TOP 3 mẫu Phân tích chi tiết cảm xúc trong nụ cười của Tràng và giọt nước mắt của bà cụ Tứ trong Vợ nhặt của Kim Lân dưới đây sẽ là tài liệu cực kỳ hữu ích với các bạn học sinh lớp 12. Với 3 bài văn phân tích cảm xúc trong giọt nước mắt của bà cụ Tứ, các bạn sẽ hiểu rõ hơn về các quan điểm, luận điểm rõ ràng, sâu sắc.
Hình ảnh nụ cười và giọt nước mắt mang ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Kim Lân đã thông điệp tình cảm, suy tư của mình về nhân vật một cách tinh tế. Qua đó, triết lý nhân đạo, sự chia sẻ, đồng cảm và lòng tin của Kim Lân với nhân vật lại được thể hiện rõ ràng.
Dàn ý phân tích chi tiết nụ cười và giọt nước mắt
I. Bắt đầu:
Chi tiết về nụ cười của nhân vật Tràng và giọt nước mắt của bà cụ Tứ đã gợi lên nhiều cảm xúc trong lòng người đọc trong tác phẩm ' Vợ nhặt' của Kim Lân
II. Nội dung chính:
- Nụ cười của Tràng lặp lại nhiều lần trong câu chuyện
- Khi đẩy xe bốc
- Khi cùng thị về
- Trong ngôi nhà đơn giản, bần cùng
- Nụ cười làm dịu đi những gian nan của cuộc sống thực tế
- Nụ cười thực sự hạnh phúc->mang lại hy vọng và niềm tin vào ngày mai.
- Những giọt nước mắt của bà cụ Tứ chạm đến lòng ta, khiến chúng ta đầy xúc động và suy tư không ngớt
- Đó là những giọt nước mắt chứa đựng tình mẹ hiền của người phụ nữ
- Giọt nước mắt ấy là biểu hiện của niềm vui và nỗi buồn, khi con của cụ kết hôn
- Đó là những giọt nước mắt đắng cay, là nỗi đau không thể diễn tả được
- Giọt nước mắt ấy là lời kêu gọi chống lại sự tàn bạo của chiến tranh
III. Kết luận:
- Với tài năng nhạy bén của mình, Kim Lân đã biến nụ cười và những giọt nước mắt thành những yếu tố quan trọng, làm cho tác phẩm trở nên ý nghĩa và phong phú hơn.
Phân tích chi tiết nụ cười của Tràng và giọt nước mắt của bà cụ Tứ - Mẫu số 1
Chọn nạn đói năm 1945 – một phần bi kịch đau lòng trong lịch sử dân tộc làm bối cảnh cho câu chuyện, Kim Lân đã kể một câu chuyện lạ lùng nhất trong cuộc sống: chuyện anh Tràng bất ngờ gặp một người phụ nữ trong những ngày tối tăm vì đói khát. Tình huống độc đáo và éo le ấy đã nảy sinh nhiều tâm trạng phức tạp, niềm vui và nỗi buồn. Hình ảnh của nụ cười và nước mắt xuất hiện nhiều lần trong tác phẩm, được coi là những chi tiết nghệ thuật đặc sắc giúp Kim Lân thể hiện tài năng trong việc mô tả tâm lý nhân vật và chủ đề của tác phẩm.
Hình ảnh của nụ cười được nhà văn nhắc đến nhiều lần khi mô tả nhân vật Tràng. Khi đẩy xe bò thóc, anh vuốt mồ hôi trên khuôn mặt cười, trên đường dẫn người vợ về: anh tủm tỉm cười, hai con mắt sáng lên lấp lánh, khi trẻ con trêu chọc, Tràng bật cười. Khi người vợ kìm nén tiếng thở dài trước quang cảnh của nhà Tràng, anh 'quay lại và cười cười'. Bà cụ Tứ về, Tràng tươi cười mời mẹ ngồi lên giường...
