Phân tích sự đậm nét thơ trong Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài bao gồm 7 bài văn mẫu đa dạng kèm theo 2 gợi ý cách viết chi tiết. Giúp học sinh tham khảo và nâng cao kỹ năng văn học qua các bài văn mẫu sát với chương trình học.
Tính thơ trong Vợ chồng A Phủ được thể hiện qua việc tinh tế khai thác và biểu hiện mạch cảm xúc, tâm trạng, tình cảm của nhân vật. TOP 7 mẫu chất thơ trong Vợ chồng A Phủ dưới đây sẽ là tài liệu hữu ích cho học sinh trong quá trình học tập, tự học và tự đọc để làm giàu vốn hiểu biết văn học, phát triển khả năng sáng tạo trong việc viết văn. Ngoài ra, hãy tham khảo thêm các bài văn mẫu phân tích nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân, phân tích Mị trong đêm cứu A Phủ.
Bảng dàn ý phân tích chất thơ trong Vợ chồng A Phủ
I. Giới thiệu:
- Tổng quan về tác giả Tô Hoài và truyện ngắn 'Vợ chồng A Phủ' với nét thơ độc đáo
II. Nội dung chính:
* Thơ trong vẻ đẹp tự nhiên của núi rừng Tây Bắc
- Tây Bắc hiện lên với khung cảnh núi rừng đặc trưng với mây và sương mù suốt năm.
- Chất thơ được thể hiện rõ trong cách Tô Hoài mô tả vẻ đẹp của mùa xuân ở vùng núi cao Tây Bắc.
- Những đoạn văn về thiên nhiên rừng núi và mùa xuân đó thật hòa quyện, đẹp như những bài thơ tình viết bằng văn xuôi.
* Thơ qua cuộc sống và văn hóa của cư dân địa phương
- Tạo dựng những hình ảnh quen thuộc trong cuộc sống hàng ngày của người dân Tây Bắc như ngôi nhà gỗ với bếp lửa ấm áp trong mùa đông, công việc cõng nước, quay sợi...
- Ngày Tết: Khác biệt với người dân miền xuôi, những người ở vùng cao ăn Tết sau khi mùa gặt lúa đã qua.
- Không khí Tết của người H'Mông truyền tải hơi thở của núi rừng Tây Bắc khi mọi người tìm nhau để tỏ tình, chơi trò ném còn, quay sợi, thổi sáo, đàn môi, uống rượu...
- Tác giả đặc biệt tôn trọng tiếng sáo - cầu nói của người H'Mông, biểu hiện tâm trạng sâu lắng, vượt qua thời gian, trở thành biểu tượng của tình cảm đôi trai gái miền núi.
* Tâm hồn - Mị
- Mị, cô gái trẻ, mảnh mai và dễ thương như một bông hoa nở giữa rừng núi Tây Bắc, vì món nợ cảm ơn của cha mẹ, Mị bị thống lý Pá Tra lấy làm dâu để trừ nợ và phải đối mặt với khó khăn. Dường như Mị sẽ mất đi, sống trong nỗi đau và tăm tối nhưng bên trong cô vẫn tỏa sáng những ngọn lửa của tự do và niềm đam mê với cuộc sống.
- Vẻ ngoài nhu mì và kiên nhẫn của Mị che giấu đi sức mạnh ẩn chứa bên trong.
- Âm nhạc của sáo H'Mông đã chạm vào tâm hồn sâu thẳm của Mị, làm cho trái tim của cô gái trẻ này rạo rực và hứng khởi.
=> Sức sống ẩn dật, rực rỡ và âm thầm giống như ánh sáng chứa đựng, ngăn chặn sự suy tàn của tâm hồn. Khi bùng nổ, nó trở thành một sức mạnh có thể phá tan mọi trở ngại.
* Chất thơ thể hiện qua ngôn ngữ nghệ thuật
- Tô Hoài sử dụng một loạt âm thanh và hình ảnh gợi cảm, sặc sỡ màu sắc và đầy tính thơ mộng.
- Ngôn ngữ văn xuôi vừa cụ thể rõ ràng, vừa trừu tượng và không hình dung.
- Âm điệu và nhịp điệu, cùng với giọng kể nhẹ nhàng, dễ chịu, theo dòng cảm xúc êm đềm trong tâm trạng.
- Đặc biệt là sự kết hợp tinh tế giữa sắc thái lãng mạn và phong cách viết trữ tình, cùng với sự mềm mại của văn phong tinh tế.
III. Kết bài:
- Đánh giá lại ý nghĩa của tác phẩm trong ngữ cảnh văn học
Chất thơ đặc sắc trong truyện Vợ Chồng A Phủ - Mẫu 1
Trong tập truyện 'Truyện Tây Bắc', 'Vợ Chồng A Phủ' nổi bật như một tác phẩm đặc sắc, là biểu tượng của văn học Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Tác phẩm tái hiện chân thực cuộc sống và con người ở vùng Tây Bắc, đồng thời tôn vinh sức sống và khát vọng tự do của nhân dân miền núi, là biểu tượng của con đường giải phóng và cuộc thay đổi trong cách mạng.
Đánh giá truyện 'Vợ Chồng A Phủ' cho rằng có 'chất thơ ngọt ngào, dịu dàng lan tỏa trong cảnh sắc, trong dòng hồi ức của Mị và trong nhịp điệu câu văn, trong lời bài hát, trong những từ ngữ giàu sắc thái biểu cảm'. Miêu tả đêm tình mùa xuân trên núi cao là minh chứng cho phong cách văn chương dạt dào chất thơ của Tô Hoài trong truyện.
'Chất thơ' trong văn xuôi có thể hiểu là vẻ đẹp lãng mạn được tạo ra từ sự kết hợp giữa cảm xúc, tâm trạng, tình cảm với các biểu hiện của nó, khơi gợi những rung động thẩm mĩ và tình cảm nhân văn. Nó là vẻ đẹp bay bổng thoát ra từ đời sống hiện thực, là lí tưởng để nâng đỡ con người vượt qua đời sống trần tục.
Chất thơ trong truyện đã được tạo nên thông qua việc tinh tế khai thác và biểu hiện mạch cảm xúc, tâm trạng, tình cảm của nhân vật hoặc của tác giả trước thế giới, bằng những chi tiết, hình ảnh gợi cảm và một lối văn trong sáng, truyền cảm, phù hợp với nhịp điệu riêng của cảm xúc và tâm hồn.
