Bài văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Đò Lèn của Nguyễn Duy gồm 4 mẫu văn siêu hay, đạt điểm cao của các bạn học sinh giỏi. Những phân tích này sẽ cung cấp thêm nhiều gợi ý ôn tập và giúp củng cố kỹ năng viết văn phân tích bài thơ ngày càng tốt hơn.
Đò Lèn của Nguyễn Duy là một tác phẩm thơ đầy ý nghĩa, nó đã thể hiện rất sâu sắc tình cảm của người cháu dành cho bà. Đồng thời, bài thơ cũng đưa người đọc về với tuổi thơ, giúp ta nhận ra giá trị thực sự của cuộc sống và học cách yêu thương và trân trọng hơn. Dưới đây là TOP 4 mẫu phân tích Đò Lèn hay nhất, mời các bạn cùng đọc.
Phân tích Đò Lèn - Mẫu 1
Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã từng có một nhận xét thú vị về nhà thơ Nguyễn Duy như sau: 'Hình tượng Nguyễn Duy giống như một mảnh đất hoang, trong khi thơ Nguyễn Duy lại là một cây quý mọc trên mảnh đất hoang đó'. Thơ của Nguyễn Duy đặc biệt ở chỗ trong những câu thơ ngắn gọn, tự do và hồn nhiên, đằng sau đó lại chứa đựng những tư duy sâu sắc về cuộc sống, đầy tĩnh lặng và ý nghĩa sâu xa, thấm vào lòng người đọc, khiến họ phải suy ngẫm về quãng đời, về tâm trạng của chính mình qua những tháng ngày trôi qua.
Tượng trưng cho lối viết đó là tác phẩm Ánh trăng, sâu sắc nhận thức về tình yêu thương bền vững so với sự thay đổi của con người trước lòng trung thành bất biến của ánh trăng cao cao trên bầu trời. Tuy nhiên, trong Đò Lèn, sự sâu sắc này lại được thể hiện mạnh mẽ hơn trong việc suy tư về cuộc sống đầy khó khăn của người bà trong những thời kỳ chiến tranh, cùng với tuổi thơ vô tư, ngây thơ của người cháu. Khi lớn lên, khi cháu đã trưởng thành và tham gia vào cuộc chiến, khi đất nước đã giành được độc lập, bà chỉ còn là một bóng hình mờ nhạt, và người cháu phải hối tiếc trễ rồi.
Nguyễn Duy, một cựu binh tham gia vào cuộc chiến chống lại Mỹ, nên trong thơ của ông, hình ảnh người lính thường xuất hiện nhiều lần, đặc biệt là trong những tác phẩm về chiến tranh và quê hương. Ông không tìm kiếm những vẻ đẹp kiêu hãnh và lớn lao mà thay vào đó, Nguyễn Duy thường tập trung vào những hình ảnh đơn giản, giản dị, sâu sắc trong những kí ức của tuổi thơ, trong cuộc chiến khốc liệt.
Trong Đò Lèn, cả bài thơ là một bức tranh về ký ức, mang trong đó niềm vui và sự hồn nhiên của tuổi thơ, nhưng cũng chứa đựng những kí ức về thời chiến tranh đầy đau buồn. Tuy nhiên, việc đọc thơ của Nguyễn Duy không chỉ gây buồn lòng mà còn gợi ra suy tư sâu xa. Do đó, giọng văn của ông luôn thoải mái và đôi khi còn mang tính hài hước, che lấp đi những khía cạnh u buồn, và dẫn dắt người đọc đến những tình cảm khác, như tình thân. Đò Lèn là bức tranh ký ức của Nguyễn Duy, trong đó hai khổ thơ đầu là những kí ức tuổi thơ của tác giả, với những ngày tháng đơn giản, ngây thơ và chất phác.