Nụ cười của Tràng đã giúp phác họa tính cách, tâm lý đơn giản, nhân hậu, yêu đời của anh chàng quê mùa, thô kệch; cũng như niềm hạnh phúc, sung sướng của con người trong tận cùng đói khát vẫn không thôi khao khát tình yêu, tổ ấm gia đình. Đặt trong bối cảnh của câu chuyện về nạn đói thảm thương 1945, hình ảnh nụ cười của Tràng (lặp lại 8 lần) giống như làn gió mát lành làm dịu đi sự căng thẳng và đắng cay của cuộc sống, thể hiện cái nhìn lạc quan, niềm hy vọng của tác giả vào cuộc sống. Phải chăng, tác giả đã gửi đi một thông điệp đơn giản: chỉ có tình yêu thương mới có thể mang lại niềm vui, nụ cười hạnh phúc cho con người.
Bên cạnh việc mô tả tâm lý của Tràng qua nụ cười, Kim Lân cũng chú ý đến tâm trạng của nhân vật bà cụ Tứ qua chi tiết về giọt nước mắt. Khi hiểu ra lý do con trai mình lấy vợ, 'kẽ mắt của bà cụ rơi xuống hai dòng nước mắt'. Khi lo lắng cho tình hình đói khát của gia đình, bà cụ nghẹn lời không nói, nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng. Khi nghe thấy tiếng trống thuế, bà vội ngoảnh mặt đi, bà không muốn con dâu thấy bà khóc.
Giọt nước mắt của bà cụ Tứ là biểu hiện của nỗi xót xa và đau buồn của một người mẹ trước tình hình con gái bị ép phải kết hôn giữa cảnh đói khát và số phận không công bằng. Việc con gái lấy chồng là một niềm vui nhưng vì cảnh đói, cảnh chết chóc đã khiến bà cảm thấy xót xa, tủi thân. Giọt nước mắt đau lòng ấy giống như là lời kết án sâu sắc về tội ác của thực dân Pháp và phát xít Nhật đã đẩy dân ta vào thảm cảnh đó.
Dòng nước mắt là minh chứng cho tình mẹ hiền của bà, những giọt nước mắt rỉ ra như muốn kìm nén (rơi xuống hai dòng, rồi nhanh chóng lau đi). Bà yêu thương con, hạnh phúc với niềm vui của con, nhưng bà chôn sâu nỗi lo sợ, bà khóc lặng lẽ, khóc lẻ loi, sau đó chỉ nói những lời yêu thương, động viên con.
Nụ cười và nước mắt là biểu hiện của hai cảm xúc đối lập nhưng đều thể hiện ánh sáng của tình thương, của tình yêu giữa những ngày khó khăn. Chúng đóng góp vào việc thể hiện tình hình truyện, tạo ra giá trị thực tế, giá trị nhân văn sâu sắc. Kim Lân đã thể hiện mình là một nhà văn thông hiểu tâm lý nhân vật, có tài xây dựng những chi tiết nghệ thuật nhỏ nhưng chứa đựng ý nghĩa sâu xa, thể hiện quan điểm sáng tạo “trân trọng những điều bình dị, không trân trọng những điều phô trương”
Ngoài việc thành công với nụ cười và nước mắt, Kim Lân còn tạo ra ấn tượng sâu đậm với hình ảnh nồi cháo cám. Nhà văn đã cho thấy rằng trong cuộc sống đói khát, tình yêu có thể nảy sinh nhưng cũng đẩy con người vào bước đường cùng: liệu họ có thể vượt qua 'thìa gian này' không. Bữa ăn chào đón nàng dâu mới minh họa rõ hơn tình hình khốn cùng của những người dân ấy: giữa cái bát rách chỉ có cháo lỏng, một bọc rau chuối xắt rối, đĩa muối trắng và nồi cháo cám. Dù mẹ già gọi nó là 'chè khoán' nhưng vẫn không thể xóa đi cảm giác đắng, chua trong cổ họng, không thể kìm nén được nỗi buồn tức giận trong lòng mỗi người. Bát cháo cám như làm tan biến không khí vui vẻ ban đầu của bữa ăn. Hiện thực về đói đến cùng cực và đe dọa hạnh phúc của con người lại một lần nữa xuất hiện, làm mờ đi niềm vui mong manh. Nỗi đau khổ và buồn rầu tràn ngập trong trang văn của Kim Lân như làm lan tỏa sang độc giả.
