Bài văn mẫu lớp 11: Cảm nhận khổ thơ đầu bài Tràng Giang số 1 của Huy Cận cung cấp 2 gợi ý viết kèm với 9 bài văn mẫu xuất sắc, giúp học sinh lớp 11 tự học, nâng cao kỹ năng về văn cảm nhận và đánh giá đoạn thơ một cách chất lượng hơn.
Khổ thơ đầu bài Tràng Giang số 1 mang lại cảm xúc buồn và sâu lắng, với các hình ảnh thiên nhiên triste và tâm trạng u tối của nhà thơ. Dưới đây là 9 bài cảm nhận về khổ thơ Tràng Giang số 1, bao gồm cả bài viết ngắn gọn và đầy đủ, để các bạn tham khảo và chọn lựa theo năng lực viết của mình. Ngoài ra, bạn cũng có thể xem thêm các bài văn mẫu phân tích Tràng Giang và kết bài của bài thơ.
Dàn ý cảm nhận về khổ thơ đầu bài Tràng Giang
Dàn ý thứ nhất
a) Mở đầu
- Giới thiệu về tác giả và tác phẩm:
- Đưa ra vấn đề: Khổ thơ đầu bài thơ đã mô tả sắc nét bức tranh sông nước rộng lớn, u ám của sông Hồng, đồng thời thể hiện nỗi buồn của nhà thơ trước cảnh vật vô tận.
b) Phần chính
* Tổng quan về tác phẩm
- Bối cảnh sáng tác: Bài thơ chuyển thể từ cảm xúc trong một buổi chiều thu năm 1939 khi tác giả đứng trên bờ Nam Bến Chèm, ngắm nhìn cảnh sông Hồng hùng vĩ.
- Ý nghĩa của tựa đề:
- Ý nghĩa của câu thơ đề từ: “Nghẹn ngào trời rộng nhớ sông dài”
- Gợi lên nỗi buồn sâu thẳm trong lòng độc giả.
- Thể hiện cảm xúc chính của tác giả trong toàn bộ tác phẩm: tâm trạng “nghẹn ngào”, nỗi buồn vô biên, không biết nguyên nhân nhưng đầy đau đớn, chua xót.
- Không gian mênh mông “trời rộng sông dài” làm cho hình ảnh con người trở nên bé nhỏ, lạc lõng, đáng thương.
=> Bài thơ thể hiện tâm trạng, cảm xúc của nhà thơ khi đứng trước cảnh sông biển bao la trong một buổi chiều đầy nỗi lòng.
* Phân tích chi tiết khổ 1 bài Tràng giang
- Bài thơ bắt đầu với một khổ thơ mang vẻ đẹp tự nhiên, mang đậm phong cách cổ điển. Cảnh vật tự nhiên ấy lại được thấu hiểu qua trái tim “sầu vạn kỉ” của nhà thơ:
- “thuyền, nước, sóng,…” là các yếu tố thơ trong triết lý Đường được nhà thơ sử dụng để vẽ lên một bức tranh vẻ đẹp thủy mặc tuyệt đẹp nhưng lại u buồn đến tận xương tủy.
- “Sóng gợn” dường như nhẹ nhàng nhưng lại “điệp điệp” kéo dài không ngừng -> Đó là những cơn sóng tận sâu trong lòng khiến cho tác giả không thể ngừng đau buồn.
- “tràng giang”, “điệp điệp” : hai từ lặp liên tục trong một câu thơ -> Sử dụng từ ngữ đầy mới mẻ, độc đáo, không chỉ đơn thuần là buồn rầu mà còn là buồn “điệp điệp”, tức là một loại buồn không mãnh liệt nhưng liên tục, không ngừng.
- Ở câu thứ 2, hình ảnh “thuyền”, “nước” cùng sóng đôi, “song song” nhưng đến câu thứ 3 thì đã tách biệt tan tác: “thuyền về nước lại sầu trăm ngả”.
-> Sự đối lập giữa “thuyền về” và “nước lại” nhấn mạnh sự chia xa, cô đơn, nỗi tiếc nuối trong lòng tác giả.
- Nếu nỗi buồn ở câu 1 còn không rõ ràng thì ở đây nó đã trở nên rõ ràng và lan tỏa khắp không gian.
- Trước đến nay, “thuyền” và “nước” thường đi cùng nhau nhưng Huy Cận lại chia cắt chúng. -> Cho thấy ông đã chịu quá nhiều đau khổ, luôn mang trong lòng một cảm giác u sầu, một tình trạng cô đơn, xa lìa.
- Ấn tượng nhất là hình ảnh ẩn dụ “củi một cành khô” từ nguồn trên sông trôi dạt, đang phải đối diện với việc chọn con đường đi tiếp.
- Nghệ thuật đảo ngữ đã đặt từ “củi” lên đầu câu để nhấn mạnh sự nhỏ bé, phù du của cuộc sống con người.
-> Tác giả suy tưởng đến cuộc sống của mình cũng như của những người dân khác mất đi quê hương, mang theo thân phận hèn mọn giữa cuộc sống rộng lớn. Hình ảnh cành củi cũng biểu hiện cho cuộc sống bèo bọt, nhỏ bé của con người, đặc biệt là những văn nghệ sĩ đang phải đối mặt với nhiều trường phái văn học khác nhau, những lựa chọn trong cuộc sống.
=> Nỗi buồn của Huy Cận là nỗi buồn chung của một cuộc đời, với những biến động, những thay đổi không lường trước, trong khi con người thì cảm thấy nhỏ bé và cô đơn. Khổ thơ đầu tiên mang lại cảm giác lạc lõng, lo lắng, băn khoăn của tác giả giữa cuộc sống không định hình, không biết đi về đâu.
=> Đây không chỉ là nỗi buồn cá nhân của tác giả mà còn là cảm xúc chung của một thế hệ, đặc biệt là giới văn nghệ sĩ đầu thế kỷ XX.