'Hồi nhỏ, tôi lên dòng Cống Na câu cá
nắm váy bà đi chợ Bình Lâm
bắt chim sẻ bên tai tượng Phật
và đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trần
Thuở nhỏ, tôi lên thăm đền Cây Thị
chân trần đi đêm thưởng lễ đền Sòng
mùi hương huệ quyện với khói trầm thơm nồng
âm nhạc văn lảo đảo trong bóng tối cô độc'
Có thể nói qua ký ức của Nguyễn Duy, nhà thơ đã trải qua một tuổi thơ rất đẹp, đúng nghĩa, với hình ảnh một cậu bé tinh nghịch, năng động, lang thang khắp làng xóm, vừa 'câu cá' vừa 'bắt chim', đôi khi thậm chí còn 'ăn trộm', và rất thích gần gũi với đám đông, nên mới 'níu váy bà đi chợ'. Các địa danh cống Na, chợ Bình Lâm, chùa Trần, đền Cây Thị, đền Sòng hiện lên thật gần gũi và kết nối chặt chẽ với tuổi thơ của tác giả, đậm chất văn hóa làng xóm Việt Nam.
Thêm vào đó, bản sắc thôn quê, giản dị của người Việt đã được thể hiện qua những chi tiết về phong tục tập quán đặc biệt trong cảnh 'tham gia lễ hội tại đền Sòng', nơi hòa mình vào không khí dân dã của làng quê với 'âm nhạc văn lảo đảo trong bóng tối cô đơn', cùng với mùi hương huệ thơm lịm. Cảnh quê nghèo khó, giản dị trong 'đi bộ đến đền Sòng vào ban đêm' phản ánh bản tính trong sáng, ngây thơ, hồn nhiên, vui tươi của một cậu bé nông thôn, là biểu tượng của làng quê xưa.
Những hình ảnh ấy khiến người ta nhớ về văn hóa truyền thống của dân tộc mình. Mặc dù tuổi thơ của Nguyễn Duy khó khăn, vất vả, nhưng nhờ sự chăm sóc của người bà, tác giả vẫn được sống vui vẻ, trải nghiệm nhiều thú vị như 'câu cá', 'bắt chim', đôi khi 'ăn trộm'. Trong trái tim của Nguyễn Duy, hình ảnh bà ngoại là điều gần gũi nhất, là nguồn cảm xúc phong phú, từ niềm tiếc nuối, ân hận đến lòng thương xót cho bà mình đã phải chịu đựng nhiều khó khăn.
'Tôi chẳng biết bà tôi gánh nhọc nhằn thế
bà vất vả kiếm cua ở đồng Quan
bà đi gánh chè xanh Ba Trại
Quán Cháo, Đồng Giao thâu thề những đêm lạnh'
Nguyễn Duy nhẹ nhàng thốt lên trong tiếc nuối và ân hận 'Tôi chẳng biết bà tôi gánh nhọc nhằn thế', điều đó không thể trách bởi vì với một đứa trẻ tuổi ăn, tuổi lớn, cái tính ngây thơ, hồn nhiên, ham chơi, nghịch ngợm đã không để cho nhà thơ có nhiều suy nghĩ hơn, chỉ đến khi đã trưởng thành, đã trải qua nhiều, Nguyễn Duy mới thức tỉnh, giật mình nhớ về người bà đã nuôi dưỡng mình lớn.
Ký ức là như một cuốn băng chạy chậm đưa tác giả trở lại với những hình ảnh ố vàng, vết bụi của thời gian, những ngày 'bà mò cua xúc tép ở đồng Quan', những hôm 'bà đi gánh chè ở Ba Trại', bà đi 'thập thững những đêm lạnh' khiến cả Quán Cháo, Đồng Giao hiên ngang. Hình ảnh người bà trở thành biểu tượng cho lòng hi sinh, chịu đựng, đồng vai gánh nặng khổ cực, với tình yêu thương vô điều kiện dành cho con cháu trong lòng người phụ nữ Việt Nam.
Hình ảnh người bà và cảm xúc của Nguyễn Duy trong đoạn thơ này có điểm tương đồng với Bằng Việt trong bài thơ Bếp lửa 'Nhóm bếp lửa nghĩ về bà khó nhọc', thể hiện tình cảm yêu thương, tôn trọng và lòng thương xót cho những vất vả mà bà ngoại đã phải chịu đựng suốt cuộc đời, để cháu có một tuổi thơ êm đềm, hạnh phúc. Trong mắt của Nguyễn Duy, tình thương của người bà dành cho cháu trọn ven, ấm áp và thánh thiện vô cùng.
