Việc phân tích Tinh thần nhân đạo của Nguyễn Đình Chiểu có thể làm cho nhiều bạn cảm thấy bối rối và gặp khó khăn vì không biết bắt đầu từ đâu và trình bày ý như thế nào? Do đó, 3 mẫu đánh giá tinh thần nhân đạo trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc dưới đây sẽ chắc chắn giúp ích rất nhiều để các bạn hoàn thiện bài viết của mình một cách nhanh chóng, đầy đủ nhất.
Cấu trúc phân tích tinh thần nhân đạo
1. Bắt đầu
- Hình tượng của người anh hùng nông dân từ xa xưa luôn là nguồn cảm hứng về nhân đạo cho nhiều tác giả văn học, trong đó có Nguyễn Đình Chiểu.
- Trong tác phẩm Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Nguyễn Đình Chiểu đã khắc họa một tượng đài oai hùng về người nông dân Việt Nam, với phẩm chất và đức tính cao quý, qua đó thể hiện tinh thần nhân đạo sâu sắc.
2. Phần chính
* Tinh thần nhân đạo được thể hiện qua việc xây dựng hình tượng người anh hùng nông dân
- Với những phẩm chất đức độ, tư thế dũng cảm, và lòng kiêng kỷ,
+ Những người nông dân xưa chỉ biết cày cấy trên cánh đồng, nhưng bây giờ họ đã tình nguyện đi ra chiến trường, đối mặt với kẻ thù.
+ Đối diện với nguy cơ đất nước bị đe dọa, họ sẵn lòng từ bỏ ruộng đất để bảo vệ Tổ quốc khi 'Âm vang súng giặc như tiếng mõ quê hương'.
- Tấm lòng trung thành của những người nông dân anh hùng với đất nước:
+ Họ chiến đấu một cách im lặng, không ngần ngại hy sinh bản thân vì Tổ quốc.
+ Luôn tôn vinh tinh thần 'Dù tiếng vang như tiếng mõ quê hương cũng không bằng'.
*Tinh thần nhân đạo hiện lên trong việc tôn trọng, khen ngợi vẻ đẹp của những anh hùng dân tộc.
- Trong triết lý của Nguyễn Đình Chiểu, họ là những người nông dân chất phác, hiền hậu, siêng năng, cần cù, ân cần 'Nhớ quê... gian khổ' nhưng tinh thần của họ luôn bùng nổ mãnh liệt, mạnh mẽ.
- Khi giặc địch xâm lược quê hương, họ trở nên kiên quyết, dũng cảm hơn bao giờ hết với tâm trạng căm hờn sâu sắc 'Thấy giặc muốn ra cắn cổ'.
=> Tình yêu quê hương, tổ quốc, sự căm hận kẻ thù đã biến thành hành động quả cảm 'ăn gan, cắn cổ',...
=> Tính nhân văn được thể hiện thông qua lý tưởng chiến đấu cao cả, tinh thần bất khuất của nhân dân khi đối mặt với gian khổ.
* Tinh thần nhân đạo như một âm điệu hùng vĩ, dành riêng cho những anh hùng dũng cảm đã hi sinh vì sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
- Người nông dân từng hiền lành, chân chất bỗng trở thành những chiến sĩ => Sức mạnh của niềm tin, hy vọng vào tương lai đã trở thành nguồn động lực, năng lượng bất tận cho đội quân.
- Người nông dân vốn sống giản dị nhưng khi đất nước gặp khó khăn, họ trở thành những chiến sĩ dũng cảm với tinh thần đoàn kết cao cả nhất.
- Sự hy sinh của những người chiến sĩ: 'Thà chết trong một lần đánh... trong tay kẻ thù đầy rẫy làm sao.'
+ Mong ước nhỏ bé 'thà chết hết, còn hơn sống nhục nhã': Hi sinh trong trận đánh, chết một cách vinh quang còn hơn sống dưới bóng dòng địch, bị bóp méo, mất lòng tự trọng.
+ Dù thân xác họ có lụi tàn trong cát bụi, nhưng công lao và sự hy sinh dũng cảm của họ sẽ sống mãi trong trái tim chúng ta.