Nhưng vượt lên trên nghĩa tả hiện thực, bát cháo cám còn làm rõ trước mắt tấm lòng, tình cảm của bà cụ già khổ hạnh. Bà vừa múc cháo, vừa đùa: “Chè khoán này, thấm cháo sạch”. Bà hiểu rõ vị đắng, chua của cháo cám, bà cũng hiểu về tương lai mờ mịt của đứa con mình. Người mẹ già đã kìm nén nỗi lo lắng cho tương lai của đôi trẻ, đã vượt qua mọi ngần ngại với con dâu về gia đình để tạo ra chút niềm vui cho không khí nhà. Ở cảnh khốn khó nhất, ta cảm thấy rất xúc động trước lòng nhân ái vô biên của người mẹ. Hơn nữa, không phải tình cờ Kim Lân để bà cụ già nua tuổi, già trước là người làm sinh lực cho niềm vui trong cơn đói. Là Kim Lân nhìn thấy lửa, thổi lửa và tin rằng có lửa ngay trong đống tro tàn, thấy mầm sống không chỉ nảy nở từ cây non hay cây già mạnh mẽ mà còn từ chính gốc cây đang yếu đuối. Không còn nghi ngờ gì nữa, món cháo cám của bà cụ Tứ là một chi tiết Kim Lân trọn vẹn truyền đạt niềm tin và khát vọng sống của con người.
Chi tiết về bát cháo cám cũng thể hiện khao khát hạnh phúc gia đình của một người phụ nữ không tên. Thấy mắt đưa chân không chỉ vì ăn, thấy không rời đi khi nhìn thấy gia cảnh nghèo nàn của Tràng, giờ ta càng hiểu sâu sắc hơn khao khát có một điểm dừng cho con thuyền phiêu bồng, một ngôi nhà dừng chân ở nơi thị trong hành động “điềm nhiên và nếm miếng cháo cám”. Hành động và thái độ ấy thể hiện sự chân thành, sẵn lòng chia sẻ nỗi đau với gia đình Tràng. Hạnh phúc mong manh vừa bắt đầu, có lẽ cần những bàn tay nâng đỡ như thế. Câu nói của bà cụ Tứ và hành động của con dâu là cách những người phụ nữ giữ gìn, bảo vệ và chăm sóc cho hạnh phúc mới nở.
Tinh tế trong việc mô tả chi tiết bát cháo cám, Kim Lân không chỉ tái hiện lại cảnh đời nghèo đói mà còn muốn ca ngợi tình người chân thành, bền bỉ nơi những trái tim thuần hậu, chất phác. Giữa hoàn cảnh khốn khó ấy, họ vẫn không ngừng yêu thương, đồng lòng góp sức và hy vọng.
Phân tích sâu sắc nụ cười của Tràng và giọt nước mắt của bà cụ Tứ - Mẫu 2
Khi nhắc đến nhà văn Kim Lân, người đọc sẽ liên tưởng đến một nhà văn của những người nông dân. Với người lao động, Kim Lân luôn dành những tình cảm đặc biệt, chân thành. Tác phẩm 'Vợ Nhặt' là một thành công xuất sắc của ông trong dòng văn học hiện thực. Sự thành công của truyện ngắn này đến từ sự sáng tạo trong việc đưa ra một tình huống đầy thách thức và các chi tiết, hình ảnh truyện giàu ý nghĩa. Ngoài nồi cháo cám, bát bánh đúc hay câu đùa vô tình, chi tiết về nụ cười của nhân vật Tràng và giọt nước mắt của bà cụ Tứ đã để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả.