'Tôi đứng giữa hai thế giới, giữa bà và tiên phật, thánh thần
trong cái năm đói kém, củ dong riềng luộc chín
ngửi thấy hương thơm của huệ trắng, nhang trầm'
Nguyễn Duy đứng giữa 'hai thế giới' để suy ngẫm về người bà, sử dụng tấm lòng trong suốt, tinh tế để cảm nhận về bà và tình cảm của bà, bà luôn dành cho cháu một tình thương vô điều kiện, ân cần và yêu thương. Bà dành cháu 'củ dong riềng luộc chín' trong những năm kém khó khăn, đói nghèo, mà cháu ăn vào như ăn vào tình thương ấm áp, dịu dàng của bà, vẻ đẹp thiêng liêng của tình thương 'mùi huệ trắng, hương trầm', vòng quanh trong ký ức.
Hương thơm của huệ trắng, của nhang trầm đã lặp lại hai lần trong bài thơ, như là ôm lấy một tuổi thơ nghèo khó nhưng tình cảm của Nguyễn Duy, tựa như tình thương, như ánh mắt hiền từ, như lòng từ bi của bà theo dõi bước chân cháu suốt cuộc đời, khiến cháu mãi nhớ, mãi thương.
'Khi bom Mỹ rơi, nhà của bà tôi bị phá hủy
đền Sòng bay mất, chùa chiền tan hoang
thánh và Phật không còn, họ bỏ đi hết
bà tôi phải đi bán trứng ở ga Lèn'
Sau chiến tranh, Nguyễn Duy dùng lối hài hước để mô tả cảnh tàn phá, nhằm làm cho thơ nhẹ nhàng hơn, gần gũi hơn nhưng vẫn lưu lại ấn tượng sâu sắc về những thiệt hại mà bom đạn đã gây ra 'nhà bà tôi bị phá hủy/đền Sòng bay mất, chùa chiền tan hoang'.
Chỉ một từ 'bay' nhẹ nhàng thôi, nhưng đủ để diễn tả cảnh xóm làng tan hoang, khiến người đọc cảm thấy buồn cười và đau lòng với câu thơ vô cùng trong sáng 'thánh và Phật không còn, họ bỏ đi hết'. Mọi thứ đã biến mất hoặc mất hết, nhưng bà vẫn còn, vẫn mạnh mẽ hơn cả nhà cửa, chùa chiền, kiên định hơn thần thánh, Phật, bà vẫn ở lại để kiếm sống, 'đi bán trứng ở ga Lèn', để nuôi cháu trai còn thơ ngây.
Chỉ có tình cảm ruột thịt, lòng hy sinh, sức mạnh kiên cường của người bà, của phụ nữ Việt Nam mới có thể chống chọi được mọi khó khăn, từ bom đạn, mưa sa, bão táp, đến những gian khó của cuộc sống. Một thời kỷ niệm đã qua, khi cháu lớn lên, bước ra chiến trường mới hiểu được khó khăn, hy sinh của bà, nhưng khi trở về, bà đã ra đi, chỉ còn lại nấm mộ xanh biếc.
Bà mạnh mẽ, kiên cường nhưng không thể chống lại thời gian, khi cháu lớn lên, đã biết suy nghĩ, không còn cần sự bảo bọc của bà nữa. Nguyễn Duy quay về quê hương, tìm kiếm những ký ức về bà, những xóm làng quen thuộc thuở nhỏ, mọi thứ đã thay đổi, và bà cũng không còn nữa.
'Lính xuống đất, lâu không thấy quê hương ngoại
dòng sông cũ vẫn chảy bên cạnh trũng bồi
khi nhận ra tình yêu dành cho bà đã muộn màng
bà chỉ còn lại như một nấm cỏ xanh'
Nhìn dòng sông xanh biếc đại diện cho quê hương, sau chiến tranh, quê hương trở lại với bình yên, gợi lại nỗi tiếc nuối vì đã không biết trân trọng, yêu thương bà khi còn ở bên cạnh, chỉ mải mê rong chơi. Bây giờ bà đã ra đi, để lại chỉ một nấm cỏ xanh, khiến tác giả hối hận vô cùng về những ngày thơ vô tư mà không chăm sóc bà, không để ý đến sự mệt mỏi của bà.
