Văn mẫu lớp 11: Thuyết minh về bài thơ Sở kiến hành của Nguyễn Du là một đề tài hấp dẫn để viết văn thuyết minh về một tác phẩm văn học.

Thuyết minh về bài thơ Sở kiến hành của Nguyễn Du mang lại một ví dụ văn mẫu xuất sắc và được nhiều bạn học sinh giỏi chọn làm đề tài. Điều này cung cấp nhiều tư liệu học tập hữu ích, giúp học sinh củng cố kiến thức và rèn luyện kỹ năng viết văn thuyết minh về tác phẩm văn học. Ngoài ra, bạn có thể tham khảo thêm dàn ý thuyết minh về tác phẩm văn học khác.
Viết văn thuyết minh về bài thơ Sở kiến hành của Nguyễn Du
Ngoài Truyện Kiều, Nguyễn Du còn để lại ba tập thơ chữ Hán khác: Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm, và Bắc hành tạp lục. Bộ tập thơ Bắc hành tạp lục gồm những bài thơ được sáng tác khi Nguyễn Du đang phục vụ tại Trung Quốc (năm 1813).
Bài thơ 'Những điều trông thấy' (Sở kiến hành) được rút từ tập thơ Bắc hành tạp lục. Với tinh thần nhân đạo, Nguyễn Du đã phản ánh hai khía cạnh đối lập trong xã hội phong kiến thối nát và bất công. Cảnh đời nào cũng đem lại nhiều cảm xúc sâu sắc cho độc giả. Bài thơ sử dụng thể thơ 'hành' và ngũ ngôn trường thiên. Nhà thơ mô tả chi tiết hiện thực và diễn đạt cảm xúc của mình trước những điều trông thấy ở một nơi xa lạ.
Cảnh đời thứ nhất trong bài thơ là hình ảnh của một gia đình bốn người ăn mày: 'Một bà mẹ cùng ba đứa con - Lê la bên đường này'. Họ mang theo một chiếc giỏ chứa 'mớ rau kèm tấm cám'. Người mẹ ôm con nhỏ; đoàn người đi nhặt rác trông khốn khổ, bẩn thỉu. Bụng đói, áo quần rách rưới đáng thương:
'Nửa ngày bụng trống rỗng
Áo quần bạc phơ, dơ bùn.'
Do 'đói khát phải lênh đênh', người mẹ càng thương con thơ. Buồn rầu và đau khổ. Nước mắt rơi không ngớt: 'Gặp người không dám nhìn - Lệ ướt vạt áo rơi'. Nhà thơ cảm thấy xót xa trước cảnh đời cay đắng và đầy bất hạnh, tự hỏi, người mẹ kia 'nuôi bốn miệng sao chịu nổi!'. Sự vắng bóng của người chồng, người cha trong đoàn người ăn mày làm chúng ta cảm thấy thương tâm. Họ đã chết đói, đi lính biên phòng xa xôi? Hay đã nằm yên trên chiến trường? Một bóng tối u ám phủ lên bức tranh của gia đình bốn người ăn mày.
Nguyễn Du không chỉ mô tả, ghi lại những điều trông thấy, mà còn diễn đạt cảm nghĩ sâu sắc của lòng mình. Ông lo lắng và đau xót cho số phận của người mẹ và đàn con thơ khốn khổ, đói rét. Trước mắt họ là một thảm họa. Nếu không chết đói, họ sẽ trở thành mồi cho thú dữ:
'Khi qua đời, lăn ra giữa đường
Thân thịt béo phì làm đầy bụng sói.'
Trước nỗi đau của con người, cả đất trời đều chìm vào cảnh tĩnh lặng. Cơn gió lạnh càng trở nên lạnh hơn. Ánh nắng mặt trời vàng óng lại mờ nhạt. Người đi xa, những du khách qua đường, đều mang theo nỗi đau thương, tạo nên một không gian ngập tràn nước mắt. Nỗi đau của người mẹ 'như thể đang xé nát trái tim'. Nguyễn Du sử dụng bức tranh của tự nhiên (gió, mặt trời) để làm nổi bật nỗi đau của nhân loại. Điều này làm cho bức tranh về bốn mẹ con người ăn mày trở nên sâu sắc hơn, và đầy tình thương nhân đạo:
'... Nỗi đau như đang xé nát trái tim
Mặt trời vàng óng dần phai nhạt.
Chiếc gió lạnh bỗng thổi đến
Những người qua đường đều cảm thấy thương xót.'