3. Kết luận
- Tái khẳng định vấn đề cần thảo luận: Tinh thần nhân đạo của Nguyễn Đình Chiểu trong việc vẽ hình ảnh của người chiến sĩ Cần Giuộc.
Phân tích tinh thần nhân đạo - Mẫu số 1
Văn tế Nghĩa sĩ Cần Giuộc là một tác phẩm tiêu biểu cho phần văn thơ yêu nước chống Pháp của Nguyễn Đình Chiểu. Đây là lần đầu tiên hình tượng anh hùng nông dân yêu nước chống giặc ngoại xâm được đưa vào văn học Việt Nam với sự tươi đẹp rực rỡ nhất.
Văn tế Nghĩa sĩ Cần Giuộc là tiếng khóc của dân tộc, rơi lệ cho những người nông dân anh hùng hy sinh trong cuộc chiến giành lại quê hương từ tay kẻ thù. Nhờ âm thanh đau lòng ấy, Nguyễn Đình Chiểu đã khắc họa nên một tượng đài nghệ thuật vĩ đại về những người nông dân yêu nước chống giặc ngoại xâm. Điều này thể hiện tinh thần nhân đạo sâu sắc trong văn của ông.
Trước thất bại bi thảm, người nông dân ở Cần Giuộc vẫn được tác giả vẽ nên hình ảnh cao cả, tư thế dũng mãnh, can đảm.
Tinh thần yêu nước của người nông dân phản ánh qua vẻ đẹp rực rỡ của những nghĩa sĩ anh dũng cứu nước. Mặc cho họ đối diện với cảnh tử thần bi kịch, họ vẫn tỏa sáng với vẻ đẹp hùng vĩ, sức mạnh của sử thi.
Nguyễn Đình Chiểu đã tạo ra một tượng đài nghệ thuật bằng cách kể lại câu chuyện về những người nông dân yêu nước chống Pháp, một câu chuyện chưa từng có trong văn học Việt Nam.
Ca ngợi vẻ đẹp của anh hùng, ca tụng những phẩm chất của người nông dân: hiền lành, cần cù, giản dị, chất phác, gắn bó với ruộng đất quê hương, yêu thương cuộc sống an bình, không quen biết với chiến tranh.
Khen ngợi lòng dũng cảm của người lao động khi họ chống lại quân giặc, bảo vệ quê hương mặc cho sự bất trách của triều đình.
Khen ngợi mục tiêu và động lực của người nông dân chiến đấu, tuân thủ đạo lý của dân tộc. Họ chiến đấu để bảo vệ đất đai, nơi sản sinh ra mùa màng, nơi truyền thống của gia đình. Họ chiến đấu với ý thức rõ ràng và thiết thực của người nông dân Việt Nam.
Khen ngợi lòng tự nguyện của người nông dân tham gia chiến đấu, vì độc lập của quê hương và để không phải chịu sự bất công. Họ đã từ những người nông dân bình thường trở thành những người chiến đấu vì một nguyên tắc lớn lao, tự nguyện đánh giặc để bảo vệ quê hương.
Khẳng định vẻ đẹp của người nông dân khi họ trở thành người lính giữ nước, với tinh thần và quyết tâm chiến đấu cao cả. Tình yêu quê hương đã thúc đẩy họ thực hiện những chiến công kỳ diệu, hy sinh anh dũng.
Trân trọng và tôn vinh người lính nông dân trong trận chiến, tác giả mô tả sức mạnh và quyết tâm của họ khi đối mặt với nguy hiểm, họ đáp lại tiếng gọi của lòng yêu nước. Nguyễn Đình Chiểu đã sử dụng các từ ngữ dồn dập, súc tích để diễn tả sự kiên định của người lính khi bước vào trận địa.
Khám phá vẻ đẹp của những người nông dân bình thường sống sau rừng tre xanh, vì lý tưởng cao cả mà họ đã trở thành anh hùng, linh hồn của cuộc chiến bảo vệ quê hương. Họ trở thành biểu tượng lý tưởng được tôn vinh từ mọi thời đại.
Mô tả nỗi đau khổ, sự mất mát của những người sống trong lòng đau xót khi nhìn thấy sự hy sinh của người anh hùng Cần Giuộc.
Nỗi đau thương, mất mát của những người dân gốc, của quê hương và thiên nhiên trước sự hy sinh của các anh hùng Cần Giuộc.