Tô Hoài đã tạo ra một bức tranh rất đặc biệt về không khí Tết trên núi cao. Không cần phải theo lịch trình cố định, Tết ở đây đến khi mùa màng thu hoạch xong, khi mưa xuân còn vương. Điều này thể hiện sự hoà thuận tự nhiên giữa con người và thiên nhiên, như một phần không thể thiếu trong cuộc sống vùng cao.
Tô Hoài đã mô tả rất sinh động về không khí Tết ở vùng núi Tây Bắc. Dù gió rét dữ dội, nhưng niềm vui và sự náo nhiệt của mùa xuân vẫn hiện hữu, đặc biệt trong tình yêu của những đôi trai gái. Hình ảnh mùa xuân ở đây gắn liền với những đêm tình nồng nàn, mê đắm, thực sự rất đáng nhớ.
Từ những ký ức của Mị, ta có thể cảm nhận được sức mạnh của tình yêu và sự khát khao tự do. Mặc dù đã trải qua bao khó khăn, nhưng trái tim Mị vẫn giữ lửa niềm tin và sự khao khát hạnh phúc.
Dù bị đày đọa, trái tim Mị vẫn âm thầm gìn giữ niềm khát khao tình yêu và hạnh phúc. Tiếng sáo, biểu tượng của tình yêu, đã làm sống lại những kí ức và cảm xúc mà Mị từng chôn vùi.
Tô Hoài đã sáng tạo nhiều kiểu câu văn đa dạng và phong phú, tạo ra một thế giới văn chương đầy màu sắc và sinh động. Ngôn ngữ của ông không chỉ là những từ ngữ, mà còn là giọng điệu và tiết tấu của câu văn, thể hiện tâm trạng và cảm xúc.
Khi viết về những ngày tết ở Hồng Ngài, Tô Hoài đã tập trung vào việc mô tả tiếng sáo. Sáo H’Mông như một phương tiện giao duyên hữu hiệu giữa các chàng trai và con gái trong bản làng.
Ngôn ngữ văn xuôi của Tô Hoài đầy chất thơ và hoạ. Mỗi đoạn văn đều như một bức tranh sống động, khiến người đọc như đang nhìn thấy một phong cảnh rộng lớn với những nét vẽ sắc nét và hùng vĩ của núi rừng Tây Bắc.
Tô Hoài đã truyền đạt chất thơ sâu sắc thông qua những tác phẩm của mình, như truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”. Với sự gắn bó sâu nặng của mình với miền Tây Bắc, ông đã làm cho những cảnh vật và nhân vật trong truyện trở nên sống động và cảm động.
Chất thơ trong Vợ chồng A Phủ - Mẫu 2
Tô Hoài được biết đến là nhà văn có tài với hơn hai trăm đầu sách, trong đó có nhiều tác phẩm nổi tiếng như Vợ chồng A Phủ. Ông đã thành công trong việc mang lại cho độc giả cảm giác thăng hoa với chất thơ đặc trưng của miền Tây Bắc.
Trong sổ tay viết văn, Tô Hoài đã chia sẻ về những ý thơ trong văn xuôi và nhận thức được giá trị tinh thần của chúng. Ông so sánh chất thơ trong văn xuôi như nước ngọt thấm vào trái táo, không chỉ là tài liệu mà còn là sự sáng tạo.
Trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ, việc đọc từng chi tiết một sẽ giúp người đọc hiểu sâu hơn về cuộc sống và tình cảm của những người dân miền cao Tây Bắc.
Đọc chậm giúp người đọc hòa mình vào không gian và thời gian của nhân vật, cảm nhận sâu sắc hơn về mùa xuân và Tết ở miền núi.
Đọc sâu giúp người đọc nhận thức được sự giàu có về mặt tinh thần của những người dân miền núi, dù họ phải đối mặt với những khó khăn và bất hạnh trong cuộc sống.
Tâm hồn của Mị rực sáng trong cuộc sống, vẫn toả sáng dù trải qua nhiều khó khăn. Cô được so sánh như cô Tấm miền Tây Bắc - sức sống mãnh liệt và kiên cường. Sự hồi sinh của tâm hồn Mị là một trong những điểm nhấn thơ mộng trong văn của Tô Hoài.
Hồi sinh đầu tiên của Mị xảy ra trong đêm hội mùa xuân ở Hồng Ngài, biến đổi từ một người phụ nữ bị đau khổ trở thành một người mạnh mẽ, biết trân trọng cuộc sống. Khi nghe tiếng sáo gọi bạn tình, trái tim Mị thức tỉnh và niềm vui trở lại.
Cuộc hồi sinh thứ hai của Mị đến một cách bất ngờ, khi cô rơi vào tình trạng tinh thần cực kỳ đau đớn và tuyệt vọng. Dù sống trong cảnh tương tự như cái chết, Mị vẫn giữ được sự mạnh mẽ và bất khuất trong lòng.
Tô Hoài đã đặt ra một thách thức lớn khi mô tả cảnh chết tinh thần của Mị. Nhưng ông đã thành công khi làm cho người đọc tin rằng, từ trạng thái tuyệt vọng, Mị có thể tỉnh lại, tự cứu chính mình.
Văn của Tô Hoài trong 'Vợ chồng A Phủ' rất tinh tế trong việc miêu tả nhân vật và sự kiện. Ông đã dùng ngôn từ đầy màu sắc và hình ảnh để tạo nên vẻ sinh động và độc đáo cho câu chuyện.
Tác giả của Vợ chồng A Phủ đã sử dụng nhiều kiểu câu văn sáng tạo và giàu nhịp điệu, tạo nên sự đa dạng và phong phú cho câu chuyện.
Ngôn ngữ văn xuôi của Tô Hoài đậm chất thơ và hội họa, tạo nên hình ảnh sâu sắc và sống động trong tâm trí người đọc.
Tô Hoài đã sử dụng ý thơ một cách tài tình trong Vợ chồng A Phủ, tạo ra một sự kết hợp hài hòa giữa văn xuôi và thơ, gợi lên cảm xúc sâu sắc trong lòng người đọc.
Chất thơ trong truyện Vợ chồng A Phủ vẫn tiếp tục gợi nhớ cho độc giả vẻ đẹp của miền Tây cổ điển.
Mỗi tác giả đều có phong cách riêng, và với Tô Hoài, sự kết hợp giữa văn xuôi và thơ đã tạo nên một tác phẩm đầy sức hút và sâu sắc.