Khổ thơ cuối của Nguyễn Duy khiến người đọc phải suy ngẫm về việc liệu họ đã thực sự trân trọng, yêu thương những người thân và những người xung quanh chưa. Bài thơ đem lại một thông điệp nhân sinh sâu sắc: 'Hãy biết trân trọng, biết ơn những gì bạn đang có, trước khi thời gian dạy cho bạn biết phải trân trọng những gì bạn đã từng có'.
Phân tích bài thơ Đò lèn - Mẫu 2
Nguyễn Duy sáng tác bài thơ 'Đò Lèn' vào tháng 9 năm 1983, được xuất bản trong tập thơ 'Ánh trăng', phát hành vào năm 1984. Bài thơ gồm hai câu thơ bảy chữ, một câu thơ chín chữ, và 32 câu thơ tám chữ.
Các dòng thơ tiếp tục lan tỏa như tiếng kể tâm tình. Những địa danh thân thuộc của quê hương, từng gắn bó với tâm hồn của tác giả từ thời thơ ấu, được tái hiện rất chân thực: Đò Lèn, cống Na, chợ Bình Lâm, chùa Trần, đền Cây Thị, đền Sòng, Ba Trại,... Hình ảnh người bà nghèo khó, tận tả, hiền lành... hiện về trong những dòng thơ đậm nghệ thuật và lôi cuốn. Nguyễn Duy mất mẹ từ nhỏ, sống dưới sự ân cần yêu thương của bà ngoại, điều này đã tạo nên sức mạnh và sự xúc động cho lời thơ của ông. Cuối cùng, giọng thơ trở nên đắng cay hơn, nhớ nhung và thương tiếc bà hơn.
Hai dòng thơ đầu tiên nhắc lại những kỷ niệm thơ ấu của một cậu bé nghèo, thích khám phá và nghịch ngợm: câu cá ở cống Na, theo bà đi chợ Bình Lâm, bắt chim sẻ gần tượng Phật, thậm chí còn 'đi ăn trộm nhãn ở chùa Trần'. Có những câu thơ đơn giản, bình dị nhưng khiến ta nhớ mãi về sự trong sáng, vô tư của một cậu bé ở quê:
'niềm vui khi bà đi chợ Bình Lâm
đi săn chim gần tượng Phật
và đôi khi ăn trộm nhãn ở chùa Trần'.
Cũng đã từng 'đi chơi đền Cây Thị'. Với đôi chân trần của một cậu bé nghèo, vẫn háo hức trong những lễ hội, vẫn 'đi xem lễ đền Sòng'. 'Đền Sòng thiêng nhất vùng' (Tản Đà), gần biên giới với Ninh Bình nhưng cậu bé vẫn miệt mài đi quanh đây để tham dự lễ hội. Hoa huệ trắng, hương trầm, âm nhạc văn cổ và bóng cô đơn 'lảo đảo' đã ghi sâu vào trí óc của Nguyễn Duy khi còn nhỏ:
'mùi huệ trắng kết hợp với hương trầm thơm ngát
âm nhạc văn cổ và bóng cô đơn 'lảo đảo'.'
Từ 'lảo đảo' là biểu tượng của cảnh quan cô đơn mà chúng ta thường thấy trong các lễ hội dân gian. Nguyễn Duy thường nhắc đến hoa huệ với màu trắng và mùi thơm, biểu hiện cho sự thanh khiết của tâm hồn:
'Hương huệ thơm bốc lên vùng đêm
khói nhang trang trí nên lối lên chùa'.
(Ngồi buồn nhớ về mẹ xưa)
Trong bài thơ 'Đò Lèn', ông cũng nhắc lại hai lần: mùi huệ trắng kết hợp với hương trầm thơm ngát... mỗi lần ngửi thấy mùi huệ trắng, hương trầm...
Bài thơ 'Đò Lèn' gây ấn tượng mạnh với hình ảnh của người bà, bà ngoại của Nguyễn Duy. Ông hối tiếc, trách mình vì đã không quan tâm đến bà: 'Tôi đâu biết bà tôi cơ cực như thế'. Bà, trong nghèo khổ, làm công việc vất vả để nuôi cháu. Bà bán chè xanh ở Ba Trại, với đôi vai 'chín dạn' gánh đòn tre. Bước đi của bà 'thập thùng' trong đêm tối, gió lạnh. Bà là biểu tượng của sự hi sinh và lòng nhân ái của phụ nữ Việt Nam. Nguyễn Duy gửi gắm lòng biết ơn và tình yêu thương cho bà:
'Chẳng hay biết bà tôi khổ cực thế
bà lặn lội mò cua, xúc tép ở đồng Quan
bà mang chè xanh Ba Trại đi gánh
Quán Cháo, Đồng Giao, đêm hàn, bà thập thùng'.