- Tổng quan về nội dung khổ thơ: Khổ thơ cho thấy tâm trạng buồn bã, lo lắng, băn khoăn trước những thay đổi của cuộc đời. Tác giả nhận biết rõ sự nhỏ bé, cô đơn, lạc lõng của một cuộc sống giữa dòng đời rộng lớn.
* Tính độc đáo trong nghệ thuật
- Kết hợp một cách uyển chuyển giữa phong cách viết cổ điển và hiện đại:
- Phong cách cổ điển xuất hiện trong thể loại thơ và cách đặt tiêu đề, cũng như việc sử dụng bút pháp để miêu tả cảnh vật và tình cảm.
- Phong cách hiện đại thể hiện qua việc xây dựng các tình tiết, đặc biệt là hình ảnh độc đáo của “cành củi khô” đã gây ấn tượng sâu sắc.
- Sử dụng một hệ thống từ ngữ phong phú để biểu hiện sự cảm xúc.
c) Tóm tắt kết thúc
- Tóm tắt nội dung của khổ thơ đầu tiên trong bài Tràng Giang
- Cảm nhận cá nhân về đoạn thơ
Dàn ý số 2
I. Bắt đầu:
- Giới thiệu về tác giả Huy Cận và tác phẩm Tràng giang
- Khổ thơ đầu tiên mở ra sự buồn của con người với không gian thiên nhiên vô tận.
II. Thân bài:
* Bối cảnh sáng tác bài thơ
- Khi tác giả đứng trước bờ sông Hồng trong một chiều thu năm 1939, khi mới hai mươi tuổi, tại bến Chèm ở bên Nam sông, chứng kiến nỗi buồn không lối thoát trong lòng.
* Phân tích khổ thơ 1:
- Tác giả đứng trên bờ sông nhìn xuống dòng nước lớn mênh mông của sông Hồng, tạo ra những hình ảnh vừa chân thực vừa đầy cảm xúc.
- Một dòng sông êm đềm trôi với những đợt sóng nhẹ nhàng, với một chiếc thuyền nhỏ và một cành củi khô giữa dòng.
- Hình ảnh 'sóng gợn': gợi lên hình ảnh cuộc sống nước mênh mông, những con sóng nhẹ nhàng lăn tăn vỗ lên mặt sông => Nỗi buồn chập chùng trong lòng nhà thơ.
- Hai từ 'tràng giang': là từ cổ điển, với hai âm 'ang' tạo nên tiếng vọng cho câu thơ, vừa gợi lên một dòng sông dài rộng và trang nghiêm.
- Từ láy 'điệp điệp': Những con sóng cứ nối nhau liên tiếp =>Nỗi buồn miên man, không nguôi trong lòng tác giả, một nỗi buồn cụ thể.
- Một chiếc thuyền hiện hình giữa dòng nước mênh mông
+ Con thuyền không chèo, không đối mặt với sóng mà thụ động, buông thả mái chèo, 'xuôi mái', để dòng nước đưa đẩy.
=> Chiếc thuyền hiện ra nhỏ bé giữa dòng sông, lênh đênh và không định hình rõ ràng.
=> Sự đối lập giữa 'điệp điệp – song song': gợi lên nỗi buồn nhân thế đang lan tràn trong tâm hồn, chính như con thuyền, bơ vơ giữa sóng nước cuộc đời, buông xuôi, mặc cho dòng đời đẩy đưa.
- Hình ảnh 'Thuyền trở về ... ngả':
- Hình ảnh thường gặp trong văn thơ
- Thuyền và nước có vẻ hẹn hò, hứa hẹn sẽ cùng nhau nhưng ở đây, sự hẹn ước chỉ là thoáng qua, để rồi lại tan biến ra hai hướng.
- Hình ảnh 'thuyền về nước lại': đề cập đến cảnh xa cách, chia lìa.
- 'Nỗi buồn rải rác': Một nỗi buồn vô tận, rộng lớn và trải dài.
- Hình ảnh 'Cành củi ... vài dòng':
- Đầu tiên là việc đảo ngữ để làm nổi bật hình ảnh cành củi khô giữa dòng nước.
- Nhấn mạnh sự nhỏ bé, cô đơn của một cành củi nhỏ giữa sóng nước rộng lớn.
- 'Cành củi khô': Gợi lên sự héo hon, không còn sức sống vài.
- 'Một vài dòng': Vừa thể hiện cảnh sông nước mênh mông, vừa gợi lên hình ảnh của cuộc đời, vô số bước đi nhưng không biết lựa chọn nào để bước đi tiếp.
=>Một cành củi khô lẻ loi giữa dòng nước mênh mông => Con người lạc lõng giữa cuộc sống, mang theo nỗi buồn không lối thoát.
- Tác giả đã khéo léo sử dụng các phép đối trong khổ thơ (buồn điệp điệp – nước song song, sầu trăm ngả- lạc mấy dòng) cùng với các từ láy => tạo ra sự tương phản rõ rệt giữa cá thể lẻ loi, cô đơn với vũ trụ bao la.
* Tóm tắt cuối cùng:
- Khổ thơ thể hiện nỗi buồn sâu sắc của tác giả khi đối diện với khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ, đồng thời gợi lên sự chia ly, xa cách giữa con người, không có sự giao lưu, đặc biệt tác giả muốn nhấn mạnh nỗi buồn về cuộc đời nhỏ bé, lênh đênh, không rõ ràng trước cuộc sống.
- Nghệ thuật: Huy Cận đặc biệt thành công trong việc sử dụng các hình ảnh mô tả và gieo vần nhịp nhàng.
III. Kết luận:
- Đặt lại ý nghĩa của khổ thơ.
Cảm nhận về Khổ thơ Tràng Giang - Mẫu 1
“Cha Huy Cận ngày xưa thường rất buồn
Nỗi nhớ không biết đã dịu chưa?