Dường như khái niệm 'chất thơ' không còn xa lạ với những người yêu văn học, đặc biệt là với các thi sĩ. Đó là tính chất trữ tình, được hình thành từ sự kết hợp giữa vẻ đẹp của cảm xúc, tình cảm với vẻ đẹp của các biểu hiện nghệ thuật, nhằm khơi gợi cảm xúc và tình cảm nhân văn.
Tuy nhiên, liệu có mâu thuẫn nào khi nói về chất thơ trong văn xuôi, truyện ngắn? Chúng ta hoàn toàn có thể và có quyền nói như vậy. Chất thơ không còn giới hạn trong những bài thơ trữ tình, mà đã lan tỏa, phát triển và ánh sáng lên văn chương Việt Nam, tạo ra một không gian tinh thần không thể nhìn thấy nhưng có thể cảm nhận được qua trái tim và tâm hồn.
Trên bản đồ văn chương Việt Nam, có vô số tác phẩm văn xuôi chứa đựng chất thơ, nhưng không phải tác phẩm nào cũng mang trong mình tính chất trữ tình, không phải tác phẩm nào cũng thấm đẫm ý thơ. Một truyện ngắn được coi là giàu chất thơ khi tác giả không chỉ tập trung vào việc diễn tả sự kiện mà còn tạo ra một tình trạng, một trạng thái của tâm hồn con người, và 'Vợ chồng A Phủ' của Tô Hoài chính là một ví dụ điển hình.
Hơn sáu mươi năm trước, một nhà văn đã dấn thân vào vùng đất mới của Tây Bắc để mang những hình ảnh tươi đẹp của nơi đây đến với bạn đọc. 'Vợ chồng A Phủ' của Tô Hoài là một tác phẩm xuất sắc tập trung vào vẻ đẹp của Tây Bắc, không chỉ là vẻ đẹp tự nhiên mà còn là vẻ đẹp của con người, và khả năng phân tích sâu sắc những biến động trong tâm hồn con người.
Trước hết, tôi muốn nói về sức hấp dẫn đặc biệt của Tây Bắc. Đây không phải là một thế giới cổ tích mà như là một hơi thở của ca dao, cổ tích, một thế giới đầy hứa hẹn được phản ánh qua hình ảnh sống động và quyến rũ của thiên nhiên, được mô tả bởi Tô Hoài: 'năm ấy, Hồng Ngài ăn tết sớm giữa lúc gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng, gió và rét rất dữ dội. Nhưng trong các làng Mèo Đô, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá xòe như con bướm sặc sỡ'.
Bức tranh đó sẽ không hoàn chỉnh nếu thiếu đi hình ảnh của con người. Tuyệt vời biết bao khi mỗi độ Tết đến, chúng ta thấy 'đám trẻ đội Tết, chơi quay, cười nô giỡn trên sân trước nhà'. Và vào những đêm mùa xuân, những chàng trai mang tiếng khèn, điệu nhạc, tìm kiếm 'người yêu'. Khung cảnh đó mở ra trong tâm trí của người đọc một miền đất thanh bình với những nét đẹp văn hóa giản dị nhưng ý nghĩa với con người.
Thiên nhiên có thể đẹp đến đâu nhưng chỉ là phông nền, con người mới là nguồn sáng tạo. Trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”, chúng ta thấy được hình ảnh đời sống tâm hồn của con người ở đây. Những cô gái như cô Mị, bị giam cầm bởi chế độ phong kiến, bởi nam quyền, thần quyền nhưng vẫn toát lên sức sống không nguôi. Những chàng trai như A Phủ, dù trải qua biết bao khó khăn nhưng vẫn luôn mạnh mẽ, kiên cường.
Khi chúng ta bước vào cánh cửa của “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài đã dẫn lối tâm hồn chúng ta đến với một thế giới đầy những cảm xúc, một số phận đầy bi kịch thông qua hình ảnh của người phụ nữ buồn 'ngồi quay sợi bên tảng đá trước của, cạnh tàu ngựa. Mỗi lúc, dù là quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi'. Mị giống như một cái bóng, một mảng tối im lặng trong cảnh giàu sang của nhà thống lí Pá Tra. Cô không còn biết đến mùa xuân, không đi chơi Tết.
Nhà văn không chỉ mô tả hình dáng ngoại hình mà còn làm nổi bật con người và số phận của họ, số phận đầy bi kịch, đau đớn, thương tâm. Điều này gây ấn tượng sâu sắc đến người đọc, gieo vào lòng họ những xót thương. Sức nặng của bọn chúa địa phương, cả quyền lực và thần thế đã tạo ra một tâm hồn sống chết không rõ: “sống lâu trong cái khổ Mị cũng quen rồi”, “Mị tưởng mình cũng là con trâu, con ngựa”, “Mị chỉ cúi mặt không nghĩ ngợi”, chỉ “nhớ đi nhớ lại những việc giống nhau”, Mị đã mất hết ý thức về thời gian, tuổi tác và cuộc sống. Cô giống như một cỗ máy hoạt động theo một quy luật đã được lập trình sẵn. Mị không còn cảm xúc, không yêu thương, không có khát vọng, thậm chí không còn biết đau khổ.
Nhưng ở đâu đó trong tâm hồn đau đớn, cô Mị vẫn giữ lại một phần của bản thân mình, một cô Mị trẻ đẹp như hoa núi Tây Bắc, tràn đầy sức sống, một người con gái trẻ trung và hiếu thảo. Ngày xưa, tâm hồn yêu đời của Mị gửi vào tiếng sáo: “Mị thổi sáo giỏi, không có sáo, Mị uốn chiếc lá trên môi cũng hay như thổi sáo vậy”. Mị luôn khao khát tình yêu và tự do. Nếu không bị ép làm con dâu gạt nợ, khát vọng của Mị đã trở thành hiện thực với “trai làng đến đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị”, Mị đã từng hồi hộp khi nghe tiếng gõ cửa của người yêu. Nhưng cuối cùng, Mị vẫn rơi vào bẫy rập.
Tất cả những phẩm chất này sẽ là nền tảng, là căn cứ cho sự hồi sinh của Mị sau này. Nhà văn đã miêu tả những đặc điểm này về Mị, làm cho câu chuyện phát triển một cách tự nhiên, hợp lý. Dù chế độ phong kiến và tư tưởng thần quyền có thể làm suy sụp mọi ước mơ, khát vọng, làm tê liệt ý thức và cảm xúc của con người, nhưng từ bên trong, bản chất của con người vẫn luôn tiềm ẩn và chắc chắn sẽ bùng lên mãnh liệt nếu có cơ hội.