Trong năm đói, một củ dong riềng luộc sượng là sự ân tình của bà dành cho cháu. Trong vị ngọt của củ dong riềng, đứa cháu 'ngửi' được mùi thơm của huệ trắng, của hương trầm. Nguyễn Duy đã lấy mùi thơm của huệ trắng, hương trầm để diễn đạt những xúc cảm về tình thương bao la, mênh mông của bà. Bà là người hiền lành, tâm hồn bà đôn hậu, thánh thiện. Tiên, Phật, thánh, thần soi sáng lòng từ bi, bác ái mà bà hướng tới. Sống trong tình thương ấp ủ của bà, nên đứa cháu mới thấu hiểu được lòng bà, tâm hồn của bà:
'Tôi lúc đó ở giữa hai thế giới hư - thực
giữa bà tôi và tiên, Phật, thánh, thần'.
Trong thời gian khói lửa, bom đạn làm nhà bà 'bay mất', đền Sòng cũng 'bay', chùa chiền 'bay tuốt cả',... Khi 'thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết' bà vẫn trụ vững giữa cuộc đời, bà vẫn kiếm sống bằng cách bán trứng ở ga Lèn, bà vẫn chống chọi với mọi khó khăn lam lũ:
'bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn'.
Đó là một nét vẽ rất chân thực, rất sâu sắc trong việc miêu tả về người bà của nhà thơ; và đó cũng là hình ảnh người bà rất thân thuộc với mỗi gia đình Việt Nam chúng ta.
Đoạn cuối nói lên sự xúc động của đứa cháu khi đứng trước mộ bà ngoại:
'Tôi đi lính, lâu không về quê ngoại
dòng sông xưa vẫn bên lở bên bồi
khi tôi biết thương bà đã muộn
bà chỉ còn là một nấm cỏ thôi'.
Sự kết hợp hài hòa giữa cảm xúc và triết lí đã tạo nên sự chạm đến lòng người của vần thơ. Dòng sông xưa mà tác giả nhắc đến là sông Chu, sông Mã, sông Đò Lèn. Những năm dài chiến tranh đã qua đi. Quê hương đất nước yên bình, từng ngày thay đổi, từng ngày trở nên tươi đẹp hơn. Câu thơ 'dòng sông xưa vẫn bên lở bên bồi' mang ý nghĩa về cuộc sống biển đời, về sự thay đổi của đất nước hùng vĩ.
Phân tích về bài thơ Đò lèn - Mẫu 3
Nguyễn Duy là một nhà thơ với nhiều đóng góp quan trọng trong văn chương Việt Nam, với việc mất cha mẹ từ sớm, cảm xúc về tuổi thơ luôn gần gũi và ảnh hưởng sâu sắc đến cuộc đời và sáng tác của ông. Điều này đã mang lại cho ông nguồn cảm hứng để viết bài thơ Đò Lèn.
Trong lần trở về quê hương, những cảm xúc về quê hương đã trỗi dậy trong ông. Ông nhớ lại những kí ức ấm áp bên bếp lửa và những khoảnh khắc sống bên bà ngoại, tạo nên một mê cung phức tạp trong tâm trí ông. Bài thơ bắt đầu với nỗi nhớ và tình thương sâu lắng trong ông, làm dấy lên những kỷ niệm da diết và xúc động trong trái tim ông. Những hình ảnh về tuổi thơ, như việc đi câu cá ở cống Na, níu váy bà đi chợ Bình Lâm, bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật, và đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trần, hiện lên trong tâm trí ông với sự sống động và ý nghĩa sâu sắc, làm ông thấy vui vẻ khi nhớ lại những khoảnh khắc đó.