Hay lòng anh vẫn chật vật nắng mưa
Cùng đất nước nặng nề sông núi”
Huy Cận là một trong những nhà thơ nổi bật trong phong trào thơ mới. Đúng như nhận định của Xuân Diệu, trước cách mạng thơ của Huy Cận thường mang đậm nỗi buồn sâu thăm, nỗi buồn nhân thế. Huy Cận đã có rất nhiều tác phẩm thể hiện nỗi buồn. Tràng Giang là một trong những tác phẩm điển hình cho tâm hồn thơ của Huy Cận. Khổ thơ đầu tiên của bài thơ đã mô tả xuất sắc cảnh sông nước mênh mang, u ám của sông Hồng, đồng thời thể hiện nỗi buồn của người thơ trước không gian bao la vô tận.
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mặt nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Cành củi một khô lạc mấy dòng”
Bài thơ Tràng Giang được Huy Cận sáng tác vào một buổi chiều thu, ông đứng ở bến nhìn ra cảnh sông Hồng rộng lớn. Mở đầu đoạn thơ, nhà thơ đã mang hình ảnh sóng nước sông Hồng buồn man mác vào tác phẩm:
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp”
Đọc câu thơ người đọc hình dung ra một con sông mênh mang sóng nước. Cụm từ “tràng giang” cho thấy một dòng sông dài vô tận. Nhà thơ không dùng “trường giang” mà dùng từ “tràng giang” khiến cho dòng sông không chỉ có chiều dài mà còn có chiều sâu. Cụm từ “điệp điệp” cho thấy những đợt sóng cứ dập dồn, liên tiếp xô nhau vào bờ. Qua cái nhìn đa sầu đa cảm của thi nhân, từng đợt sóng được nhân hóa lên như con người, cũng biết “buồn điệp điệp”. Từng đợt sóng gợn trên sông của hình ảnh thật ấy cũng như những nỗi buồn đang trải dài vô tận. Từ láy “điệp điệp” càng nhấn mạnh nỗi buồn hết lớp này đến lớp khác, nỗi niềm mang nhiều tâm sự của nhà thơ.
Trên con sông dài, không gian rộng lớn ấy, xuất hiện một con thuyền nhỏ bé:
“Con thuyền xuôi mái nước song song”
Hình ảnh đối lập giữa cái bao la, mênh mông của sông nước với con thuyền nhỏ lênh đênh giữa dòng càng gợi lên sự nhỏ bé của con thuyền. “Con thuyền” là hình ảnh tả thực nhưng dưới cái nhìn của cái tôi lãng mạn thì con thuyền cũng chỉ những thân phận nhỏ bé, nổi trôi của kiếp người. Hình ảnh con thuyền và dòng sông vốn đã xuất hiện nhiều trong thơ ca từ cổ chí kim. Cách sử dụng hình ảnh cổ điển trong thơ cùng điệp từ “song song” càng gợi lên nỗi buồn xa vắng. Sử dụng nghệ thuật tiểu đối trong ngôn từ “buồn điệp điệp” đối với cụm từ “nước song song” tạo cho hai câu thơ nhịp thơ nhịp nhàng, chậm rãi như những tiếng thở dài não nuột đang trào dâng trong lòng nhà thơ.
Đoạn thơ không chỉ gợi lên nỗi buồn mà còn gợi lên sự chia lìa vô định:
“Thuyền về nước lại sầu trăm ngả”
Thuyền và nước thường đi liền với nhau, nhưng ý thơ ở đây lại mang đến một sự xa cách giữa thuyền và nước. Hình ảnh nước trong câu thơ được nhạn hóa như con người, cũng có cảm xúc, cùng biết “sầu” buồn. Cụm từ “sầu trăm ngả” gợi cho ta cảm giác một nỗi buồn vô tận, trải dài khắp không gian trăm ngả. Đọc câu thơ, người đọc hình dung được một con thuyền lênh đênh cứ trôi nổi xa tít, để mặc dòng nước mênh mang lặng lẽ và heo hút.
Bên cạnh những hình ảnh thân thuộc trong thơ xưa như sóng nước, con sông, con thuyền thì cuối đoạn thơ, nhà thơ lại mang đến một hình ảnh và ý thơ độc đáo đặc sắc:
“Cành khô một chiếc lạc nhiều dòng”
“Cành khô” là một hình ảnh hiện đại trong thơ Huy Cận, hiếm khi ta bắt gặp một hình ảnh như thế trong thơ ca. Câu thơ giàu giá trị gợi hình, mang đến một hình ảnh chiếc cành khô nhỏ nhắn đang lạc loãng. Cành khô vốn đã tạo một cảm giác bé nhỏ, tầm thường lại càng “khô” mang đến một ý nghĩa thiếu sức sống. Cụm từ “lạc nhiều dòng” mang ý nghĩa có chiều sâu, một cành khô đã vốn quá bé nhỏ lại bị quăng quật khắp mấy dòng sông nước. Nhà thơ đã dùng nghệ thuật đảo ngữ, ông không viết “một cành củi khô” mà lại viết “cành khô một chiếc lạc” cùng nhịp thơ 1/3/3 khác hẳn với ba câu thơ trên như muốn nhấn mạnh cái hình ảnh của củi cũng như thân phận nhỏ nhơi bị vùi dập lênh đênh trên dòng đời vô định.
Xuyên suốt cả đoạn thơ là nỗi buồn sâu thẳm. Tất cả hình ảnh thơ “sóng”, “thuyền”, “nước”, “cành khô” hiện lên trong thơ Huy Cận đều buồn sầu không một sức sống. Bởi chính tâm hồn buồn man mác của nhà thơ đã dàn trải lên cảnh vật nên nhìn đâu cũng là nỗi sầu nhân thế. Như thi nhân xưa có viết “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.
Bằng việc sử dụng những hình ảnh thơ chuẩn mực trong thơ xưa cùng hình ảnh thơ hiện đại qua cái nhìn của nhà thơ, kết hợp với các biện pháp từ nhân hoá, ẩn dụ, nghệ thuật đảo ngữ, ngôn từ giàu hình ảnh… Nhà thơ Huy Cận đã vẽ nên một bức tranh mênh mang, rộng lớn nhưng buồn man mác trên sông Hồng, đồng thời thể hiện nỗi buồn về sự nhỏ nhỏi, vô định của kiếp người. Đoạn thơ nói riêng cùng bài thơ nói chung là những vần thơ tiêu biểu cho hồn thơ sầu nhân thế của Huy Cận một thời.