Nụ cười của Tràng xuất hiện nhiều lần trong tác phẩm, đó là nụ cười giản dị, thô kệch của anh nông dân. Khi vất vả lao động, đẩy chiếc xe bò mặc cho mệt mỏi, Tràng vẫn giữ nụ cười nhẹ nhàng. Đó là nụ cười thân thiện, bình yên của những người nông dân nghèo. Khi được Thị theo về, Tràng cũng vui vẻ, có lẽ đó là niềm vui, hạnh phúc nhỏ bé mà anh đã chờ đợi, một khát vọng hạnh phúc gia đình. Khi qua xóm ngụ cư, Tràng cười rạng rỡ trong lòng có vẻ như đạt được điều gì đó quan trọng, khi về nhà sum họp với người mẹ già, anh cũng tươi cười khi nhìn thấy họ. Trong căn nhà giản dị, nghèo khổ, ta vẫn thấy nụ cười phản chiếu niềm hy vọng, niềm tin vào tương lai dù chỉ là nhỏ bé. Nụ cười của Tràng như một nốt nhạc an ủi giữa những gian truân, tù túng, khi “cái đói” đang bao trùm cả xóm ngụ cư, nụ cười đó làm giảm bớt cay đắng của thực tế. Tràng cười trong niềm hạnh phúc, sự bất ngờ khi có vợ, anh yêu Thị biết bao, chỉ tình thương và sự chăm sóc của những người dành cho nhau mới mang lại niềm vui thật sự, một nụ cười hạnh phúc thực sự hiện hữu trong tâm hồn.
Nếu nụ cười của Tràng mang lại sự nhẹ nhàng, an ủi trong tâm hồn khi đọc câu chuyện, thì những giọt nước mắt của bà cụ Tứ khiến lòng ta xúc động, lo lắng không nguôi. Ban đầu là 'Trong khe mắt ấm áp của bà rơi xuống hai dòng nước mắt' rồi dần trở thành tuôn rơi không ngừng: 'bà cụ không kìm nén được, nước mắt tuôn trào'. Đó là giọt nước mắt của tình thương, trong đó có niềm vui khi có vợ, nhưng hơn hết là lo lắng cho con cái vô bờ bến. Trong hoàn cảnh nghèo khó, khổ đau, khi cái ăn không đủ, liệu con cái có vượt qua được khó khăn này không, cụ đau lòng, niềm vui hòa lẫn nỗi lo âu, buồn phiền. Tình thương tha thiết nhất của cụ dành cho Tràng và Thị mới làm ta thấu hiểu, cụ là một người mẹ trách nhiệm, biết lo lắng cho con cái. Hơn bất kỳ ai khác, là người trải qua nhiều, cụ hiểu rõ hơn ai hết những gian khó của cuộc sống gia đình, đặc biệt là khi đói khát đang làm mưa làm gió, mạng sống con người như sợi tóc mảnh. Giọt nước mắt của cụ là biểu hiện của nỗi đau khó diễn đạt, nỗi lòng đắng cay, qua đó còn phản ánh tội ác của chiến tranh khiến cho nhiều gia đình đầy sóng gió. Thực tế, trong hoàn cảnh cưới vợ cho con, nơi phải tràn ngập niềm vui, lời chúc phúc cùng nụ cười mãn nguyện, bây giờ lại còn kèm theo những giọt nước mắt dài đầy lo lắng, xót xa. Đó là giọt nước mắt là minh chứng cho tình mẫu tử thiêng liêng, lo lắng cho hạnh phúc của đứa con.