Nguyễn Du, với tình cảm nhân đạo, luôn quan tâm đến những người phụ nữ gặp khó khăn trong cuộc sống, đặc biệt là những người như Đạm Tiên. Thúy Kiểu, một người kĩ nữ từ Long Thành, v.v... Đây là lần thứ hai ông viết về những người ăn mày đau khổ. Trong 'Văn chiêu hồn' ông đã viết:
'Cũng có những người nằm sấp trên đất
Theo dõi ngày tháng lưu lạc khắp nơi.
Rất đáng thương cho cuộc sống của họ
Sống bám dính ở nơi xa lạ, chết bị chôn vùi dưới bãi cỏ.'
Phần kế tiếp, Nguyễn Du miêu tả về cuộc sống của các quan lại qua buổi tiệc tại trạm Tây Hà - một buổi tiệc tiếp đón sứ thần của nước Nam. Nguyễn Du đang làm chức vụ chánh sứ. Vì vậy, những điều ông miêu tả trong buổi tiệc là 'những điều ông đã nhìn thấy' rất thực tế. Bàn tiệc đầy đủ các món ăn cao cấp: 'Cá, gân hươu và lợn dê - Mâm ăn đầy ắp'. Điều này là một phản ánh rõ ràng về sự bất công trong xã hội. Trong khi bốn mẹ con người ăn mày vẫn 'nửa ngày mà không no', sống nhờ vào mảnh vườn rau, thì các quan lại sống xa hoa, lãng phí:
'Quan lớn không nên gặp đũa
Người bình thường chỉ được nếm thử ít
Thức ăn thừa thì bị vứt đi
Chó cũng cảm thấy chán ngấy với những món ngon này.'
Sự nghịch lý của cuộc sống trở nên vô cùng đau lòng. Câu thơ cảm thán diễn tả nỗi đau đời - nỗi đau như vòi xé tâm hồn của nhà thơ. Đó là 'những điều mà ông đã nhìn thấy mà làm đau lòng':
'Không ai biết có thể có
Những người mẹ con đang chịu đựng sự khổ sở vô tận bên con đường của quan lại!'
Trước hai cảnh đời trái ngược như vậy, hai câu thơ cuối như một câu hỏi tự nhiên nhưng ẩn chứa một ý nghĩa phê phán sâu sắc:
'Ai vẽ cảnh này
Dành tặng nhà vua sáng tạo!'
Nguyễn Du đã sáng tạo một câu chuyện từ văn hóa Trung Hoa. Dưới thời nhà Tống, khi Vương An Thạch làm tể tướng, đất đai không sinh lời, dân chúng chịu đói. Họ phải bán nhà cửa. Người nghèo đói kéo nhau ra đường. Trịnh Hiệp, người giữ cổng thành, đã vẽ một bức tranh ghi lại tình hình đó, cố gắng dành tặng vua nhà Tống... Điển tích này tạo ra một câu chuyện văn học sâu sắc, phức tạp, đầy thú vị và sâu sắc. Trong thực tế, Nguyễn Du đã 'vẽ cảnh này' với hai mảnh đời khác biệt bằng trái tim nhân đạo. Bài thơ không chỉ nói về 'những điều ông thấy trên lãnh thổ Trung Hoa', mà còn ám chỉ rất rõ ràng. Xã hội phong kiến Trung Quốc và xã hội Việt Nam dưới thời nhà Nguyễn đều đầy bất công. Các vua chúa, quan lại sống xa hoa, tận hưởng niềm vui trên nước mắt, mồ hôi của nhân dân. Hàng triệu người dân nghèo đói bị đẩy vào cảnh nghèo khó.
'Ai đã vẽ ra cảnh này - Tặng cho nhà vua thấy!' - Nguyễn Du đã mượn điển tích để đặt câu hỏi, nhưng ông đã mô tả cảnh đó với hai khía cạnh của cuộc sống 'người ăn không hết và người lần không ra' - một cảnh tượng được tạo ra bởi ngôn từ thơ ca. Cảnh thực tế sống động có ý nghĩa phê phán về sự bất trách nhiệm của các vua quan trước nỗi khổ của dân chúng. Nhà thơ đã thể hiện một sự thật đau lòng về quyền sống và hạnh phúc của những con người giản dị trong xã hội. Cách viết miêu tả chân thực, sự tự sự kết hợp với biểu lộ cảm xúc trực tiếp, sâu sắc trong việc sáng tạo điển tích văn học đã tạo ra giá trị nhân văn của bài thơ này. Có thể nói, Nguyễn Du là nhà thơ cổ điển Việt Nam viết về nỗi đau của dân chúng một cách sâu sắc nhất và cảm động nhất.