So sánh tính cách của Thị Nở và người vợ nhặt để hiểu sâu hơn về tâm hồn của phụ nữ. Qua đó, chúng ta có thể nhận thức được những đặc điểm chung của phụ nữ Việt Nam cũng như những đặc thù và sáng tạo riêng biệt của họ.

Những người phụ nữ Việt Nam trong quá khứ đã phải trải qua những thử thách từ xã hội và chiến tranh, và Thị Nở cùng người vợ nhặt trong hai tác phẩm cũng không ngoại lệ. Dưới đây là dàn ý và 2 bài văn mẫu liên quan đến người vợ nhặt và nhân vật Thị Nở, mời bạn đọc theo dõi tại đây.
Dàn ý so sánh nhân vật Thị Nở và người vợ nhặt
I. Khai mạc:
- Giới thiệu về sự đặc biệt của Nam Cao và Chí Phèo, Kim Lân và truyện ngắn Vợ nhặt.
- Khám phá những đặc điểm riêng của từng tác giả.
II. Nội dung chính:
1. Đặc điểm đặc biệt của Chí Phèo trong tác phẩm của Nam Cao:
- Cuộc sống đầy gian khổ của người nông dân: Chí Phèo từ khi còn trẻ đã phải trải qua những ngày tháng cô đơn, không gia đình, không mái ấm, làm công anh canh cho gia đình của Bá Kiến sau đó bị giam vào tù.
- Bị thúc đẩy vào con đường cám dỗ, trở thành kẻ phạm tội, bị hủy hoại về cả tinh thần lẫn thể chất, bị đẩy ra khỏi xã hội của con người, trở thành biểu tượng của sự tà ác trong làng Vũ Đại.
- Khi nhận ra giá trị của con người, Chí Phèo mong muốn quay trở lại cuộc sống đạo đức, nhưng bị xã hội của làng Vũ Đại tàn nhẫn từ chối. Chí Phèo đối diện với cái chết đau đớn sau khi bị từ chối quyền làm con người.
- Thông qua nhân vật Chí Phèo, Nam Cao tái hiện một phần cảnh xã hội phổ biến tại nông thôn Việt Nam trước Cách mạng, một phần của những người lao động tốt lành bị đẩy vào con đường của tội ác và bất hạnh.
2. Phân tích đặc biệt của Kim Lân trong truyện Vợ nhặt
- Hoàn cảnh khó khăn của mẹ con Tràng (dân nghèo, sống trong đói khổ, không có chồng, dáng đi uể oải..)
- Cảnh tượng đau buồn của người dân nông thôn trong thời kỳ nạn đói kinh hoàng năm 1945.. Hình ảnh vợ Tràng ngồi vắt vẻo bên bóng lúa, khuôn mặt bừng bừng mồ hôi.. câu chuyện nhặt được vợ của Tràng và cảnh rước nàng dâu về nhà chồng đã làm lộ ra sự khốn khổ và bi thảm.
3. Kết thúc của hai tác phẩm
a. Sự khác biệt
- Trong tác phẩm “Chí Phèo”, việc tái hiện hình ảnh cái lò gạch đã từng xuất hiện ở phần đầu của câu chuyện khi nghe tin Chí Phèo qua đời, Thị Nở nhìn xuống phần bụng và trong tâm trí Thị xuất hiện hình ảnh của cái lò gạch bỏ hoang và không còn ai qua lại.
- Trong truyện “Vợ nhặt”, kết thúc với hình ảnh Tràng thấy trong tâm trí: một nhóm người phá kho thóc của Nhật, cờ đỏ của Việt Minh vẫy tung. Hình ảnh này tương phản với cảnh sống khốn khổ của người nông dân mà câu chuyện đã miêu tả ở những phần trước.
b. Giải thích về nguyên nhân của sự khác biệt.
- Bởi vì điều kiện sáng tác và bối cảnh lịch sử : “Chí Phèo” được viết trước Cách Mạng (viết năm 1940, in năm 1941) trong thời điểm tăm tối của xã hội Việt Nam thời kỳ đó. Trong khi đó, “Vợ nhặt” được sáng tác sau năm 1945 khi dân chúng đã trải qua giai đoạn cách mạng giải phóng.
- “Chí Phèo” phản ánh xu hướng văn học cách mạng từ sau năm 1945 và có vai trò và ý nghĩa cần thiết trong việc chỉ ra hướng phát triển tích cực của xã hội.