Thuở nhỏ tôi ra cống Na câu cá
níu váy bà đi chợ Bình Lâm
bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật
và đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trần
Thuở nhỏ tôi lên chơi đền Cây Thị
chân đất đi đêm xem lễ đền Sòng
mùi huệ trắng quyện khói trầm thơm lắm
điệu hát văn lảo đảo bóng cô đồng
Những hình ảnh này sống động và hấp dẫn trong tâm trí của ông, tạo nên một không gian vô tận của tuổi thơ và những niềm vui dân gian, đem lại cho ông nhiều cảm xúc và hương vị ngọt ngào của kí ức. Cùng với đó là những khoảng không gian yên bình và bình dị mà ông từng trải qua, tạo nên niềm hạnh phúc và nỗi nhớ trong tâm hồn ông. Tất cả những kỷ niệm và hình ảnh của tuổi thơ đã được miêu tả lại một cách chân thực và cảm động, làm cho mỗi người đều cảm thấy hoài niệm về kí ức của mình. Hình ảnh về người bà, người mẹ thứ của ông, cũng hiện lên trong kí ức của ông:
Tôi không biết bà tôi phải trải qua những gian khó
bà phải đi săn cua, xúc tép ở đồng Quan
bà đi bán chè xanh ở Ba Trại
Quán Cháo, Đồng Giao, những đêm giá rét bà phải thập thững
Những kí ức về người bà của tác giả là hình ảnh của một người phụ nữ giản dị, kiên nhẫn và hiếu thảo, dành cả cuộc đời để chăm sóc và nuôi nấng người cháu của mình. Dù cuộc sống không dễ dàng, người bà vẫn không ngần ngại làm mọi việc để giữ cho con cháu được ấm no. Hình ảnh đó đã thấm vào tâm hồn của tác giả, khiến anh nhớ mãi và cảm thấy biết ơn. Trong những ngày giá rét, bà vẫn kiên nhẫn thực hiện những công việc vất vả để nuôi sống cháu, và kỷ niệm đó khiến tác giả cảm thấy bất ngờ và sâu sắc.
Trong những hồi ức đẹp đó, tác giả nhớ lại một cách sâu sắc và da diết về người bà của mình. Hình ảnh đó gợi lên nhiều cảm xúc mạnh mẽ và gần gũi, làm cho tâm trí của tác giả như lạc vào một thế giới kỷ niệm ngọt ngào. Tác giả cảm thấy nhớ những khoảnh khắc bên bà, và mong ước có thể trải nghiệm thêm những giây phút đó một lần nữa.
Bom Mỹ rơi, nhà bà tôi tan hoang
đền Sòng sụp đổ, chùa chiền cũng mất hết
thánh và Phật chẳng ở lại đâu
bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn
Tôi đi lính, lâu không về quê ngoại
dòng sông xưa vẫn mênh mông bên lềnh bềnh
khi tôi nhận ra tình thương của bà thì đã muộn
bà chỉ còn là một hồn ma trong kí ức!
Cảm xúc của nhà thơ đã được diễn đạt chân thực, hiển hiện sâu trong lòng tác giả. Ông như muốn nhớ lại những kí ức, để cảm thấy tiếc nuối về quãng thời gian đã trôi qua. Hình ảnh đã khắc sâu trong tâm hồn của ông, gợi lên nhiều cảm xúc và kỷ niệm về tuổi thơ ngọt ngào.
Những lời xám hối và tiếc nuối về quá khứ được thể hiện một cách sâu sắc trong tâm hồn của nhà thơ. Ông như muốn nhớ lại, tiếc nuối những khoảnh khắc đã qua. Những hình ảnh sinh động và chi tiết gợi lên nhiều cảm xúc trong lòng độc giả, mỗi người đều có những kỷ niệm riêng về tuổi thơ.
Phân tích bài thơ Đò lèn - Mẫu 4
Ngoài các tác phẩm nổi tiếng như “Cát trắng”, “Ánh trăng”, “Đãi cát tìm vàng”,.. thì bài thơ “Đò Lèn” của Nguyễn Duy cũng gây ấn tượng mạnh mẽ với độc giả. Ông viết bài thơ này vào năm 1983, khi trở về quê hương và hồi tưởng về thời thơ ấu với nhiều kỷ niệm đầy bi kịch.