Bị ép làm con dâu gạt nợ, Mị suy nghĩ đến việc tự tử, đó là biểu hiện duy nhất của sự phản kháng của một con người có sức sống mạnh mẽ mà không thể làm gì khác trong hoàn cảnh đó, thậm chí 'mấy tháng qua Mị khóc mỗi đêm', Mị trốn về nhà và cầm lá ngón trên tay. Khao khát sống một cuộc sống đúng nghĩa đã khiến cho Mị không thể chấp nhận cuộc sống bị bóp méo, bị xúc phạm như một con vật. Mị nhìn vào cái chết như một sự giải thoát.
Đêm tình mùa xuân là đêm đặc biệt nhất trong cuộc đời của Mị. Mị bỗng nảy sinh ý muốn đi chơi và chuẩn bị để ra ngoài. Tô Hoài đã phác họa tất cả những xao lạc của Mị trong việc lý giải sự biến đổi tâm trạng của Mị, đó vừa là một hành động bộc lộ, vừa là một kết quả tất yếu của sức sống tiềm ẩn được kích thích, bùng cháy để quên đi thực tế, sống với bản chất của mình.
Sự thức tỉnh ý thức của Mị ban đầu là do hoàn cảnh, khi Mị nhìn thấy vẻ đẹp của cảnh vật Hồng Ngài khi xuân về. Nếu bên ngoài là yếu tố kích thích gián tiếp thì rượu là yếu tố kích thích trực tiếp để làm sống lại khao khát sống của Mị. “Mị lén uống từng bát rượu ừng ực” như làm tan đi cay đắng, nuốt chửng, nuốt uất, nuốt hận vào lòng. Hơi men đã dẫn dắt tâm hồn Mị theo tiếng sáo.
Trong phần miêu tả sự hồi sinh tâm hồn của Mị, tiếng sáo đóng một vai trò đặc biệt. “Mị nghe tiếng sáo vọng lại quyến luyến, Mị ngồi nhẩm lời bài hát của người đang thổi”. Đối với Mị, tiếng sáo là biểu tượng hấp dẫn nhất của mùa xuân, của khao khát hạnh phúc. Không phải là ngẫu nhiên mà tác giả đã dùng tiếng sáo để miêu tả nhiều lần như vậy. “Tiếng sáo gọi bạn tha thiết”, “ngoài đầu núi đã có tiếng ai thổi sáo”, “tai Mị vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng”, “nhưng tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn bay ngoài đường”. “Mị vẫn nghe tiếng sáo dẫn Mị đi chơi”, “trong đầu Mị rộn ràng tiếng sáo”. Tô Hoài đã miêu tả tiếng sáo như một công cụ nghệ thuật để đánh thức tâm hồn Mị. Tiếng sáo là biểu tượng của khao khát tình yêu tự do, là cơn gió thổi bùng lên đốm lửa tưởng chừng đã tắt.
Ban đầu, tiếng sáo vẫn “lơi lỏng”, “ẩn hiện” ngoài đầu núi, ngoài đường. Sau đó, tiếng sáo đã thâm nhập vào thế giới tâm hồn của Mị và cuối cùng trở thành lời mời gọi tha thiết để tâm hồn Mị bay theo tiếng sáo. Mị đã vượt qua tâm trạng lạnh nhạt, uất ức từ lâu.
Dấu hiệu đầu tiên của sự sống lại là Mị nhớ lại quá khứ, nhớ về niềm vui ngắn ngủi của tuổi trẻ và niềm vui sống trở lại: “Mị còn trẻ lắm, Mị vẫn còn trẻ lắm. Mị muốn đi chơi”. Phản ứng đầu tiên của Mị là “nếu có nắm lá ngón trong tay, Mị sẽ ăn cho chết” chứ không buồn nhớ lại nữa cái ngày xưa đẹp đẽ ấy bởi nhớ lại “chỉ thấy nước mắt ứa ra”. Những giọt nước mắt tưởng chừng đã cạn kiệt vì đau khổ đã lại có thể lăn dài. Đau khổ tưởng đã làm Mị tê liệt về lý trí lẫn tình cảm nhưng từ trong sâu thẳm, tâm hồn Mị không chết, Mị vẫn còn khóc được cho hoài niệm của mình, khóc cho vết thương tưởng như đã mãi mãi thánh sẹo, thành chai. Từ những sôi sục trong tâm tư đã dẫn tới hành động: “lấy ống mỡ xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa dầu”. Đây là hành động của sự thức tỉnh. Mị muốn thắp sáng cho cuộc đời tăm tối của mình. Chi ít, thứ ánh sáng này cũng giúp Mị cảm thấy mình không phải là một thứ đồ vật bị lãng quên. Mị “quấn lại tóc”, “với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách”.
Và giống như một người phụ nữ mơ mộng, Mị quên hẳn sự hiện diện của A Sử, quên hẳn mình bị ràng buộc mà tiếng sáo vẫn dẫn dắt tâm hồn Mị “đi theo những cuộc chơi, đám chơi”. Tâm hồn Mị đã thuộc về một thế giới khác, một thế giới rực rỡ như ngọc bích, lấp lánh như pha lê, một thế giới mà ở đó, Mị thổi sáo, Mị hát, Mị yêu và được yêu. Đó là một sức sống tiềm ẩn, dữ dội và mãnh liệt.
Sức sống tiềm ẩn, mãnh liệt ở Mị được biểu hiện rõ nhất ở hành động “vùng bước đi” giữa lúc cả người bị trói đứng vào cột. Chỉ khi “tay chân đau không cựa quậy được”, Mị mới tỉnh lại và nhận ra hiện tại. Tiếng sáo im lặng, thay vào đó là “tiếng chân ngựa đạp vách” khiến Mị tự ti “mình không bằng con ngựa”. Trong tác phẩm, nhiều lần tác giả nhắc đến cuộn dây trói, đó là biểu tượng cho chế độ cường quyền và thần quyền nghiêm khắc, nhưng ngay cả khi bị trói, con người vẫn không ngừng nghĩ đến cuộc sống, sống với thế giới của tình yêu và khát vọng.