Tinh tế trong việc mô tả giọt nước mắt của bà cụ Tứ - Mẫu 3
Nhà văn Kim Lân được biết đến như “người sáng tạo của nông thôn”, là nhà văn “mãn nhãn đồng quê, thiên nhiên, những giá trị bản sắc của dân tộc Việt Nam”. Mặc dù là một trong những tác giả cuối cùng của trào lưu văn học hiện thực 1930-1945, nhưng Kim Lân lại mang một phong cách riêng biệt so với các đồng nghiệp. Tác phẩm nổi bật và cũng là thành công nhất của ông trong giai đoạn này là truyện ngắn “Vợ nhặt” được in trong tập “Con chó xấu xí”, năm 1962. Tác phẩm này là bức tranh chân thực về nạn đói năm 1945, là sự ca ngợi tình thương con người, tình mẫu tử; tôn vinh khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của những người nông dân nghèo. Nhân vật bà cụ Tứ trong truyện ngắn này đại diện cho nét đẹp của người nông dân, hình mẫu mẹ Việt Nam truyền thống. Mặc dù không được mô tả chi tiết về vẻ ngoài và dáng vẻ, nhưng qua việc bà rơi nước mắt hai lần khi Tràng dẫn người vợ nhặt về ra mắt, chúng ta đã hiểu hơn về người phụ nữ nông dân ấy, đồng thời cảm nhận sâu sắc và trân trọng hơn tình yêu con vô biên của bà.
Từ thuở nhỏ, sống trong hoàn cảnh nghèo khó, Kim Lân đã phải làm đủ mọi công việc để kiếm sống. Có lẽ chính vì vậy, hơn ai hết, ông hiểu biết được sự khó khăn, vất vả của những người lao động nghèo. Ông bắt đầu sự nghiệp của mình với các truyện ngắn và vào năm 1945, ông viết tiểu thuyết “Xóm ngụ cư”. Nhưng sau này, sau khi mất bản thảo, Kim Lân đã sử dụng cốt truyện cũ để viết truyện ngắn “Vợ nhặt”, một tác phẩm mang sức mạnh tư duy của cả một tiểu thuyết. Với tài năng viết truyện độc đáo, mới lạ, nhà văn đã thành công trong việc vẽ nên từng nhân vật, từ đó làm sáng tỏ vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân. Kim Lân không chỉ thành công trong việc xây dựng mạch cảm xúc, tâm trạng của nhân vật mà ông còn rất giỏi trong việc tạo ra các chi tiết nghệ thuật. Việc bà cụ Tứ khóc hai lần: “Bà lão cúi đầu… qua đợt đói nghèo này hay không” và “có khi nào… đáng thương quá” khi Tràng dẫn cô vợ nhặt về ở giữa tác phẩm thực sự làm cho truyện ngắn “Vợ nhặt” trở nên đẹp mắt hơn.
Chi tiết này được xem như “ngọc quý của tác phẩm”. Đó chính là túi tiền, chứa đựng cảm xúc, tư duy và bản tính riêng của nhà văn. Chi tiết giọt nước mắt của bà cụ Tứ không chỉ là biểu hiện của sự đau xót của Kim Lân đối với những con người có số phận nhỏ bé, lắt léo, mảnh khảnh mà còn là lời tố cáo xã hội thực dân phong kiến lạc hậu thời ấy. Đây thực sự là điểm nhấn nghệ thuật của tác phẩm.
Bà cụ Tứ, một bà mẹ nghèo khó, già dặn, “nghiền ngẫm tính toán” theo thói quen của người già. Bà sống ở xóm ngụ cư và sống cùng con trai tên là Tràng. Hình ảnh bà cụ Tứ lần đầu xuất hiện ở giữa tác phẩm, vào một buổi chiều tà. Bà hiện ra với vẻ đi “lom khom”, chậm chạp, vừa đi vừa “ho húng hắng”. Từ vẻ bề ngoại, dáng vẻ của bà, ta cũng cảm nhận được cuộc sống của một phụ nữ bình dân, yêu thương con cái hết mực và đã trải qua nhiều khó khăn, gian truân trong quá khứ.