- Kết thúc của “Chí Phèo” mang tính chất ám ảnh, góp phần xây dựng cấu trúc tròn tròn, thể hiện sự khốn khổ của số phận người nông dân, đồng thời cho thấy sự tồn tại liên tục của hiện tượng như Chí Phèo trong xã hội cũ. Trong khi đó, kết thúc của “Vợ nhặt” mở ra một lối thoát cho số phận của các nhân vật, chỉ ra con đường sống của người nông dân và cho thấy rằng trong hoàn cảnh đói khát cùng nhau, những người nông dân bần cùng sẽ hướng đến cách mạng.
4. Phân tích sự đặc biệt, tư tưởng nhân văn của mỗi tác phẩm.
a. Tính chất của “Chí Phèo”
- Lên án những tội ác của xã hội cũ khiến những người nông dân lương thiện bị đẩy vào tình trạng đồi bại, trở thành lưu manh và mất đi cả phẩm chất và hình tượng con người, và khi cố gắng trở về với cuộc sống lương thiện, họ lại bị xã hội phản bội.
- Thể hiện sự thèm muốn quyền sống, quyền trở lại cuộc sống lương thiện cho những người đang chịu đựng cùng khổ trong xã hội.
- Phản ánh niềm tin và phẩm chất lương thiện của người lao động. Khẳng định khát khao lương thiện của họ ngay cả khi họ bị đẩy vào tình trạng lưu manh. Với “Chí Phèo”, Nam Cao là một nhà văn ủng hộ hoài bão về lương thiện của con người.
b. Tính chất của “Vợ nhặt”
- Sự đồng cảm với nỗi đau khốn khổ không lối thoát của người lao động như đang nằm sát bên bờ vực của cái chết.
- Khẳng định vẻ đẹp bản sắc của người lao động. Trong hoàn cảnh khốn khó đói khát, họ vẫn chia sẻ, giúp đỡ lẫn nhau.
- Thể hiện sự khao khát tốt lành đầy nhân văn của con người. Dù đối diện với cùng bước đường khó khăn, người lao động vẫn giữ lấy niềm tin; vẫn mong mỏi có một gia đình hạnh phúc, mong mỏi về cuộc sống, họ không suy nghĩ về cái chết mà chỉ nghĩ về sự sống.
II. Kết luận:
- Tái khẳng định vấn đề và đề cập đến ý nghĩa của nó.
So sánh nhân vật Thị Nở và người vợ nhặt - Mẫu 1
Khi đối chiếu nhân vật Thị Nở và người vợ nhặt trong hai tác phẩm lớn Chí Phèo (Nam Cao) và Vợ nhặt (Kim Lân), chúng ta sẽ thấy được hình tượng người phụ nữ trong văn học Việt Nam từ thời xa xưa luôn là điều được nhiều nhà văn quan tâm. Dù ở bất kỳ giai đoạn nào, mỗi nhà văn đều nỗ lực, khám phá và dành nhiều trang văn của mình để viết về người phụ nữ.
Có thể nhận thấy, đỉnh cao và thành công nhất khi viết về đề tài người phụ nữ đó là hình ảnh người vợ nhặt của Kim Lân và Chí Phèo của Nam Cao. Khi so sánh nhân vật Thị Nở và người vợ nhặt, ta sẽ nhận thấy ở hai nhân vật này có những điểm chung của người phụ nữ Việt Nam đồng thời mang những nét rất riêng và độc đáo.
Kim Lân là nhà văn chuyên về nông thôn, những điều gần gũi, mộc mạc và giản dị, gần gũi với con người. Truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân tái hiện nạn đói thê thảm của người nông dân nước ta năm 1945, đồng thời thể hiện vẻ đẹp của tình người và sức sống kỳ diệu của họ: gần bên cái chết, họ vẫn muốn sống, mong ước có một tổ ấm gia đình yêu thương và chia sẻ lẫn nhau.
Nội dung nhân đạo sâu sắc, cảm động thể hiện qua các tình tiết truyện độc đáo, cách kể chuyện hấp dẫn, miêu tả tâm lý tinh tế, dựng đối thoại sinh động. Không chỉ thành công với nhân vật Tràng, tác phẩm còn để lại nhiều suy nghĩ, trăn trở đối với nhân vật Thị. Thông qua nhân vật Thị, ta càng hiểu và đồng cảm hơn với tình cảnh của phụ nữ giai đoạn trước cách mạng tháng Tám.
Song song với Thi, Thị Nở của Nam Cao cũng gặp phải một số số phận không mấy may mắn. Nam Cao là nhà văn hiện thực xuất sắc trước Cách mạng tháng Tám. Tác phẩm Chí Phèo nêu lên số phận bi thảm của người nông dân nghèo mà đầy lương thiện đã bị xã hội thực dân phong kiến đẩy vào con đường lưu manh, tội lỗi không có lối thoát. Thị Nở là một trong những nhân vật trung tâm của tác phẩm, đóng góp phần thể hiện tư tưởng nhân đạo của tác giả.