Tô Hoài đã đặt sự hồi sinh của Mị vào một tình huống bi kịch: “khao khát mãnh liệt – hiện thực tàn nhẫn khiến cho sức sống của Mị càng trở nên mãnh liệt hơn. Quá trình hồi sinh của một sức sống tiềm ẩn được nhà văn miêu tả không hề nông cạn, dễ dãi. Nhân vật thoát khỏi sự lạnh nhạt, uất ức không hề đơn giản, dễ dàng. Mị đã sống quá lâu trong cảnh đau khổ, vì vậy, sự hồi sinh đến quá nhanh dễ gây cảm giác giả tạo. Đó phải là một quá trình chuyển biến từ từ và phải có một sự tác động đặc biệt. Sự tác động đó không gì thay thế được chính là tiếng sáo trong đêm tình mùa xuân. Một làn sóng cảm xúc đi qua, dù mãnh liệt cũng không thể thay đổi cuộc đời Mị. Nhưng những gì mà Tô Hoài viết về đêm tình mùa xuân ấy thật ý nghĩa. Qua đó nhà văn muốn khẳng định: Sức sống của con người dù bị giẫm đạp, bị trói chặt vẫn luôn tồn tại, chỉ cần có cơ hội là sẽ bùng lên.
Khi tiếng sáo im lặng, chỉ còn nghe tiếng chân ngựa đạp vách, mọi ký ức tan biến, cuộc đời Mị lại như những đêm đông trên miền núi cao, vừa dài vừa buồn. Trước cảnh A Phủ bị trói, Mị hoàn toàn vô cảm, vẫn “thản nhiên thổi lửa, hơ tay”. Có đêm, bị A Sử đánh gục ngay trên bếp lửa mà đêm say, Mị vẫn trở dậy thổi lửa, hơ tay như thế. Ta cứ tưởng như sức sống trong Mị như ngọn đèn cạn dầu, chỉ bùng lên rồi tắt ngấm. Nhưng không, phần trên mới chỉ là phần chuẩn bị cho một bước đột phá. Tâm hồn tê dại của người đàn bà ấy đột ngột bùng lên thật mãnh liệt: cắt dây cởi trói cứu A Phủ và tự giải thoát cho chính mình.
Hành động của Mị vừa mang tính tự phát, vừa có ý thức tự giác. Tự phát bở sự việc đến nhanh, đột ngột và Mị không kịp tính trước sẽ đi đâu, làm gì, ngay cả việc có chạy theo A Phủ hay không Mị cũng chỉ quyết định ngay sau khi cắt dây cởi trói, đứng lặng một phút trong bóng tối. Tô Hoài thật tinh tế và bản lĩnh khi sắp xếp chi tiết này bởi nếu không khéo rất có thể có hai khả năng xảy ra. Một là Mị trốn chồng vì khổ quá, hai là Mị bỏ chồng theo A Phủ vì A Phủ là người mà bao cô gái mong ước có được. Hai khả năng này đều hạ thấp giá trị nhân vật. Mị cắt dây trói cho A Phủ nhưng không hề chạy theo. Chỉ sau khi định thần lại nỗi hoảng sợ đã đẩy bàn chân Mị vùng chạy theo một cách tự nhiên.
Tuy vậy hành động của Mị chính là kết quả tất yếu của một con người có sức sống tiềm tàng. Hành động này có nguồn gốc từ bản chất của một người con gái hiếu thảo, yêu đời, ham sống trong quá khứ. Từ cái “buồn rười rượi”, từ cách uống rượu “ừng ực từng bát một” và ngay cả ý định tự sát của Mị nữa. Trực tiếp hơn là những giây phút Mị rạo rực nghe tiếng sáo trong đêm tình mùa xuân. Sâu xa hơn nữa là vì Mị cảm thấy đau đớn giống như những lần Mị bị trói, Mị không thể để một con người vô tội phải chết dần trong đau đớn.
Tất cả được khởi dậy đúng lúc Mị trông thấy “một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã đen sạm lại của A Phủ”. Giọt nước mắt tuyệt vọng của A Phủ đã giúp Mị nhớ lại, nhận ra mình, xót xa cho mình, nhận ra sự tàn ác của nhà thống lí, tất cả đã khiến cho hành động của Mị mang tính tất yếu.
Tất nhiên Mị cũng rất lo lắng, hoảng sợ. Mị sợ mình bị trói thay vào cái cọc ấy. Khi đã chạy theo A Phủ, cái ý nghĩ ấy vẫn còn đuổi theo Mị: “Ở đây thì chết mất”. Nỗi lo lắng của Mị cũng là một khía cạnh của lòng ham sống, tiếp thêm sức mạnh cho Mị vượt lên số phận.
Sức sống ẩn chứa trong tâm hồn của cô gái ở núi Tây Bắc đã tạo nên một truyện ngắn đậm đà hương thơm, đong đầy tình cảm. Đây là minh chứng cho tài năng của nhà văn đã khám phá ra một vùng đất mới.
Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” sẽ mãi sống trong lòng độc giả không chỉ vì nhà văn đã mang đến những đoạn văn “thơ mộng” mà còn vì tấm lòng nhân ái cao cả, luôn sẵn sàng giúp đỡ những người gặp khó khăn.
Phân tích về tính thơ trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ - Mẫu 4
Tô Hoài là một trong những nhà văn nổi tiếng của văn học Việt Nam hiện đại, với nhiều tác phẩm viết về nhiều chủ đề, thể loại, hướng đến độc giả khác nhau. Trải qua thời gian 9 năm tham gia kháng chiến chống Pháp ở Tây Bắc, Tô Hoài đã có nhiều trải nghiệm sâu sắc về con người và thiên nhiên nơi đây. Trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ, ông đã thể hiện sự hiểu biết và thông cảm đối với cuộc sống của dân tộc thiểu số, phản ánh rõ nét cuộc sống của họ trong thời kỳ kháng chiến.
Tô Hoài mô tả cuộc đời u tối và tuyệt vọng của nhân vật Mị qua hình ảnh một cách tinh tế, ấy là căn phòng chỉ có một cái cửa sổ nhỏ nhưng luôn nhìn thấy ánh trăng trắng không biết là sương hay nắng. Đó là một tình tiết đẹp, đầy tưởng tượng, khiến độc giả cảm nhận sâu sắc về cuộc sống và tâm trạng của nhân vật.