Trong câu chuyện ngắn 'Vợ nhặt”, năm 1945 là thời điểm cả xã hội đang chìm đắm trong cảnh đói khát, khi mà cái chết luôn rình rập. Anh Tràng, một người đàn ông nghèo khổ, xấu xí và ngốc nghếch, tình cờ 'nhặt' được một người vợ. Trong buổi chiều nắng gay gắt, tối tăm bởi cơn đói, Tràng dẫn 'vợ nhặt' về nhà. Trước tình thế khó khăn đó, bà cụ Tứ đã có những hành động khôn ngoan và một dòng suy nghĩ phức tạp.
Khi gặp 'vợ nhặt” lần đầu tiên, bà không khỏi ngạc nhiên khi thấy cô gái đứng ở phòng con trai mình. Hàng loạt câu hỏi xuất hiện trong tâm trí bà, và chỉ khi Tràng kể chuyện, bà mới hiểu được mọi điều. Lúc này, trong lòng người mẹ đầy những suy tư. Mặc dù đau lòng và tự trách bản thân, nhưng bà vẫn biết cách chấp nhận và tha thứ. Hành động đó của bà là minh chứng cho sự thông minh và lòng từ bi. Bà đã đứng giữa hai người con, đặc biệt là người con dâu mới, giải quyết mọi phiền muộn, sự xấu hổ một cách thông minh và nhân hậu. Đây chính là trái tim của một người mẹ nhân hậu và là trí tuệ của người trưởng thành. Trong lòng bà cụ Tứ, nỗi lo lắng, xót xa và tình yêu vô điều kiện dành cho con cái đều hiện rõ.
Bà cụ Tứ cũng lo lắng cho cả Tràng và người con dâu. Lòng mẹ của bà đã thể hiện tình yêu thương và sự xót xa cho số phận nghèo khó của hai người. Dòng nước mắt của bà chỉ rỉ xuống một cách nhẹ nhàng, vì cả cuộc đời của bà đã trải qua biết bao khó khăn. Thông qua việc này, Kim Lân đã thành công trong việc miêu tả cảm xúc của bà cụ Tứ.
Sau khi chấp nhận hôn nhân của hai con, bà cụ Tứ đã động viên và ủng hộ họ. Mặc dù hôn nhân này được xây dựng trên nền tảng sự bấu víu, nhưng bà vẫn coi trọng và yêu thương người con dâu mới. Bà hy vọng rằng họ sẽ có cuộc sống hạnh phúc và hòa thuận.
Tuy vui đâu kéo dài được, bà bị ám ảnh bởi những lo lắng, nỗi tự ti về tương lai 'Con cái lấy nhau vào lúc này quá đáng thương'. Không chỉ là lo sợ trong tâm trí như đã nói ở trên, lúc này bà phải thể hiện nỗi lo, nỗi thương đến đau lòng và thốt lên 'quá đáng thương'. Mọi cảm xúc dường như tập trung vào từ 'đáng thương' để giọt nước mắt của bà lại tuôn trào. Nhưng không chỉ 'rỉ xuống' mà trở thành 'chảy xuống không ngừng'. Nước mắt chảy ra mà bà không kiềm nén được. Hình ảnh này thể hiện sự xót xa đến đỉnh điểm cùng với nỗi lo trong lòng người mẹ. Bà không chỉ thương mà còn cảm thấy có lỗi với con. Làm mẹ nhưng không thể tổ chức cho con một đám cưới, một buổi tiệc hoành tráng. Trước sự trọng đại của cuộc đời con trai, bà không làm được gì để giúp con hạnh phúc. Trong lòng bà đầy tức giận và tiếc nuối. Không còn dùng ngôn từ trực tiếp nữa, Kim Lân đã sử dụng ngôn ngữ kể chuyện, mô tả thực tế. Mặc dù vậy, ông vẫn thành công trong việc truyền tải dòng chảy tình cảm và tính cách của nhân vật này. Bà cụ Tứ hiện lên không chỉ với tâm hồn đẹp mà còn với tính cách chân thực, chân thành của một người mẹ.