Nhà văn là người đi cùng trong cuộc tìm kiếm vẻ đẹp khuất lấp ấy để trân trọng, nâng niu và cảm thông với những nỗi đau của nhân vật. Vì vậy khi so sánh nhân vật Thi và người vợ nhặt ta sẽ hiểu đồng thời khai phá và phân tích rõ nét hơn số phận cũng như vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ ở hai thời kỳ khác nhau.
Khi so sánh nhân vật Thi Nở và người vợ nhặt, ta sẽ thấy ở hai nhân vật này đều có một điểm chung đó là cả hai đều gặp phải số phận không may mắn, có những bi kịch riêng của cuộc đời mình.
Trước hết, về nhân vật Thi trong tác phẩm vợ nhặt, Thi là một người con gái gặp phải số phận không may mắn. Thi sống trong thời kỳ nạn đói đang lan rộng khắp xóm ngụ cư. Cảnh đói qua bút của Kim Lân khiến chúng ta rùng mình trước “xác người chết đói trải dài trên đường”, “người lớn xanh xao như những hình ảnh ma quỷ”, “không khí ngập tràn mùi hôi của rác rưởi và mùi chát của xác người”, từng cảm thấy kinh khiếp trước “tiếng quạ kêu thảm thiết”.
Không chỉ vậy, cô sẵn lòng theo đuổi Tràng về nhà chỉ qua vài lời nói đùa, sẵn lòng theo một người mà cô không biết rõ gia đình họ như thế nào. Thi theo Tràng vì đơn giản thôi, khát khao được sống, khát khao mưu cầu hạnh phúc.
Chết đói là điều chắc chắn, vì thế Thị cần một nơi để tránh xa khỏi cảnh đói. Điều này cũng là mong muốn bình dị của mọi người. Bản chất tốt đẹp của người con gái đã bị đói kinh khủng cuốn trôi, che phủ đi. Thật là đáng thương! Một người phụ nữ nghèo khổ, không có gì giá trị đứng cạnh một người đàn ông nghèo khổ, cùng chia sẻ cùng khổ là một đôi trời sinh. Trong khi có vẻ Thị là một người phụ nữ mạnh mẽ không kiêng nể, thực ra cũng rất yếu đuối và suy nghĩ như một người phụ nữ.
Không chỉ riêng Thị mà Thị Nở trong tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao cũng chịu số phận không may. Thị Nở là một người phụ nữ xấu xí, không được người ta công nhận. Trong mắt dư luận làng Vũ Đại, Thị là người không đáng giữ lại. Thị Nở nghèo khó, đói mắc. Cả làng Vũ Đại ai cũng biết Thị vì ngoại hình xấu xí và tình cảnh nghèo khó. Thị phải đi gánh nước thuê để kiếm sống qua từng ngày.
Thị cũng như Chí Phèo, không được ai yêu thương. Và có lẽ ẩn sau vẻ bề ngoài xấu xí kia là một trái tim ấm áp, đang từng ngày khao khát yêu và được yêu. Và có lẽ, điều bất hạnh nhất trong đời người là bị cả xã hội phỉ nhổ, chế giễu.
So sánh nhân vật Thị Nở và người vợ nhặt, ta không chỉ thấy số phận bất hạnh của họ mà qua đó ta còn thấy được rất nhiều điều tốt đẹp ở hai nhân vật này mà bút tài của nhà văn đã thể hiện được.
Đằng sau vẻ xấu xí, rách rưới của hai nhân vật này là một khát vọng sống mạnh mẽ. Nhân vật Thị Nở được vẽ qua cuộc gặp gỡ với Chí Phèo, qua chi tiết bát cháo hành, qua từng cử chỉ ân cần và lời thăm dò dành cho Chí. Có lẽ đây là đoạn văn đầy tình thương, là vẻ đẹp giữa những con người cùng khốn khổ, bế tắc trong xã hội.
Thị ân cần Chí, một tình cảm xuất phát từ trái tim với lòng đồng cảm sâu sắc, không toan tính và lợi ích. Đơn giản chỉ là tình yêu. Chí Phèo – kẻ quỷ ác của làng Vũ Đại, nhưng anh ta cũng là con người, cũng cần được yêu thương. Suốt cuộc đời này, anh ta cần có Thị – người phụ nữ mang đến sự ấm áp…
Với Thị, dù trong “Vợ nhặt” của Kim Lân, người vợ nhặt cũng vậy, Thị theo Tràng về chẳng qua cũng vì muốn tìm kiếm một mái ấm gia đình, một nơi được bao bọc trong tình yêu thương. Thị đã thúc đẩy trong Tràng hình ảnh lá cờ đỏ tung bay và đám người đói đi phá kho thóc của Nhật- đó là minh chứng rõ nhất cho khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc trong tâm hồn Thị.