Khen ngợi, tiếc thương bằng sự đau lòng bi ai. Sự tiếc thương được thể hiện thông qua hình ảnh của cây cỏ, của đất trời đều chìm trong màu tang tóc, gục ngã trước tinh thần hy sinh vĩ đại của những người nông dân.
Văn tế Nghĩa sĩ Cần Giuộc thực sự là một bản ca bi kịch thể hiện lòng ngưỡng mộ và tiếc thương sâu sắc của cả dân tộc đối với những người nông dân yêu nước. Tác giả đã diễn tả điều này bằng ngôn từ cảm động, xúc động và đầy đau buồn.
Khen ngợi, xác nhận quan điểm về cuộc sống của người lính nông dân và xác nhận tình yêu vĩnh cửu dành cho nghĩa sĩ Cần Giuộc.
Khen ngợi những anh hùng có quan điểm về sống chết chính đáng, cao quý: Thà mất mạng cũng không làm kẻ thù thoát khỏi.
Bởi vì lý tưởng cao cả, những người anh hùng đã quên đi bản thân, sẵn sàng hy sinh trong trận chiến cho quê hương, đất nước, bất kể tình huống nào: Sống là đánh giặc, chết cũng đánh giặc...
Tiếc thương và ngưỡng mộ, Nguyễn Đình Chiểu đã khẳng định sự bất tử của những người anh hùng trong trái tim của nhân dân.
Lần đầu tiên người nông dân vì lý ideal được tôn trọng sâu sắc và phản ánh một cách toàn diện trong văn học.
Trước đây, trong Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi cũng đã đề cập đến người nông dân trong tác phẩm của mình, nhưng vẫn còn mơ hồ, không cụ thể như những người dân ấp, dân lân của Nguyễn Đình Chiểu.
Trong Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô gia văn phái cũng có hình ảnh của người lính 'trung quân' dưới sự chỉ huy của người anh hùng Quang Trung chiến đấu vì sự tự do độc lập của đất nước, tuy nhiên vẫn thiếu sâu sắc.
Người lính nông dân của Nguyễn Đình Chiểu được thể hiện qua sự chiến đấu không đồng minh, hi sinh cho lý tưởng cao đẹp nhưng bị bỏ rơi bởi triều đình. Dù thất bại trong cuộc chiến, cái chết của họ lại là tia lửa sáng cho thế hệ sau tiếp tục chiến đấu.
Tình cảm của Nguyễn Đình Chiểu dành cho người nông dân là biểu hiện của lòng yêu nước, quan điểm chống Pháp sâu sắc của tác giả.
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là một tác phẩm bất hủ, tồn tại mãi với thời gian và lịch sử dân tộc nhờ vào tâm hồn nhân đạo của nhà thơ đối với người nông dân yêu nước.
Phân tích tinh thần nhân đạo - Mẫu 2
Người anh hùng nông dân đã luôn là nguồn cảm hứng nhân đạo cho nhiều tác giả. Họ thể hiện sức mạnh tinh thần, là hình mẫu lý tưởng của người dân.
Nguyễn Đình Chiểu, một nhà nho yêu nước, viết 'Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc' để thể hiện lòng biết ơn và tôn trọng đối với những người đã hy sinh cho độc lập tự do.
Tinh thần nhân đạo của người nông dân anh hùng thể hiện qua hình ảnh của họ: dũng cảm, kiên định, không sợ khó khăn.
'Súng giặc đất rền, lòng dân trời tỏ. Mười năm công vỡ ruộng, chưa ắt còn danh nổi như phao. Một trận nghĩa đánh Tây, tuy là mất tiếng vang như mõ.'
Lúc đất nước bị đe dọa, tinh thần quật cường của nhân dân dâng cao như làn sóng đánh tan mọi âm mưu xâm lược. Tình yêu quê hương thấm đẫm trong lòng họ, là chứng cớ cho lòng trung thành với đất nước.
Tác giả ca ngợi vẻ đẹp của người anh hùng nông dân, xem họ như biểu tượng của đức tính quý báu và tốt đẹp của con người.
'Nhớ linh xưa, cui cút làm ăn, toan lo nghèo khó.' Cuộc sống gắn liền với lao động, tích lũy và yêu chuộng hòa bình.