Có thể nói, qua hai chi tiết này, tình yêu của mẹ với con đã được nêu bật. Trước tình cảnh khó khăn đó, bà đã rất kiên nhẫn, cố gắng giấu đi nỗi đau, sự thương tâm để loại bỏ những sự nhục nhã trong tình huống phải kết hôn của con. Nhưng cuối cùng, nỗi lo sợ, sự thương cảm đã bùng phát và bà phải 'rơi xuống' những giọt nước mắt. Người mẹ đã gạt đi nỗi đau đó và an ủi, động viên vợ chồng Tràng. Nhưng với sự ái oán, bất mãn, nỗi lo về tương lai lại quay về, bám lấy bà. Bây giờ, bà không còn kiềm chế được nữa và dòng nước mắt 'tuôn ra không ngừng' như một dòng sông đầy. Giọt nước mắt của người mẹ nghèo này là biểu hiện của tình mẫu tử, lòng nhân từ, sự hy sinh nhưng cũng là biểu hiện của sự bất lực khi không thể hoàn thành trách nhiệm với con.
Thể qua những giọt nước mắt của bà cụ Tứ, Kim Lân cũng lên án hiện thực của cuộc chiến tranh khốc liệt đã đẩy con người vào những tình huống đau khổ. Bà cụ Tứ là hình mẫu của người phụ nữ Việt Nam truyền thống với những phẩm chất tốt lành: lòng từ bi, lòng biết ơn, lòng yêu thương và tinh thần lạc quan. Tính cách của nhân vật một lần nữa làm rõ chủ đề tư tưởng của tác phẩm: trong những thời kỳ đói khát, khi con người chỉ biết lo lắng về cơ bản, cái chết đang ở gần, thì tình yêu thương, sự chia sẻ, động viên, niềm hy vọng vào tương lai vẫn tồn tại.
Thông qua hai chi tiết nghệ thuật, tác giả đã tinh tế truyền đạt tâm tư, tình cảm của mình dành cho nhân vật. Điều này làm nổi bật tư tưởng nhân đạo, lòng đồng cảm, sự chia sẻ và niềm tin của Kim Lân với nhân vật. Bằng ngòi bút chân thực và tấm lòng nhân từ, Kim Lân đã diễn đạt được một cách chân thành và xúc động cuộc đời và số phận của con người Việt Nam trong nạn đói khốc liệt năm 1945. Mặc dù không miêu tả chi tiết ngoại hình, tính cách của bà cụ Tứ, nhưng qua dòng nội tâm, qua cử chỉ, hành động, chúng ta thấy được hình ảnh thật của bà, với nét đẹp tâm hồn của người mẹ lao động. Chi tiết giọt nước mắt đã thể hiện sự sâu sắc, tinh tế của Kim Lân trong nghệ thuật mô tả tâm lý nhân vật. Nhà văn đã thành công trong việc xây dựng tình huống éo le, độc đáo và những chi tiết nghệ thuật đặc sắc, làm nổi bật vẻ đẹp thẩm mỹ của tác phẩm.
M. Gorki đã từng nói: 'Chi tiết nhỏ tạo nên nhà văn lớn'. Kim Lân thực sự là một nhà văn lớn của văn học Việt Nam, khi chỉ từ những chi tiết nhỏ mà sâu sắc, ông đã thể hiện cả tài năng và lòng nhân đạo của mình. Cùng với đó, thành công của truyện ngắn 'Vợ nhặt' còn đến từ việc Kim Lân đã ấn tượng mạnh với độc giả thông qua cách kể chuyện cuốn hút, ngôn từ đơn giản, phù hợp với mọi lứa tuổi. Có lẽ vì thế, cho đến bây giờ, 'Vợ nhặt' vẫn để lại dấu ấn không phai trong lòng người đọc qua nhiều thế hệ.