩ Dạ.
Say mê với cảnh vườn, nhưng càng say mê hơn là hình ảnh của:
“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Câu thơ không phải là một mô tả thực tế mà là một nét vẽ trừu tượng của thi nhân. Khuôn mặt người thoáng qua lớp lá trúc, hòa quyện với tự nhiên, khiến khu vườn Vĩ Dạ trở nên ấm áp, đầy sức sống.
Nhà thơ để khuôn mặt người thoáng qua lớp lá trúc che ngang tạo ra một hình ảnh thẹn thùng, dịu dàng, kín đáo của con người Huế. “Mặt chữ điền” là hình ảnh mặt mộc, được thi nhân lấy cảm hứng từ câu ca dao quen thuộc của người dân Huế:
“Khuôn mặt em vuông tựa chữ điền
Da em trắng như tuyết, áo đen khoác ngoài
Trong em có cả đất và trời
Có lòng nhân nghĩa, có lời thủy chung”
Câu thơ mang đậm hơi thở của dân gian và đặc biệt, nó còn phản ánh vẻ đẹp tinh thần của người con Huế.
Bốn dòng thơ đầu tiên như một bức tranh phong cảnh thơ mộng, ấm áp của vườn tược Huế, tràn đầy sức sống. Phía sau bức tranh đó là tâm hồn sâu lắng với quê hương Vĩ Dạ của nhà thơ, cùng với mong muốn sâu sắc giao cảm với cuộc sống. Sâu trong từng câu thơ là nỗi tiếc nuối khi vẻ đẹp ấy chỉ còn trong kí ức và nhà thơ đang xa lìa cuộc sống. Đoạn thơ cũng phản ánh tinh thần đổi mới của Hàn Mặc Tử khi ông đem vào những hình ảnh và từ ngữ mộc mạc, giản dị, gần gũi trong thơ Việt.
Khung cảnh ở Vĩ Dạ không chỉ đơn giản là tĩnh lặng mà còn mang sự sống động, từ vườn tược Vĩ Dạ đến những con sông, những đám mây trời:
“Gió theo lối gió, mây theo dòng mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng kia
Có chở trăng về kịp mặt trời lên?”
Khung cảnh mây trời và dòng nước rộng lớn mở ra, mang đến vẻ đẹp thơ mộng, tự do đặc trưng của xứ Huế. Nhịp thơ nhẹ nhàng tạo nên sự yên bình, êm đềm. Dòng Hương giang lặng lẽ dưới ánh trăng trong đêm tĩnh lặng.
Kết hợp vào cảnh đó là tâm trạng tương tư của nhà thơ được thể hiện một cách tinh tế qua nghệ thuật mô tả cảnh ngụ tình.
“Gió theo lối gió, mây theo dòng mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”
Nhà thơ đã biến đổi gió và mây thành những hình tượng con người. Tuy nhiên, hai hình tượng đó lại không cùng hướng đi như thường lệ mà đang trong tình cảnh xa lìa “gió theo lối gió, mây theo dòng mây”. Điều này có thể là ý tượng cho mối tình không được đáp lại của nhà thơ, trong sự xa cách và ngăn cách do bệnh tật và cuộc sống đã tạo ra, khiến ông cảm thấy cô đơn và lạc lõng. Nỗi buồn, nỗi đau ấy cũng lan toả đến cảnh vật khiến mây và gió mang trong mình một nỗi buồn sâu thẳm.
Nỗi buồn ấy cũng lan tràn vào dòng Hương giang yên bình. Nhìn dòng nước chảy êm đềm, nhà thơ cảm nhận được cả “dòng nước” cũng “buồn thiu”. Việc nhân hoá dòng sông cũng giúp Hàn Mặc Tử chia sẻ tâm trạng cá nhân của mình, một tâm hồn cô đơn giữa bao la trời đất, với chỉ có nước, có hoa bắp lay động, rủ rỉnh, nghẹn ngào đến lòng.
Cảm giác cô đơn và nỗi buồn lẻ loi tột cùng khi nhà thơ bị chia cắt giữa trời, trăng, sông, và nước. Đêm tối tăm, ánh trăng lạnh buốt, dòng sông u ám, khung cảnh đó khiến người ta cảm nhận được sự huyền bí, nhưng lại chính là nơi nhà thơ cảm thấy cô đơn nhất. Sống giữa thế gian mà vẫn cảm thấy lẻ loi, trống rỗng, đó là tâm trạng của nhà thơ khi bị bệnh tật cản trở sự giao cảm với cuộc đời.