Người nông dân sống bên cày kéo, chỉ biết làm việc cật lực, tích góp và yêu chuộng hòa bình. Khi đối diện với nguy cơ, họ trở thành những chiến binh mạnh mẽ sẵn sàng đối đầu với kẻ thù.
'Bữa thấy bòng bòng che trắng lốp; muốn tới ăn gan. Ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ.'
Tương tự như Thánh Gióng, từ một cậu bé không biết nói không biết cười, khi nghe tin giặc xâm lược, anh ấy bỗng trở nên mạnh mẽ như gió. Bản tính chân thật, thiện lương của người nông dân khi đối mặt với bè lũ ác đã biến họ thành đội quân vững mạnh, mang tinh thần bất diệt.
Tinh thần nhân đạo trong 'Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc' như một bản nhạc hùng vĩ dành cho những chiến sĩ dũng cảm đã hy sinh cho sự nghiệp lớn lao. Với lối viết đầy cảm xúc, Nguyễn Đình Chiểu vừa tôn vinh, vừa biểu hiện sự tiếc nuối và nhớ nhung về lòng hiếu nghĩa của họ.
'Chi nhọc quan quản gióng trống kì; trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không.'
'Nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có.'
'Bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu đồng súng nổ.'
Bản hùng ca của người chiến thắng, của những anh hùng, vượt qua cả những nỗi lo sợ đơn thuần, không quan trọng về sự chênh lệch vũ trang. Chỉ cần có tinh thần, có ý chí quyết tâm, sẽ thành công. Mỗi câu văn đều đong đầy hào hùng, tráng lệ. Những người nông dân hiền lành ngày nay lại hoàn toàn có thể chiến đấu như những người lính trong quân đội. Chính sức mạnh tinh thần, niềm tin bất diệt vào chiến thắng trong tương lai đã trở thành nguồn động viên, nguồn năng lượng vô hạn. Hình tượng người anh hùng áo vải, người nghĩa sĩ nông dân giống như một bức tranh lan tỏa cảm xúc, khiến người đọc dường như được hòa mình vào cái bất diệt của đội quân ra trận. Không chỉ là riêng lẻ một cá nhân, một cái tên anh hùng cụ thể, mà đây là làn sóng dân tộc, là khối sức mạnh toàn dân đoàn kết. Giống như những vần thơ của Nguyễn Khoa Điềm:
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước
Những người nông dân sống một cuộc đời giản dị, không đòi hỏi, không trang đấu, nhưng khi đất nước gặp khó khăn, chính họ lại là những người tiên phong đấu tranh mạnh mẽ, không ngại đánh đổi cả máu và nước mắt để bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ tổ quốc. Không gì quý hơn nhân dân, họ chính là cốt cách, là nền tảng, là nguồn sức mạnh của một quốc gia. Không có nhân dân, không có đất nước, không có khí thế hào hùng để đánh bại mọi bè lũ gian ác cướp bóc.
Đỉnh cao của tính nhân văn trong tác phẩm là những câu thơ thể hiện sự sẵn sàng hi sinh của những người chiến sĩ:
Thà thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh
Hơn còn mà chịu chữ đầu Tây, ở với man di rất khổ
Những lời ca tụng gần như đã trở nên trọn vẹn, khi để cho chính những người lính bộc lộ ra ước vọng 'thà chết vinh còn hơn sống nhục', thà một lần đánh giặc rồi hi sinh, chết đi còn nở mày nở mặt, hơn là ở với lũ giặc ngoại xâm 'man di', mọi rợ. Xét trên hoàn cảnh thực tế, hai mươi chiến sĩ nằm xuống, hai mươi có thể là con số nhỏ so với một đại quân, nhưng đây là hai mươi người nông dân hiền hậu, chân lấm tay bùn, chiến đấu vì nghĩa vụ cao cả của đất nước. Khi người ta không còn coi nặng cái chết nữa là khi con người trở nên bất tử, khi tính mạng còn được đặt dưới cả độc lập dân tộc thì những con người ấy xứng đáng được tôn làm đại trượng phu. Thân xác họ có thể đã được chôn vùi, tâm hồn họ có thể về với cát bụi, nhưng hình ảnh và công lao của họ sẽ mãi mãi bất tử trong lòng những người còn ở lại.