Thị Nở là biểu tượng của sự khát khao tình yêu chân thành, đậm đà và mãnh liệt. Đây chính là tình cảm mà Chí vốn luôn mong muốn nhưng lại không có được.
Người đọc đã có nhiều ấn tượng với nhân vật Thị Nở của tác giả bởi ngòi bút “nghệ thuật vị nhân sinh” này. Giá trị nhân văn của câu chuyện chính là tấm lòng từ bi, yêu thương và đồng cảm đã chăm sóc dành cho nhân vật của mình.
Với nhân vật người vợ nhặt, cô cũng là biểu tượng của người phụ nữ Việt Nam xưa. Dù có vẻ ngoại hình xấu xí, thô kệch, nhưng cô là một người vợ hiền lành, thương chồng và là một người con dâu lễ phép, biết điều và sẵn lòng xây dựng gia đình dù người chồng không có gì trong tay. Đó là những đặc điểm đẹp rất tiêu biểu của người phụ nữ Việt Nam.
Vẻ đẹp của con người không chỉ ở bề ngoài, lời nói mà còn ở hành động, cử chỉ, cách họ đối xử với người khác. Những phẩm chất quý giá đó không phải ai cũng nhìn thấy được, chúng ta cần biết nhìn nhận, hiểu biết, khám phá bản chất thực sự bên trong. Vì vậy khi so sánh nhân vật Thị Nở và người vợ nhặt, ta sẽ thấy rõ những phẩm chất ấy.
Trong cả hai tác phẩm đều chứa đựng những thông điệp nhân văn sâu sắc, thể hiện giá trị nhân đạo và giá trị thực tiễn của tác phẩm. Cùng khám phá về những giá trị ý nghĩa trong hai tác phẩm này:
Khi so sánh nhân vật Thị Nở và người vợ nhặt, ta sẽ thấy rằng hai nhân vật này chính là tinh thần nhân đạo mà nhà văn đã truyền đạt. Nhà văn đã cảm thông với số phận đau khổ của những con người nhỏ bé, bất hạnh. Tố cáo các thế lực gây ra đau khổ cho con người. Phát hiện, khám phá và khen ngợi vẻ đẹp tiềm ẩn trong những con người bất hạnh đồng thời đấu tranh cho khát vọng chân chính, tốt đẹp của con người.
Không chỉ có giá trị thực tiễn, thông qua hai nhân vật này tác giả cũng tố cáo hiện thực xã hội ngày nay. Tác giả đã phơi bày chân thực, sâu sắc cuộc sống cực khổ, nỗi đau về vật chất hay tinh thần của những con người bé nhỏ, bất hạnh. Với mỗi tác phẩm cụ thể, giá trị thực tế đều được biểu hiện cụ thể và đầy tính đa dạng. Từ đó thể hiện cái nhìn sâu sắc của tác giả đối với nhân vật của mình.
Như vậy qua bài so sánh nhân vật Thị Nở và người vợ nhặt, chúng ta đã hiểu rõ hơn về số phận cũng như vẻ đẹp tiềm ẩn của hai nhân vật này. Để từ đó ta có cái nhìn cảm thông hơn đối với số phận của người phụ nữ Việt Nam ngày nay.
So sánh Thị Nở và người vợ nhặt - Mẫu 2
Phụ nữ Việt Nam xưa thường phải đối mặt với nhiều định kiến và đau thương từ xã hội và chiến tranh. Cả Thị Nở và người vợ nhặt đều là những phụ nữ phải chịu đựng những tổn thương mà xã hội cũ và chiến tranh mang lại.
Vợ của Tràng là một người phụ nữ không có nguồn gốc rõ ràng, không có gia đình, không có nhà ở. Cô không có cả tên, khi xuất hiện chỉ được gọi là thị, là cô ấy, hoặc là người phụ nữ. Chỉ có bà cụ Tứ nhìn vào cô như nàng dâu, con dâu, là con và Tràng gọi cô là nhà tôi. Trước khi đến nhà bà Tứ, cô và một số phụ nữ khác ngồi ở cửa kho thóc Liên đoàn, chờ đợi nhặt hạt rơi hoặc hạt vãi, hoặc làm bất kỳ việc gì nào gọi đến. Trong thời kỳ nạn đói, giá trị con người trở nên rẻ tiền. Không chỉ có vợ của Tràng là người không tên, không tuổi, còn có nhiều chị em như vậy.