Cảm nhận khổ 1 Tràng giang - Mẫu 2
Huy Cận là một trong những nhà thơ thành công nhất phong trào thơ Mới. Người ta nhận xét thơ của Huy Cận thường buồn, một nỗi buồn sâu thăm thẳm, da diết, nỗi buồn của nhân thế, cuộc đời. Các tác phẩm thơ của ông thường nghiêng về nỗi buồn và một trong số đó là Tràng Giang. Bài thơ là điển hình cho nỗi buồn nhân thế mà Huy Cận luôn mang nặng trong lòng. Và ở khổ đầu tiên trong bài thơ, Huy Cận đã miêu tả một cách thật chân thực cái nỗi buồn heo hút, mênh mang trong lòng mình, nỗi buồn trước một không gian thiên nhiên vô cùng vô tận.
'Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng'
Tràng Giang được Huy Cận sáng tác vào một chiều thu năm 1939, khi một mình ông đứng trước dòng sông Hồng hùng vĩ, lúc đó, ông hai mươi tuổi ở bờ Nam, bến Chèm, cùng nỗi buồn vô tận trong tâm hồn.
Bài thơ là hình ảnh của thiên nhiên rộng lớn, đẹp đẽ, hùng vĩ của quê hương, ẩn sau bức tranh đó là một nỗi buồn sâu thăm thẳm của Huy Cận và một tấm lòng nặng tình với quê hương. Hiện lên giữa không gian mênh mông của thiên nhiên là một cái tôi nhỏ bé, lạc lõng, cô đơn giữa cuộc đời cùng nỗi cô đơn, sầu muộn vô cùng. Huy Cận, qua bài thơ, muốn thể hiện niềm khao khát được hòa nhập với con người, với thiên nhiên, và kín đáo đặt trong đó là nỗi niềm của một thanh niên yêu nước yêu quê hương vô cùng. Con người ở thế giới của ông, sống giữa quê hương của mình nhưng lại thấy bơ vơ, lạc lõng trên chính quê hương ấy, đây phải chăng là một nỗi niềm, xúc cảm của một người dân mất nước, bơ vơ giữa cuộc đời với tình yêu quê hương tha thiết của mình?
Bài thơ được Huy Cận kết hợp giữa yếu tố cổ điển với yếu tố hiện đại, ông đem tinh thần, cái tôi của thơ Mới vào trong một bài thơ thể thất ngôn với chất thơ Đường. Những hình ảnh với thi tứ cổ đầy gợi tả và sinh động. Chất thơ Đường cũng thật đậm đặc, thấm đẫm từ nhan đề thơ các bút pháp nghệ thuật (đối ngẫu, song đối).
Huy Cận đã viết bài thơ khi đứng ở bến Chèm, nhìn xuống dòng sông Hồng chảy chầm chậm, và từ đó, bài thơ mở đầu với một không gian đầy sóng nước và nỗi buồn miên man:
'Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp'
Một hình ảnh vô cùng chân thực và giàu sức gợi tả. Dòng sông lặng lẽ trôi với những con sóng mênh mang. Cụm từ 'tràng giang' ở đầu câu thơ đầu tiên, với âm 'ang' tạo ra tiếng vọng cho câu thơ, gợi lên hình ảnh về dòng sông rộng lớn, mênh mông. Huy Cận đã tinh tế khi sử dụng 'tràng giang' thay vì 'trường giang', làm cho dòng sông không chỉ có chiều dài mà còn chiều sâu bí ẩn. Từ 'điệp điệp' mô tả sự liên tục, tiếp nối không ngừng của các con sóng, như nỗi buồn trong lòng tác giả, chồng chất, vô tận.
'Điệp điệp', từ láy mà Huy Cận sử dụng ở đây, gợi lên sự tiếp tục không ngừng của các con sóng. Sự 'điệp điệp' của sóng trên mặt nước giống như nỗi buồn trong lòng tác giả, miên man, chồng chất, vô tận. Từ láy 'điệp điệp' nhấn mạnh nỗi buồn trong lòng nhà thơ.
Dòng sông dài và rộng, bao la và mênh mông, đột ngột xuất hiện một chiếc thuyền nhỏ lênh đênh, lạc lõng:
'Con thuyền lênh đênh trên dòng nước mênh mang'
Một chiếc thuyền nhỏ bé, bất đắc dĩ lênh đênh theo dòng nước, trái ngược hoàn toàn với sự bao la và mênh mang của dòng sông. Điều đó càng làm nổi bật sự nhỏ bé, cô đơn của chiếc thuyền. Nó không giống như con đò mạnh mẽ trên dòng sông Đà của Nguyễn Tuân, chiếc thuyền của Huy Cận lại bị đẩy trôi một cách thụ động, lênh đênh trên dòng nước. Dưới ánh nhìn lãng mạn, chiếc thuyền có thể là biểu tượng cho số phận nhỏ bé, cuộc đời lênh đênh giữa biển khơi. Dòng sông chính là dòng chảy của cuộc sống, và chiếc thuyền chỉ là một vật thể nhỏ bé giữa dòng chảy đó. Từ xưa đến nay, hình ảnh của thuyền và dòng sông luôn gợi lên những tâm trạng sâu xa, những nỗi buồn xa xôi. Huy Cận sử dụng hình ảnh này để thể hiện tâm trạng, nỗi lòng của mình. Kết hợp với từ láy 'song song', người đọc cảm nhận được sự bất lực của chiếc thuyền, nó không biết mình sẽ đi về đâu, chỉ biết bị dòng chảy cuốn theo, bỏ mặc tất cả.
Nghệ thuật tiểu đối xuất hiện trong hai câu thơ đầu tiên 'buồn điệp điệp' – 'nước song song', tạo ra sự nhịp nhàng, chậm rãi như tiếng thở dài của Huy Cận khi nhìn dòng sông chảy.