Qua hình tượng người nông dân anh hùng, tác giả đã thể hiện sự yêu thương, kính trọng đối với những người dân bất chấp nguy hiểm, đi theo tiếng gọi của trái tim, của tinh thần dân tộc. Vẻ đẹp tiềm ẩn của những người nông dân đã trở thành hình ảnh anh hùng, xứng đáng được người đời ca tụng. Bằng giọng văn hùng tráng cùng lối viết vừa gần gũi, vừa trang nghiêm, vừa mang tính nhạc, vừa đậm chất tình, tác giả không chỉ đẽo gọt thành công bức tượng đài người nông dân kiên cường mà qua đó, ông khéo léo nhắn nhủ tâm tư, tình cảm của mình, một sự kính trọng cho thế hệ đàn anh đi trước.
Trong thời kì văn học Trung đại, khi phần lớn các tác phẩm văn học đều ca ngợi sự trị vì của Vua chúa, để bày tỏ sự trung kính của bậc tôi tớ hoặc thơ ca của những đạo sĩ ẩn dật, 'Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc' giống như một bản hùng ca bi tráng dành cho những người nông dân. Tính nhân đạo thể hiện qua hình tượng người anh hùng không quản gian khổ, vẻ đẹp sức vọng cũng như tâm hồn cùng mục đích chiến đấu cao cả của người tráng sĩ nhân dân. Không đơn thuần chỉ là một bài văn tế, Nguyễn Đình Chiểu còn qua đó còn kêu gọi toàn dân đứng lên chống giặc, đánh đuổi quân xâm lược, bảo vệ tổ quốc.
Phân tích tinh thần nhân đạo - Mẫu 3
“Chết là hết”, người đời thường nói vậy. Và cuối cùng ai cũng phải chết. Nhưng có những cái chết “không một tiếng vang”; lại có những cái chết để “tiếng thơm muôn thuở”. Người nghĩa sĩ Cần Giuộc năm xưa đứng dậy chống Pháp đã lựa chọn cái chết thật đẹp: “Thác mà trả nước non rồi nợ, danh thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen; Thác mà ưng đình miếu để thờ, tiếng ngay trải muôn đời ai cũng mộ”. Có thể nói toàn bộ bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là “khúc ca của những người thất thế nhưng vẫn hiên ngang” (Phạm Văn Đồng).
Thế là đã hơn một thế kỉ trôi qua. Cuộc khởi nghĩa của những người nông dân Cần Giuộc đã thất bại. Họ phải ngã xuống giữa chiến trường trong cảnh “da ngựa bọc thây', “xác phàm vội bỏ”. Họ là những người thất thế, đúng như vậy. Nhưng bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu đã làm họ “sống lại” trong những hình tượng đầy khí phách hiên ngang. Những tấm gương đại nghĩa vằng vặc như trăng sao ấy đã tạo cho bài Văn tế âm hưởng của một khúc ca bi tráng. Người nghĩa quân cần Giuộc vốn chỉ là những nông dân hiền lành, quanh năm: “Cui cút làm ăn, toan lo nghèo khó, chưa quen cung ngựa đâu tới trường nhung...”. Ấy thế mà khi giặc đến, họ liền trở thành những dũng sĩ. Ở họ, nhà thơ nhấn mạnh tinh thần hoàn toàn tự nguyện, tự giác:
Nào đợi ai đòi, ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình;
Chẳng thèm trốn ngược, trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ.
Trong khi triều đình khiếp nhược, chỉ tính bài nhượng bộ, đầu hàng thì họ đã tự động đứng dậy. Tinh thần: “Mến nghĩa làm quân chiêu mộ” của những người dân cày này thật đáng khâm phục. Cuộc chiến đấu của họ tất nhiên là đầy khó khăn: Lực lượng địch, ta quá chênh lệch, thiếu kĩ thuật quân sự, thiếu quân trang, vũ khí. Đoàn nghĩa quân nông dân chân đất nghèo khổ, lam lũ này gần như đi thẳng đến chiến trường từ những túp lều rách nát và những luống cày của họ, không cờ treo, trống giục, không mũ nón, không giáp trụ, cũng chẳng gươm giáo, cung tên...