Sống trong nỗi cô đơn, điều lớn lao nhất mà Hàn Mặc Tử ao ước là được giao cảm với cuộc sống, mong chờ tình người có thể làm dịu đi nỗi đau. Vì vậy mới có một cái bóng “thuyền ai” của sự sống con người hiện lên, và nhà thơ đã gọi lên:
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Những mong chờ đó cũng nhanh chóng chìm vào thất vọng, không có ai đáp lại lời thi nhân. Vì thế nhà thơ mới hy vọng “chở trăng về kịp tối nay”. Tối nay, nhà thơ cô đơn, lạnh buốt, và chỉ có trăng có thể giúp ông giải tỏa nỗi cô đơn ấy. Trăng luôn là bạn đồng hành, nguồn cảm hứng vô tận của thi nhân, và Hàn Mặc Tử cũng không ngoại lệ. Ông yêu trăng mãnh liệt!
Đoạn thơ thứ hai là sự tiếp nối và phát triển của thơ truyền thống, vẫn giữ nguyên thể thơ thất ngôn nhưng đã thể hiện nỗ lực sáng tạo mới của nhà thơ khi mang vào thơ những hình ảnh đơn giản, ngôn từ giản dị như lời thốt ra tự nhiên.
Khổ thơ cuối cùng thể hiện sự sáng tạo mới trong thơ Việt của Hàn Mặc Tử:
“Mơ khách đường xa, khách đường xa”
Câu thơ không có chủ ngữ và không tuân thủ ngữ pháp thông thường để thể hiện sự nhập hoà giữa chủ thể và khách thể. Mong muốn quay về Vĩ Dạ đã khiến nhà thơ mơ mình trở thành khách xa lạ trên đường về. Nhịp thơ nhanh dồn dập của 1/3/3 như tiếng reo vui náo nức của nhà thơ. Điều này cho thấy tình yêu của Hàn Mặc Tử dành cho Vĩ Dạ đến đâu!
Trở về Vĩ Dạ để ngập tràn trong tình người, trong cảnh sắc của Vĩ Dạ:
“Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh”
Một Vĩ Dạ hiện lên với sương khói lả lướt, ánh sáng lấp lánh trên những bóng áo dài duyên dáng, thanh nhã của các nữ sinh trường Đồng Khánh đã chạm đến lòng của thi nhân, mỗi khi nhớ lại Vĩ Dạ, những hình ảnh ấy lại hiện thực rõ ràng trong tâm trí.
Nhà thơ trở về Vĩ Dạ mong muốn được sống trong không gian ấm áp của tình người, sống trong không khí yên bình của vườn quê, nhưng ông chỉ nhìn thấy bóng áo trắng “quá trắng” đến nỗi “không nhìn ra”. Sương khói đã làm mờ đi hình ảnh của người, làm mờ đi nhân vật, vì thế mà:
“Ai biết tình ai có đậm đà?”
Sương khói làm mờ hình ảnh con người, làm cho việc hiểu được tâm hồn càng trở nên khó khăn hơn, làm sao có thể biết được rằng “tình ai có đậm đà” như trước đây? Hàn Mặc Tử lại một lần nữa gặp phải sự thất vọng, cảm giác bị bỏ rơi. Ông bất lực trước cuộc sống, đau đớn trước cuộc sống vì không thể giao cảm với ai.
Bài thơ mở ra bằng một câu hỏi và kết thúc cũng bằng một câu hỏi. Nếu câu hỏi đầu tiên của bài thơ là một câu hỏi tương tác với tình cảm con người thì câu hỏi cuối cùng lại mang trong đó nỗi hoài nghi lớn. Chứa đựng trong câu thơ là nỗi đau lòng, chua xót vì nhà thơ không biết liệu tình cảm của người Vĩ Dạ với ông còn “đậm đà” như trước không?
Bài thơ như một bức tranh tường thuật về thôn Vĩ Dạ với sự hoà quyện tuyệt vời của con người và thiên nhiên, đậm chất đặc trưng của xứ Huế. Dù chỉ được phác hoạ bằng những kí ức và tâm trí của nhà thơ, nhưng những bức tranh đó vẫn chứa đựng hồn của miền quê Vĩ Dạ, trong tình yêu tha thiết của ông. Tiếp theo là tâm trạng của thi nhân, một nỗi nhớ đầy xúc động, niềm khao khát quay trở lại Vĩ Dạ, mong muốn giao cảm với cuộc đời, nhưng cũng mang theo một nỗi buồn sâu thẳm, cảm giác cô đơn khi ông bị bệnh tật ngăn trở. Tuy nhiên, qua những dòng thơ ấy, chúng ta cảm nhận được tâm hồn nhà thơ rất tài hoa, một tình yêu cuộc sống chân thành, và một nguồn đam mê không ngừng với vẻ đẹp bất tận của Hàn Mặc Tử.
........
Tải file để đọc thêm về bài văn mẫu cảm nhận về thôn Vĩ Dạ.