Nỗi buồn của Huy Cận dường như lan tỏa vào cảnh vật, mỗi hình ảnh ông nhìn thấy đều chứa đựng nỗi buồn, cảnh sầu muộn không có chút hạnh phúc nào. Hình ảnh chiếc thuyền giữa dòng sông cũng đem lại nỗi buồn, gợi lên cảnh lênh đênh. Và chiếc thuyền ấy còn khiến người đọc nghĩ về sự chia ly khi ông viết:
'Thuyền về nước lại sầu trăm ngả'
Thuyền và nước luôn là hai biểu tượng đi kèm, nhưng ở đây, lại mang đến một sự cách biệt đầy buồn bã. Nghệ thuật đối ngẫu 'thuyền về nước lại' khiến ta cảm nhận được sự chia lìa, thuyền đi một hướng, nước đi một hướng, thật đáng buồn. Thuyền và nước ở đây được nhân hóa như con người, chúng cũng có cảm xúc 'sầu trăm ngả' lan tỏa ra khắp mọi nơi. Đọc câu thơ, người ta như thấy con thuyền lênh đênh, đi xa mãi, còn dòng nước lặng lẽ ở lại, heo hút, mù mịt.
Đọc câu thơ, người đọc cảm nhận được nỗi buồn vô hạn thấm vào từng câu chữ.
Tuy nhiên, điểm đặc biệt nhất trong thơ Huy Cận, trong tác phẩm Tràng Giang, phải kể đến hình ảnh thơ độc đáo:
'Cành củi một khô lạc mấy dòng'
Nhà thơ thường sử dụng những biểu tượng như vầng trăng, con thuyền, dòng sông, mặt nước, ... nhưng ở đây, Huy Cận lại sử dụng một biểu tượng có lẽ là độc nhất vô nhị trong thi ca Việt – cành củi khô. Hình ảnh cành củi khô giữa dòng nước vừa giản dị, vừa gợi lên bao cảm xúc mới mẻ. Một cành củi khô lạc lõng giữa dòng chảy mênh mang của sông, nó bơ vơ, không biết hướng về đâu. 'Cành củi' vốn đã tạo nên một cảm giác nhỏ bé, tầm thường, vậy mà ở đây lại chỉ là một cành củi 'khô', càng gợi lên sự hoang tàn, héo úa, thiếu sức sống. Cành củi ấy không như con thuyền, nó nhỏ bé hơn, bị quăng quật trong dòng nước bao la đến nỗi 'lạc mấy dòng'. Nghệ thuật đảo ngữ được Huy Cận sử dụng một cách triệt để ở đây, ông nhấn mạnh từ 'củi' để gợi lên sự héo úa, thiếu sức sống đồng thời cũng để nhấn mạnh sự lẻ loi của cành củi giữa dòng sông rộng lớn. Một vật thể nhỏ bé, lại chỉ có một 'cành củi một khô', ít ỏi quá giữa cái mênh mông của sông nước này. Nhịp thơ 1/3/3, chậm rãi như gợi lên sự nhỏ bé quá mức của cành củi kia.
Câu thơ như muốn vẽ lên hình ảnh của một thân phận bé nhỏ, bơ vơ giữa dòng đời. Cành củi lạc giữa dòng nước chảy trôi cũng như con người mang trong mình nỗi buồn vô hạn, bơ vơ giữa dòng đời đang xô tới. 'Mấy dòng' nước, mấy dòng đời, nhưng không thể chọn lấy một con đường đi, con người ấy thật lạc lõng, thật lênh đênh quá. Như Tố Hữu đã từng nói về sự bơ vơ, vô định, không biết hướng đi cuộc đời mình trong bài 'Dậy lên thanh niên':
'Bâng khuâng đứng giữa đôi dòng nước
Chọn một dòng hay để nước cuốn trôi'
Huy Cận cũng đang trong tình thế ấy, và Huy Cận còn có một nỗi buồn mênh mang, sâu lắng hơn cả Tố Hữu nữa.
Khổ thơ đầu bài Tràng Giang đã thể hiện một nỗi buồn xuyên suốt trong từng câu chữ. Tất cả hình ảnh thơ đều sầu muộn, không có chút sức sống, chúng đều lênh đênh, bơ vơ, lạc lõng giữa dòng nước trôi. Có lẽ bởi chính tâm hồn của Huy Cận cũng đang chìm trong nỗi buồn nhân thế, nỗi buồn ấy đã lan tỏa sang từng cảnh vật quanh ông. Như Nguyễn Du đã từng khẳng định:
'Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ'.
Bằng việc khéo léo áp dụng các phép đối, những hình ảnh thơ, những biện pháp tu từ, ẩn dụ, nhân hóa, đã khiến cho chúng ta cảm nhận được một cái tôi vô cùng nhỏ bé giữa cuộc sống, đặc biệt khi đối diện với bức tranh thiên nhiên bao la.
Khổ thơ đặc biệt của Tràng Giang là minh chứng cho tinh thần thơ chứa đựng nỗi buồn nhân thế của Huy Cận - một nhà thơ tài năng của phong trào thơ Mới.
Cảm nhận về khổ thơ 1 Tràng Giang - Mẫu 3
Huy Cận được biết đến như một nhà thơ hàng đầu của phong trào thơ mới. Các tác phẩm của ông thường tôn vinh vẻ đẹp của tự nhiên nhưng lại mang trong đó nỗi buồn của cuộc sống. Trong số những tác phẩm đó, Tràng Giang được đánh giá cao về cả mặt nội dung lẫn nghệ thuật.
Bài thơ này được ông sáng tác vào năm 1939 khi đứng ở bờ Nam Bến Chèm, nhìn xuống sông Hồng. Có thể nói, chính cảnh vật ở đây đã truyền cảm hứng không ngừng cho ông.
Khổ thơ đầu tiên dù chỉ ngắn gọn nhưng đã truyền đạt rõ bức tranh về sông nước bao la cùng tâm trạng của nhà thơ.