Khi gặp Tràng lần đầu, Thị là người mạnh mẽ, táo bạo đến mức trở nên vô cùng trơ trẽn. Khi nghe thấy anh chàng phu xe hát một câu để giảm mệt (Muốn ăn cơm trắng mấy giò này. Lại đây mà đẩy xe bò với anh này), Thị đã chậm rãi bám vào và sau đó đứng lên, đi đến và đẩy xe cho Tràng. Khi gặp lại lần thứ hai, sau khi Tràng vừa trả hàng, Thị ngay lập tức chạy lại. Thị đứng trước mặt và nói: Điên! Một người lớn như thế mà còn điên! Khi nhìn thấy có thức ăn, đôi mắt thèm khát của Thị tỏa sáng và cô ngồi xuống ăn như thể đói meo. Thị ăn một cách đói bụng. Khi ăn xong, Thị khen ngon với đôi đũa. Có phải đó là tính cách thiếu tôn trọng của người phụ nữ này không? Không, từ đầu đến cuối, Thị hành động theo bản năng của mình. Thị làm mọi thứ chỉ để có thức ăn.
Khi đã chấp nhận làm vợ của Tràng, trên đường trở về nhà của Tràng, Thị thay đổi hoàn toàn. Trong khi Tràng rất hứng khởi và nhanh nhẹn, thậm chí cười vàng vang một mình và đôi mắt rực rỡ, thì Thị lại đi sau hắn một đoạn, cầm thúng con, che mặt mình bằng cái nón. Thị trở nên nhút nhát, e thẹn. So với lúc gặp ở chợ, bây giờ Thị đã trở thành một người khác. Ở chợ, Thị cố gắng để có thức ăn, nhưng bây giờ, cô đi về nhà chồng. Thêm vào đó, Thị bắt đầu nhận thức về vai trò của mình, là một người vợ. Thì ra, Thị không có quyền lực gì, thậm chí cả quyền lựa chọn, và cô phải chấp nhận số phận mà đến cuối cùng cô cũng không thể tránh khỏi.
Dù vậy, Thị vẫn nhận ra giá trị bản thân. Trên đường về nhà chồng, khi Tràng thích thú với trẻ con chọc phá, Thị khá khó chịu, lông mày nhíu lại, xóc lại tà áo. Thị ngượng và xấu hổ khi bị chọc phá, và mong sớm đến nhà chồng để tránh sự chú ý từ mọi người.
Khi đến nhà Tràng, Thị thể hiện sự tò mò của một nàng dâu mới. Thị nhìn chung quanh, thở dài khi thấy nghèo khổ. Khi bà Tứ về, Thị tỏ ra nhút nhát và rụt rè, nhưng bà Tứ cảm thấy thương xót và chấp nhận Thị là dâu.
Sự thay đổi của Thị khiến Tràng cảm thấy hối tiếc. Thị, bà Tứ và Tràng đều cố giữ lòng tự trách và không làm nhau buồn thêm. Điều này thể hiện lòng nhân văn và tinh tế của họ.
Thị thực sự là một người phụ nữ tốt khi sống trong tình thương và sự hiểu biết. Tình cảm này đã giúp Thị thay đổi từ một người trơ trẽn thành một người đảm đang và hiền hậu.
Tác giả không muốn bôi nhọ phụ nữ Việt Nam, mà muốn thể hiện vẻ đẹp tinh thần bên trong họ. Mặc dù Thị có vẻ ngoại hình xấu xí, nhưng bên trong là trái tim nhân từ và đầy lòng tự trọng.
Thị Nở không ngần ngại yêu Chí Phèo - kẻ bị xã hội xa lánh. Tình yêu đó làm thức tỉnh vẻ đẹp tâm hồn.
Thị từ một người xấu xí trở thành người biết quan tâm: 'Chúng ta đã ăn nằm với nhau như vợ chồng. Phải cho anh ấy ăn đi.'
Quan tâm của Thị và bát cháo hành khiến Chí Phèo xúc động và muốn thay đổi cuộc đời.
Tình yêu chân thành của Thị là hy vọng cho Chí Phèo trở lại cuộc sống. Dù sau này Chí kết liễu đời, tình yêu của Thị vẫn là điểm sáng.
Hai nhân vật Thị và Thị Nở khẳng định tài năng và tư tưởng nhân đạo của người phụ nữ Việt Nam.