Ngoài cật có một manh áo vải, nào đợi mang bao tấu bầu ngòi
Trong tay cầm một ngọn tầm vông, chị nài sắm dao tu, nón gõ
Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi”, “gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay.
Thế mà họ đã làm cho kẻ thù thất điên bát đảo, khiến cho “mã tà ma lí hồn kinh”. Sức mạnh của họ không có gì khác ngoài sức mạnh tinh thần. Họ đã lấy gan vàng đọ với đạn sắt, lấy lòng căm hờn chống lại “tàu thiếc, tàu đồng. Nguyễn Đình Chiểu không quên họ là những nông dân: “Mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm, ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ“. Người dân cày vốn hiền lành, nhưng một khi lòng yêu nước ở họ được khơi dậy thì sức mạnh căm thù trở nên thật dữ dội:
Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan;
Ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ
Ông căm thu ấy đã mang đến cho họ lòng đồng cảm và sức mạnh phi thường. “Kẻ đâm ngang, người chém ngược”, họ tả xung hữu đột, tung hoành ngang dọc như ở chỗ không người: “Đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có”.
Nguyễn Đình Chiểu đã ca ngợi những nghĩa sĩ nông dân bằng những hình tượng sáng ngời và những lời nói trang trọng, đẹp đẽ. Nhưng ông không che giấu sự thật đau lòng. Bài văn còn là lời ai điếu, là tiếng khóc của Đồ Chiểu trước sự thất bại và cái chết của nghĩa quân Cần Giuộc. Cái chết của họ khiến cho con người, đất trời, cây cỏ cũng phải động lòng:
Đoái sông Cần Giuộc, cỏ cây mấy dặm sầu giăng.
Nhìn chợ Trường Bình, già trẻ hai hàng lụy nhỏ.
Lắng nghe trong lời văn của Đồ Chiểu như có tiếng khóc, tiếng nấc nghẹn ngào:
Ôi không! Không nữa!
Chùa Tông Thạnh trong bóng tối, tấm lòng son gửi lại ánh trăng rằm; đồn Lang Sa một khắc đáp trả hờn, tủi phận bạc trôi theo dòng nước đổ.
Đau lòng quá! Mẹ già ngồi khóc muộn, ngọn đèn khuya lung linh trong lều; Tuyệt vọng thôi! Vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng đêm lả tả trước ngõ.
Cái bi kịch nặng trĩu trên cả đoạn thơ, nhưng nó không phải là bi kịch thảm mà là bi kịch hùng tráng. Đây là nỗi đau lớn vì Tổ quốc, vì nhân dân. Đau mà không làm người ta chùn bước, thất vọng, mà làm cho mọi người dũng cảm đứng lên. Cuộc khởi nghĩa đã thất bại. Nhiều nghĩa quân đã phải ngã xuống. Nhưng chết vinh còn hơn sống nhục: Thà thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh; hơn còn mà chịu chữ đầu Tây, ở với man di rất khổ.
Chết như vậy thì chết cũng như sống, vì “danh thơm đến sáu tỉnh chúng đều khen”, “tiếng hay trải muôn đời ai cũng mộ”. Chết như thế để lại tấm gương rạng rỡ, có sức mạnh động viên lớn đối với cuộc chiến sẽ tiếp tục:
Chiến đấu với kẻ thù, thác cũng không từ chối, hồn lửa đồng lòng cùng binh sĩ...
Khen ngợi anh hùng chống Mỹ, Nguyễn Văn Trỗi, nhà thơ Tố Hữu viết:
Có những khoảnh khắc viết nên lịch sử
Có sự hy sinh trở thành bất tử.
(Hãy ghi nhớ điều này)
Đó là cái chết của những người dũng sĩ Cần Giuộc, những con người “bất khuất dù gặp bất lợi” được phản ánh trong bài thơ Văn tế bi tráng của Nguyễn Đình Chiểu. Tri ân nhà thơ mù Đồ Chiểu đã với tấm lòng và tài năng nghệ thuật làm sống lại một thời kỳ đau buồn nhưng hùng vĩ. Ông đã biến họ thành những linh hồn bất tử, khắc dựng họ thành một tượng đài vững chãi và cao quý trong thơ và trong lòng người đọc mãi mãi.