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Bài thơ mở đầu bằng những câu thơ mang dấu ấn cổ điển. Cảnh thiên nhiên được tái hiện qua trải lòng của nhà thơ trở nên độc đáo và mới lạ hơn. Bức tranh về sông nước hiện lên trước mắt tươi đẹp với hình ảnh sóng gợn và thuyền lướt. Dù sóng chỉ nhẹ nhàng gợn nhưng vẫn tiếp tục 'điệp điệp' không ngớt. Nhờ vào sóng, con thuyền vẫn tiếp tục lướt trôi theo dòng nước. Trong hai câu thơ này, tác giả còn sử dụng từ láy để tăng thêm nhịp điệu cho lời thơ. Cách sử dụng từ ngữ của nhà thơ rất độc đáo, đem lại sự mới mẻ trong văn chương.
Bức tranh về sông nước được mô tả vô cùng đẹp qua lời thơ của tác giả. Tuy nhiên, tâm hồn con người lại chứa đựng nỗi buồn sâu thẳm. Chính sự tác động đó khiến cho khi đọc hai câu thơ đầu, chúng ta cảm nhận được nỗi buồn ẩn chứa qua từ ngữ. Dù sông nước bao la, nhưng con người vẫn là sinh vật bé nhỏ giữa trời đất.
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng
Hình ảnh thuyền và nước, sau khi từng được kết hợp song song, giờ đây lại bị tách ra. Điều này là biểu hiện của sự xa cách giữa vô vàn khơi sâu. Hình ảnh ấy được nhân hóa, làm tăng thêm cảm xúc. Cụm từ “sầu trăm ngả” đem lại cho người đọc cảm giác buồn vô tận. Nỗi buồn ấy dường như lan tỏa khắp mọi nơi. Đọc câu thơ, ta có thể tưởng tượng thấy con thuyền lênh đênh vô hạn giữa dòng nước bao la. Hình ảnh thuyền và sông đối lập nhau làm nổi bật hơn nỗi buồn sâu sắc của thi sĩ.
Không chỉ dừng lại ở đó, nhà thơ còn sử dụng hình ảnh “củi khô” để điểm nhấn trong khung cảnh sông nước. Yếu tố này làm cho sự lẻ loi của con người giữa trời đất rộng lớn trở nên rõ ràng hơn. Cành củi bị “khô” thể hiện sự thiếu sức sống của con người. Đặc biệt, tác giả còn sử dụng phép đảo ngữ trong cụm từ “củi một cành khô” kết hợp với nhịp thơ 1/3/3 để nhấn mạnh thân phận con người bị vùi dập. Đứng trước khung cảnh đó, thi sĩ cảm thấy nỗi buồn man mác. Ông buồn cho thân phận của con người, suy ngẫm về cuộc đời lênh đênh, trôi nổi. Cuộc sống luôn thay đổi, không ai biết trước được điều gì. Con người luôn cô đơn, lạc lõng giữa dòng đời mênh mông mà không biết đi về đâu.
Nỗi buồn của thi sĩ khi đối diện với cuộc sống bao la
Qua khổ thơ 1 của bài Tràng Giang, ta đã thấy được sự kết hợp hài hòa giữa bút pháp hiện đại và cổ điển của nhà thơ. Nhờ đó, lời thơ gần gũi nhưng vẫn đầy ảnh hưởng đến tâm hồn của người đọc. Thêm vào đó là cách đặt tiêu đề độc đáo theo phong cách tả cảnh ngụ ý.
Ngoài ra, việc sử dụng từ láy trong khổ thơ 1 còn mang lại nhiều giá trị biểu cảm. Thông qua đó, ta cảm nhận được sự mênh mông và lôi cuốn của dòng sông Hồng và sự nhỏ bé của con người giữa bức tranh đó.
Hơn nữa, Huy Cận đã thành công khi sử dụng hình ảnh độc đáo. Bạn có thể không tìm thấy hình ảnh “củi một cành khô” trong thơ văn Việt Nam một cách dễ dàng. Sự mới mẻ này tạo nên điểm nhấn đáng chú ý, nâng cao giá trị của tác phẩm.
Đọc khổ thơ 1 trong bài Tràng Giang, ta sẽ hiểu được nỗi buồn lan tỏa xuyên suốt đoạn văn. Dù các hình ảnh được đề cập có vẻ gần gũi nhưng lại truyền đạt một cảm giác buồn và thiếu sức sống dưới nét bút của Huy Cận. Bởi vì, tâm hồn ông đang mang nặng nỗi buồn, điều này khiến cho thơ văn và cảnh vật trở nên u ám.
Cảm nhận về khổ thơ 1 Tràng Giang - Mẫu 4
Huy Cận là một biểu tượng trong phong trào thơ Mới. Khi đọc thơ của Huy Cận, người ta thường bị rơi vào nỗi buồn sâu thẳm. Tràng Giang là một ví dụ điển hình. Bài thơ này đem lại cho chúng ta cảm giác nặng nề của nỗi buồn nhân thế trong tâm hồn của tác giả. Nỗi buồn đó rất sâu sắc, mênh mang, và buồn thảm giữa vẻ đẹp của thiên nhiên vô tận, được mô tả ở đoạn mở đầu bài thơ:
'Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng'
Bắt đầu đoạn thơ, nhà thơ mở ra trước mắt ta một không gian tràn đầy sóng nước:
'Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp'
Một câu thơ ngắn gọn nhưng bao trùm cả khung cảnh rộng lớn và gợi lên nhiều cảm xúc trong lòng người. Hình ảnh dòng sông lững lờ trôi với những làn sóng gợn mênh mang hiện lên rất chân thực và gợi cảm. “Tràng giang' với âm 'ang' nối liền tạo nên tiếng vọng trong câu thơ, vẽ trước mắt người đọc hình ảnh dòng sông dài rộng, mênh mông sóng nước. Tác giả cũng sử dụng từ láy “điệp điệp” gợi sự liên tục, nối tiếp không dứt. Những con sóng gợn trên mặt sông rộng lớn, nối đầu lên nhau, lớp này tiếp lớp kia, lăn tăn không ngừng. Không gian rộng lớn, mênh mông dường như càng làm nổi bật nỗi buồn miên man trong lòng tác giả.