Một minh chứng khác về sự thơ, sự âm nhạc trong văn của Tô Hoài là cảnh mùa xuân ở Hồng Ngài với sự sôi động, vui tươi và đặc biệt “Trên đỉnh núi, những cánh đồng ngô, đồng lúa đã gặt xong, ngô lúa đã được chất lên các nhà kho”, “trẻ con thi nhau đốt lửa canh nương”, “gió thổi qua cỏ vàng ửng, những chiếc váy hoa được phơi trên đá như những con bướm nhiệt đới, gió và rét rất gay gắt”. Đọc những câu này, người đọc cảm nhận được không khí thoải mái, dễ chịu của mùa xuân, cảm giác của gió mát của mùa xuân, ánh nắng ấm áp của những ngày đầu năm, và cảm nhận được sự phấn khích, hân hoan trong những ngày đầu xuân. Những câu văn này tạo ra một không gian rộng lớn, sống động của vùng núi Tây Bắc, với cảm giác tự do, hào hứng. Tuy nhiên, cuộc sống của Mị ở một vùng đất đẹp như vậy lại đầy bi kịch và đau khổ, đặc biệt là sự mất tự do trong cuộc hôn nhân không hạnh phúc. Đồng thời, cảm nhận và tâm trạng của Mị cũng được thể hiện qua từng câu văn. Khi kể về cuộc sống của Mị tại nhà thống lý Pá Tra, người đọc có thể dễ dàng nhận thấy nét độc đáo trong sinh hoạt hàng ngày của người dân H’Mông ở miền núi phía Bắc, như làm nông, quay sợi, dệt vải, mang nước, chế biến cỏ ngựa, chẻ củi, giặt đay, xe đay,...
Cũng như những cảnh bếp lửa rực lên trong những đêm đông lạnh giá,... Hoặc cách ăn mặc truyền thống, với phụ nữ mặc váy hoa, buộc tóc chặt, đàn ông đeo vòng bạc, đội khăn trắng. Đáng chú ý nhất là cách mà Tô Hoài đã mô tả về mùa xuân ở Hồng Ngài, mùa xuân ở miền núi. Ở đây, người ta nhận biết mùa xuân bằng việc quan sát mùa vụ nông nghiệp, ăn tết không cần đếm ngày, chỉ cần sau mỗi mùa thu hoạch, họ lại tổ chức lễ Tết để mừng đợt mùa màng thành công. Trong mùa xuân này, Tô Hoài cũng mô tả cảnh trai gái tìm nhau để tán tỉnh, họ mặc những bộ áo đẹp, tham gia vào các hoạt động như ném bao, thổi sáo, hát, uống rượu,... vui vẻ và hạnh phúc, phản ánh tinh thần tự do, phóng khoáng của vùng núi Tây Bắc. Đặc biệt trong ngày Tết, Tô Hoài đã mô tả bằng những hình ảnh đầy màu sắc và âm nhạc, tạo ra một không khí phấn khích, vui tươi “Trong làng Mèo Đỏ, những chiếc váy hoa được treo trên đá như những bông hoa sặc sỡ […] Đám trẻ trông chờ Tết, chơi những trò chơi, cười hòa mình trong niềm vui”. Hoặc cách trang điểm vào ngày Tết của phụ nữ miền núi, mỗi dân tộc có nét đẹp riêng “Các chị Mèo đỏ mặc váy thêu, đeo áo khoác, buộc khăn hoa rực rỡ. Các chị Mèo trắng buộc khăn mượt mà, tóc mai cạo gọn”. Có thể nói rằng, thông qua con mắt nhạy bén và giàu tình cảm của Tô Hoài, mùa xuân ở vùng Tây Bắc được tái hiện một cách chân thực và đầy ấn tượng.
Một điểm đặc biệt nữa, một biểu hiện của sự sống, làm thức tỉnh lòng khao khát tự do, hạnh phúc trong tâm hồn của Mị, đó là tiếng sáo, tiếng sáo gọi bạn vào những đêm mùa xuân “Ngoài đỉnh núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo mời bạn đi chơi”, “Tiếng sáo vang vọng suốt đêm ngoài đỉnh núi”. Tiếng sáo đó làm cho Mị nhớ đến những câu hát:
“Mày có con trai con gái chưa?
Mày làm nông ở đâu?
Tao không có con trai con gái
Tao đi tìm người yêu…”
Anh ném bao em không lấy
Em không thích quả bao rơi đâu”
Đó là những câu hát thể hiện lối sống tự do, phóng khoáng của người dân tộc miền núi, nhưng lại khiến cho tâm hồn của Mị bừng tỉnh, Mị trẻ trung, Mị muốn trở lại với cuộc sống tự do, hạnh phúc, và yêu thương, điều mà chồng Mị không thể mang lại. Nỗi đau và tuyệt vọng trong tâm hồn cô gái dần bùng cháy, thể hiện qua việc uống rượu, uống cho đến say, điều này không chỉ là cách thể hiện sự uất ức và đau khổ của Mị, mà còn là biểu hiện của sức sống mãnh liệt, của ngọn lửa bùng cháy trong lòng, mang đến cho câu chuyện nhiều hương vị và ý nghĩa. Mị lại cảm thấy yêu cuộc sống, lại nhớ về những kỷ niệm hạnh phúc trong quá khứ: “Ngày xưa, Mị thường thổi sáo. Mùa xuân này, Mị ngồi bên bếp và thổi sáo. Mị thổi cành cây, thổi cành cây cũng giỏi như thổi sáo. Bao nhiêu người thích, ngày đêm theo Mị thổi sáo”. Cuối cùng, dưới sự ảnh hưởng của tiếng sáo mời bạn, dưới cơn say của rượu “Mị cảm thấy hồi phục, trong lòng bỗng trở nên vui vẻ như những đêm Tết xưa. Mị còn trẻ, Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi…”. Có thể nói rằng, sự thức tỉnh của Mị liên quan chặt chẽ đến văn hóa đặc sắc của người miền núi phía Bắc, mang lại cho độc giả những trải nghiệm sâu sắc về cuộc sống của một phụ nữ H’Mông ở Hồng Ngài trong quá khứ. Tính nhân văn trong tác phẩm được Tô Hoài khéo léo thể hiện qua những ý thơ tinh tế, những tình cảm sâu sắc, mà không phải ai cũng có thể làm được
Ngoài những tập quán đẹp, Tô Hoài cũng chỉ ra những bất công ở vùng miền núi phía Bắc, nơi người dân luôn phải chịu sự áp bức của cường quyền và thần quyền. Đầu tiên là hủ tục bắt vợ, Mị phải chịu đựng đau khổ khi bị bắt về nhà thống lý Pá Tra, sống một cuộc đời đau khổ, khổ sở. Sự chênh lệch giàu nghèo và sự tàn ác của giai cấp thống trị gây ra bi kịch cho A Phủ, đẩy anh vào cảnh khốn khổ, bị đánh đập, bắt trói, cuối cùng phải chấp nhận món nợ mà có lẽ cả đời anh không trả được.
Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài là một tác phẩm hiện thực về đồng bào miền núi phía Bắc trong kháng chiến chống Pháp. Nội dung mang giá trị nhân văn sâu sắc, thể hiện tình yêu đối với Tây Bắc và tài năng văn học của tác giả.
Chất thơ trong Vợ chồng A Phủ
Tô Hoài đã kết hợp tài liệu và sáng tạo để tạo ra không khí tinh thần, làm cho vùng Tây Bắc bay bổng hơn, vượt lên được những vấn đề vụn vặt. Trong Vợ chồng A Phủ, chất thơ man mác bao phủ bầu không khí của tác phẩm, là sự cộng hưởng hiệu ứng của nhiều thủ pháp nghệ thuật, ánh lên từ tình huống truyện đầy nhân văn, từ ngôn ngữ hàm súc và giọng điệu trần thuật giàu tính nhạc.
Chất thơ trong tác phẩm của Tô Hoài thể hiện qua hình ảnh thiên nhiên phóng khoáng với núi non, rừng rậm, sương mù... đặc trưng của miền núi Bắc. Sự kết hợp tinh tế giữa miêu tả thiên nhiên và câu chuyện tạo nên bức tranh sống động. Những chi tiết nhỏ nhưng rất sắc nét, tạo nên đặc điểm riêng cho các nhân vật. Mị nhìn ra khung cửa sổ bé bằng bàn tay, luôn 'chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng'. Không gian đó chỉ có thể tìm thấy ở Tây Bắc với núi rừng hùng vĩ. Ban ngày, mặt trời cũng khó xua tan màn sương trắng bao phủ làng bản. Đêm xuống, sương đêm kết hợp với ánh trăng tạo nên không gian huyền ảo như trong mơ. Đặc biệt, các câu văn tạo hình sống động về mùa xuân miền núi Tây Bắc: “Trên đầu núi, nương ngô, nương lúa gặt xong, ngô lúa đã xếp yên đầy các nhà kho”, “trẻ con đốt những lều canh nương”, “gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng, những chiếc váy hoa đã phơi trên những mỏm đá xoè như con bướm sặc sỡ, gió và rét rất dữ dội”.
Chất thơ còn phản ánh cuộc sống, phong tục của người dân địa phương. Truyện thể hiện những hình ảnh phong phú về cuộc sống hàng ngày của dân tộc Tây Bắc. Đó là ngôi nhà gỗ với lửa trong nhà không ngừng cháy suốt mùa đông, là công việc như cõng nước, cắt cỏ cho gia súc, quay sợi,... Trang phục truyền thống của phụ nữ H’mông là váy xoè màu sắc kết hợp với những chiếc vòng bạc lấp lánh.
Tác phẩm cũng tinh tế mô tả lễ hội mùa xuân, một phong tục đẹp của người dân miền núi. Tết ở vùng cao mang nét đặc trưng riêng, biểu hiện sự khác biệt về quan niệm về thời gian của người nông dân. Họ ăn tết khi mùa màng đã gặt xong, khi mùa xuân mang lại niềm vui thu hoạch. Dù ngày Tết “giữa lúc gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng, gió và rét rất dữ dội”, niềm vui của người dân không hề giảm nhoà, đặc biệt là của những đôi trai gái yêu nhau. Không khí xuân của Hồng Ngài thấm đẫm hương vị núi rừng Tây Bắc: Mùa xuân đến, trai gái hẹn hò, mặc những bộ quần áo đẹp nhất. Họ chơi trò chơi dân gian, thổi sáo, đàn môi, uống rượu,... Mọi thứ đều sống động, hấp dẫn trong tiếng sáo dịu dàng, tình tứ.
Tô Hoài đã mô tả không khí tết bằng từ ngữ sinh động, tạo nên bức tranh tết miền núi rực rỡ màu sắc và âm thanh: “Trong các làng Mèo Đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên những mỏm đá xòe như con bướm sặc sỡ [...] Đám trẻ đợi tết, chơi quay, cười ầm trên sân chơi trước nhà”. Tác giả cũng chú ý đến phong tục của họ: “Trai gái kéo nhau lên núi chơi. Đi chơi trên núi từng đoàn”, “Các chị Mèo đắp đầy váy thêu, áo khoác, khăn hoa chùm rực rỡ. Các chị Mèo xếp phẳng lì khăn, tóc mai cạo xanh nhẵn”.
Khi miêu tả những ngày tết ở Hồng Ngài, Tô Hoài đặc biệt chú trọng vào tiếng sáo. Sáo H’Mông truyền cảm xúc của người H’Mông, diễn đạt tình cảm trong lòng: “Anh ném pao, em không bắt. Em không yêu, quả pao rơi rồi”. Đó là cách giao duyên hữu hiệu của các chàng trai. Trong “Vợ chồng A Phủ”, ngòi bút Tô Hoài cũng thành công khi miêu tả tiếng sáo: “Ngoài đầu núi đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi”, “Tiếng sáo réo rắt suốt đêm ngoài đầu núi”. Tiếng sáo là cách tỏ tình đặc biệt của người con trai: “Suốt đêm, con trai đến nhà người yêu, đứng thổi sáo xung quanh vách”. Thời gian trôi đi, những ngày tết và đêm xuân của miền núi vẫn còn, tiếng sáo vẫn tồn tại trong trái tim biết bao người.