Trong dòng chảy bao la ấy, chiếc thuyền nhỏ đột ngột hiện ra, lênh đênh lạc lõng:
'Con thuyền xuôi mái nước song song'
Hình ảnh chiếc thuyền bé nhỏ, lững thững trôi đối lập hoàn toàn với dòng sông mênh mang, vô tận. Không giống như con thuyền trên sông Đà của Nguyễn Tuân, mạnh mẽ vượt qua thác ghềnh, con thuyền trôi trên dòng sông trong thơ Huy Cận “xuôi mái” để dòng nước đẩy trôi đầy hững hờ. Thế nhưng, dưới cái nhìn của cái tôi Huy Cận, con thuyền ấy không phải là con thuyền bình thường. Nó có thể là biểu tượng cho những thân phận nhỏ bé, cho những kiếp người đang lạc lõng lênh đênh giữa dòng chảy cuộc đời rộng lớn.
Từ láy “song song” được sử dụng trong câu thơ càng nhấn mạnh sự bất lực của con thuyền. Nó dường như chẳng biết mình sẽ trôi về đâu, buông xuôi mái chèo, bỏ mặc tất cả. Nghệ thuật tiểu đối 'buồn điệp điệp' – 'nước song song' liên kết hai câu thơ tạo sự nhịp nhàng, chầm chậm đồng thời cũng như lặng lẽ trút ra tiếng thở dài đầy não nề của Huy Cận trước cuộc đời thực tại.
Nỗi buồn của lòng người như thấm đượm vào cành vật. Trong cái nhìn sầu đau của thi sĩ, sự chia ly chậm rãi hiện diện:
'Thuyền về nước lại sầu trăm ngả'
Thuyền và nước những tưởng là hai hình ảnh song song đồng hành với nhau, đến đây lại cách xa đầy buồn tủi. Hình ảnh đối ngẫu 'thuyền về nước lại' gợi sự chia lìa xót xa, thuyền một hướng, nước một hướng, sầu thương vô cùng. Thuyền lênh đênh trôi mãi đi xa chỉ còn dòng nước lặng lẽ ở lại, heo hút, cô quạnh. Thuyền và nước ở đây không còn là sự vật vô tri vô giác của thiên nhiên mà đã được nhân hóa lên như một con người. Trước chia ly, chúng cũng có cảm xúc như con người: 'sầu trăm ngả'. Nỗi sầu không ngả một bên mà ngả trăm đường, lan tỏa, tràn lan như nuốt chửng cả không gian. Câu thơ vang lên mà lòng người không khỏi trùng xuống.
Nỗi buồn vẫn man mác bao trùm, khổ thơ khéo lại bằng hình ảnh vô cùng độc đáo:
'Củi một cành khô lạc mấy dòng'
'Củi' là thứ đơn sơ, mộc mạc, chưa từng xuất hiện trong thơ ca mang ý nghĩa biểu tượng. Thế nhưng dưới cái nhìn của Huy Cận, nó lại gợi lên bao cảm xúc khác lạ, mới mẻ trong lòng người đọc. 'Cành củi' vốn đã mang cảm giác thật nhỏ bé, một cành củi 'khô' ở đây càng gợi lên sự hoang tàn, héo úa. Một cành củi khô lạc lõng giữa dòng chảy mênh mang của dòng sông, bơ vơ, vô định. Nó thậm chí không thể xuôi dòng song song như con thuyền, bị quăng quật theo dòng nước, lạc đến mấy dòng. Lối viết đảo ngữ 'củi một cành khô' được sử dụng càng nhấn mạnh nỗi cô đơn, lẻ loi, héo tàn.
Câu thơ như muốn gợi lên hình ảnh của thân phận nhỏ bé, bơ vơ lênh đênh giữa cuộc đời. Cành củi khô lạc giữa dòng nước dường như chính là hình ảnh biểu tượng cho con người mang trong mình nỗi sầu lo, lạc lõng vô định giữa dòng đời xô đẩy, không biết đi đâu về đâu.
'Bâng khuâng đứng giữa đôi dòng nước
Chọn một dòng hay để nước cuốn trôi'
Với 4 câu thơ ngắn, Huy Cận đã tài tình áp dụng nghệ thuật đặc sắc. Hình ảnh và từ láy giúp hiện lên cái tôi nhỏ bé, suy tư giữa cuộc đời. Nỗi buồn trước không gian rộng lớn cũng là nỗi lòng của thế hệ trí thức trước tình cảnh đất nước mất chủ quyền.
Khổ thơ góp phần làm nên giá trị nội dung và tư tưởng của Tràng Giang, thể hiện phong cách độc đáo của Huy Cận. Tiếng thơ ông vẫn còn sống mãi trong lòng độc giả.
Cảm nhận khổ 1 Tràng giang - Mẫu 5
Con người thường ẩn giấu cảm xúc qua những câu thơ. Huy Cận là một trong những nhà thơ như vậy, luôn khiến độc giả cảm nhận được tâm trạng của ông. 'Tràng giang' là một tác phẩm kiến người đọc phải bồi hồi trong cảm xúc của tác giả.
'Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.'
Tiêu đề bài thơ 'Tràng giang' từ Hán Việt, nghĩa là 'sông dài', tạo nên một không gian cổ kính. Điệp vần 'ang' tạo âm vang rộng lớn, gợi lên không gian bao la rất trang nghiêm. Đề tựa 'Bâng khuâng trời rộng, nhớ sông dài' gửi gắm nỗi buồn vô hình của tác giả trước biển trời, dòng sông dài.
Bài thơ mở ra dải sông dài rộng lớn:
'Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp'
Chỉ một câu thơ đã miêu tả khung cảnh rộng lớn và cảm xúc trong lòng tác giả. Hình ảnh sóng gợn trên dòng sông dài khiến ta cảm thấy mơ hồ, với từ láy 'điệp điệp' kéo dài không ngớt, đẩy lòng người vào nỗi buồn dai dẳng.
Hình ảnh chiếc thuyền gợi lên cảm giác hấp dẫn trong thơ Huy Cận:
'Thuyền lênh đênh trôi trên dòng nước, song song
Thuyền về bến lại rơi vào trăm nỗi buồn'
Trước khung cảnh bao la, một chiếc thuyền lênh đênh trên dòng sông rộng lớn, tạo nên cảnh cô đơn hiu quạnh. 'Thuyền' và 'nước' dường như chia lìa nhau, mang lại nỗi 'sầu' trải dài đến trăm ngả, thể hiện nỗi lòng tiếc nuối của nhà thơ.
Nếu thuyền, sông, sóng và nước quen thuộc thì câu thơ cuối khổ đầu khiến độc giả ngạc nhiên:
'Củi một cành khô lạc mất dòng'
Câu thơ 'Củi một cành khô' làm nổi bật sự cô đơn, lạc lõng, thể hiện tâm trạng của tác giả và nhiều người trong thời kỳ mất nước.
Một khổ thơ chỉ hai mươi tám chữ đã thể hiện được cảm xúc sâu sắc của một tâm hồn trước tình hình đất nước mất chủ quyền. Tác giả đã thành công trong việc miêu tả cảnh vật và sử dụng các biện pháp nghệ thuật như điệp ngữ và ẩn dụ. Giữa không gian rộng lớn, người nghệ sĩ cảm thấy lạc lõng, buồn bã giữa dòng đời xô đẩy.
Bài thơ 'Tràng giang' nói chung và khổ thơ đầu nói riêng đã đạt đến trình độ cao của văn chương, khiến người đọc không thể quên. Huy Cận khéo léo kết hợp tả cảnh thiên nhiên và nỗi lòng của mình. Mặc dù không đề cập trực tiếp đến đất nước, nhưng từ sâu trong bài thơ thể hiện tình yêu quê hương, lòng đau đáu về đất nước, mong muốn hòa bình cho mọi người.
Cảm nhận khổ 1 Tràng giang - Mẫu 6
Nếu Xuân Diệu là thi sĩ của thời gian thì Huy Cận lại là nhà thơ của không gian. Đọc Tràng giang, ta thấy rõ rằng Huy Cận là nhà thơ buồn nhất của văn học Việt Nam hiện đại. Nỗi buồn và sự lạc lõng trong tâm hồn được thể hiện qua bài thơ Tràng giang, là kết quả của những dạo chơi bên bến Chèm, Hà Nội. Nỗi lòng, cái tôi rõ nhất qua khổ thơ đầu tiên:
'Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.'
Huy Cận được coi là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất trong phong trào thơ Mới 1939-1945, với tác phẩm mang nét đặc sắc và giọng điệu riêng, thể hiện sâu sắc về xã hội và triết lí. Ông bắt đầu làm thơ từ năm 1934, đăng thơ từ năm 1936 và có nhiều tác phẩm tiêu biểu như tập thơ Lửa thiêng (1940), Trời mỗi ngày lại sáng (1958), Đất nở hoa (1960),... Bài thơ Tràng giang là một tác phẩm nổi tiếng của ông, được sáng tác năm 1939 và đăng lần đầu trên báo Ngày nay, sau đó được in vào tập Lửa thiêng.
Ngay từ khổ thơ đầu tiên, Huy Cận đã mô tả cảnh sông nước mênh mông bất tận:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Trong từng câu thơ, cảnh vật và tình cảm con người hiện diện song song. Những sóng nhỏ trên sông Tràng giang nhẹ nhàng lướt qua như nỗi buồn của con người, luôn dâng trào từ đợt này sang đợt khác. Một nỗi buồn không dứt 'điệp điệp' xé lòng người. Tác giả cảm nhận nỗi buồn của mình từng đợt 'điệp điệp', dường như sóng sông đã hòa cùng nỗi buồn trong lòng người, nhẹ nhàng mà mênh mang không dứt. Câu thơ của Huy Cận nhấn mạnh sắc thái: sóng sông vô tận như nỗi buồn điệp điệp không nguôi... Thuyền trên sông không chèo mà 'xuôi mái' tự mình trôi theo dòng nước, tạo ra hình ảnh lênh đênh trôi dạt, bất chấp dòng nước chảy. Hình ảnh này gợi lên cuộc sống không chắc chắn của con người, nhỏ bé và lạc lõng.
Trong Tràng giang, tác giả tập trung vào hình ảnh những sóng nhỏ trên mặt nước. Sóng hiện ra và tan biến như thời gian trôi không thể nào lấy lại được. Thuyền và nước luôn liên kết nhưng giờ đây chúng chỉ song song, không gắn bó mãi mãi. Nước trôi theo nhiều hướng khác nhau, thuyền biết đi theo đâu. Thuyền và nước như hai đường thẳng song song không bao giờ gặp gỡ, tạo ra cảnh chia ly, biệt ly:
Thuyền trôi về nơi nguồn lại ngập trong biển sầu
Một cành củi lạc mất giữa dòng nước
Trong khổ thơ của Huy Cận, hình ảnh con thuyền cô độc trôi trên sông là biểu tượng của sự lạc lõng cô đơn. Tuy nhiên, câu thơ “Một cành củi lạc mất giữa dòng nước” mới thể hiện rõ nét tài năng và sự tinh tế trong thơ của ông. Nỗi buồn sầu cô đơn ngày càng chiếm lĩnh tâm trí nhà thơ, và sự nhỏ bé của sự vật trong bài thơ càng làm nổi bật điều này. Trước một dòng sông rộng lớn, thấy rõ sự nhỏ bé của con thuyền, và giờ chỉ còn độc một cành củi khô, nghe thật là tội nghiệp.
..................
Tải file tài liệu để đọc thêm bài văn mẫu cảm nhận khổ 1 Tràng giang