Ngoài những nét đẹp truyền thống thể hiện lòng hiếu thảo, tình cảm của dân tộc Tây Bắc, vẫn còn những thực tế đau lòng, chứa đựng nhiều bất công tồn tại ở đây trước Cách mạng. Sự phân biệt giai cấp giàu - nghèo rõ ràng. Trang phục của con nhà giàu có các dấu hiệu riêng: “Rủ xuống những tua chỉ xanh đỏ mà chỉ có con cái nhà quan mới được đeo”. Đó là việc bắt vợ, cúng ma trình vợ mê tín. Thói quen lạc hậu ấy đã trở thành thứ thần quyền ghê gớm làm người lao động ở đây luôn bị áp đặt, đè nén, không thể tự do. Đó là quy tắc sống nơi đây: “bao giờ có tiền giả thì tao cho mày về, chưa có tiền giả thì tao bắt mày làm con trâu, con ngựa cho nhà tao. Đời mày, đời con, đời cháu mày tao cũng bắt thế, bao giờ hết nợ tao mới thôi”. Đặc biệt, hình ảnh ngôi nhà gỗ nghi ngút khói thuốc phiện với bữa tiệc phạt vạ được miêu tả trong câu chuyện không thể tìm thấy được ở nơi khác. Tài năng của nhà văn nằm ở việc quan sát, tái hiện cảnh sắc và xử kiện nhà thống lí Pá Tra. Dưới bàn tay tài hoa, thói quen, cách sống, sự tàn bạo của thế lực phong kiến miền núi đã được tả rất sinh động: “Cứ mỗi đợt bọn chức việc hút thuốc phiện xong, A Phủ lại phải ra quỳ giữa nhà, lại bị người xô đến đánh. Mặt A Phủ sưng lên, môi và đuôi mắt dập chảy máu. Người thì đánh, người thì quỳ lạy, kể lể, chửi bới. Xong một lượt đánh, chửi, lại hút. Khói thuốc phiện ngào ngạt tuôn qua các lỗ cửa sổ. Rồi Pá Tra lại ngóc cổ lên, vuốt tóc, gọi A Phủ… Cứ như thế, suốt chiều, suốt đêm, càng hút, càng tỉnh, càng đánh, càng chửi, càng hút. […] Ngoài nhà vẫn rên lên từng cơn kéo thuốc phiện, như những con mọt nghiến gỗ kéo dài, giữa tiếng người khóc, tiếng người kể lào xào, và tiếng đấm đánh huỳnh huỵch”.
Tóm lại, nghệ thuật miêu tả sinh hoạt và phong tục của nhà văn đã giúp độc giả hiểu sâu hơn về đời sống của dân tộc Tây Bắc. Trong truyện ngắn này, với kiến thức sâu rộng và khả năng quan sát tinh tế, tác giả đã tái hiện lại được bức tranh thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, thơ mộng, thể hiện được nhiều phong tục độc đáo và mô tả sống động những người H’mông mộc mạc, thẳng thắn. Từ cảnh xuân trên bản đến cảnh vui chơi trong ngày Tết, cảnh xô xát giữa hai đám thanh niên đến cảnh xử kiện,… tất cả đều được phác họa sống động, tinh tế, tạo nên phong vị đặc trưng của vùng núi Tây Bắc cụ thể, chân thực.
Điểm độc đáo nhất của chất thơ trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” là tâm hồn của nhân vật Mị. Sâu trong tâm hồn Mị, một cô gái dường như tàn phai, sống một cuộc sống lươn lẹo “đến khi nào chết thì thôi” ấy, có ai ngờ, vẫn đọng lại những lửa sáng của khát vọng tự do, của tình yêu cuộc sống. Ở nhà thống lí Pá Tra, Mị tỏ ra như một người ngoài vỏ cứng nhưng bên trong, kỳ thực, đó lại là một sức sống tiềm ẩn, đầy nhiệt huyết. Đúng như Tô Hoài đã viết: “Ở nơi rừng núi mơ màng ấy, các dân tộc đã không lặng lẽ chịu đựng”. Tính nhân văn trong câu chuyện là ở đây. Chất thơ đặc biệt được tác giả thể hiện là ở đây. Đó là khi nghe tiếng sáo gọi bạn trong những đêm tình mùa xuân, trái tim Mị lại “đập mạnh”. Tiếng sáo giao duyên đó chạm vào phần sâu nhất của tâm hồn Mị, phần tâm hồn đầy sức sống của cô gái trẻ ngỡ như đã mất đi khi cô phải sống với thân phận con dâu trừ nợ nhà thống lí Pá Tra. Tiếng sáo ấy đã đánh thức tâm hồn Mị: “Mị cảm thấy trẻ lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày xưa. Mị còn trẻ. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi…”. Từ đây, ta nhớ câu châm ngôn: “Cái chết không phải là mất mát lớn nhất trong cuộc sống. Mất mát lớn nhất chính là để tâm hồn mình lụi tàn ngay cả khi còn sống.” Mị, từ một nhân vật sống không bằng chết, nay đã sống lại trong tâm hồn. Khi tâm hồn Mị không lụi tàn chính là khi sức sống tiềm ẩn, đầy nhiệt huyết trong Mị chỉ cần một cơ hội để bùng nổ. Như vậy, qua việc xây dựng nhân vật Mị với một cuộc sống đầy bi kịch, nhà văn Tô Hoài đã rất khéo léo thêm vào nhân vật của mình một nét tinh tế và giàu tính nhân văn. Dù viết về mảng đề tài bi kịch trong cuộc sống con người, những dòng văn của Tô Hoài vẫn mang hơi thở thơ. Hơi thở ấy chứa đựng trong đó khát khao mãnh liệt về một tương lai tươi sáng, tốt đẹp cho mỗi con người.
Nếu nói về chất thơ của “Vợ chồng A Phủ”, không thể không nhắc đến ngôn ngữ nghệ thuật của Tô Hoài với hàng loạt âm thanh, hình ảnh gợi cảm và thơ mộng. Ngôn ngữ văn xuôi của Tô Hoài không chỉ mang ý nghĩa cụ thể mà còn có giọng điệu, âm điệu câu văn nhịp nhàng. Tiết tấu này là cách thể hiện tâm hồn, tình cảm đa dạng của tác giả. Những điều này sẽ được phân tích cụ thể ở phần sau.
Tóm lại, chất thơ trong văn xuôi của Tô Hoài kết hợp khéo léo giữa khí sắc lãng mạn, bút pháp trữ tình và văn phong điêu luyện. Điều này đến từ việc sử dụng các loại hình nghệ thuật như hội hoạ, âm nhạc trong viết văn, cũng như sự kết hợp giữa thơ ca và văn xuôi. Chất thơ của Tô Hoài không chỉ ở vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn ở cung bậc cảm xúc trong tâm hồn con người.
.............
Tải file tài liệu để xem thêm về chất thơ trong Vợ chồng A Phủ