Khi nói đến tuổi thơ, thường nhớ đến những hình ảnh yên bình. Tuy nhiên, Nguyễn Duy lại kể về tuổi thơ trong thời kỳ chiến tranh, với những ký ức đau thương.
Thuở bé, tôi thường đến cống Na câu cá
đi theo bà ra chợ Bình Lâm
đuổi bắt chim sẻ gần tượng Phật
và đôi khi ăn trộm nhãn ở chùa Trần.
Ký ức tuổi thơ của tác giả là những chuyến đi câu cá, đi chợ cùng bà, bắt chim sẻ, và thỉnh thoảng, đi ăn trộm nhãn. Tuổi thơ không chỉ là những kỷ niệm vui vẻ bên bạn bè, mà còn là những kí ức sâu sắc về người bà ngoại. Bà đã dẫn dắt tác giả đến những đền chùa, giới thiệu về tâm linh và đời sống tinh thần. Mối quan hệ giữa bà và cháu là một điều đặc biệt, khiến cho tác giả luôn gắn bó với bà trong mọi hoàn cảnh.
Tác giả nhận ra sự cố gắng của bà chỉ khi nhận thức được sự khó khăn và vất vả mà bà đã phải trải qua:
“Lúc ấy tôi chẳng biết bà đã trải qua những khó khăn thế nào
khi bà đi mò cua, xúc tép ở đồng Quan
hay khi bà gánh chè xanh ra Ba Trại
Quán Cháo, Đồng Giao, trong đêm giá lạnh.”
Vì ham chơi, tác giả không nhận ra những gánh nặng mà bà phải chịu, từ việc đi mò cua, xúc tép đến việc bán chè và trứng. Bà phải đảm nhận cả trách nhiệm của cha mẹ để nuôi tác giả lớn lên. Từ đây, không còn những kỷ niệm về trò chơi vui vẻ nữa, thay vào đó là hình ảnh của sự mạnh mẽ và hy sinh của người bà.
“Tôi giữa lối mòn, giữa hư – thực
giữa bà và tiên, Phật, thánh thần
khi năm đói, ăn củ dong, luộc sượng
mùi huệ, hương trầm thơm lâng lâng.”
Tình yêu thương của người bà như một phép mầu, giống như tiên, Phật, thánh thần, luôn hy sinh, chịu đựng mọi gian khổ để nuôi dưỡng cháu. Dù trong những thời kỳ đói kém, phải ăn củ dong, luộc sượng, nhưng tác giả vẫn cảm nhận được hương thơm của huệ, hương trầm. Liệu mùi hương ấy có phải là ký ức về những ngày trẻ thơ, đi theo bà đến đền Sòng, đền Cây Thị?
Người bà đã chịu đựng bao nhiêu khó khăn, và giờ lại phải đương đầu với sự tàn ác của chiến tranh:
“Bom Mỹ giội nhà bà tôi bay mất
đền Sòng bay, bay tuốt cả chùa chiền
thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết
bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn.”
Cuộc sống cơ cực, nhà bà bị bom Mĩ tấn công mất, những nơi linh thiêng như đền chùa cũng bị hủy hoại. Bà phải vật lộn với cuộc sống bằng nghề bán trứng. Sự vất vả của bà không chỉ là do bom đạn phá hủy, mà còn là sự mạnh mẽ, kiên cường, và anh hùng. Đó chính là sức mạnh của những con người vĩ đại.
Thời gian trôi qua nhanh chóng, chỉ trong chốc lát cậu bé đã lớn lên:
“Tôi vào ngũ, đã lâu không trở về quê hương
dòng sông cũ vẫn uốn éo bên lở, bên bồi
khi tôi nhận ra tình thương của bà thì đã quá muộn
bà chỉ còn lại như một cỏ rác thôi.”
Tác giả cảm thấy tiếc nuối, hối tiếc vì cho đến khi trưởng thành mới nhận ra sự khó khăn, hy sinh của bà. Khi muốn báo đáp lòng biết ơn, bà đã ra đi mãi mãi. Đau lòng vì mất đi người thân yêu nhất, gần gũi nhất. Khi trở về từ quân ngũ, muốn nhìn thấy, báo đáp công ơn của bà thì “bà chỉ còn lại như một đống cỏ rác”, cảm xúc dâng trào khiến tác giả không kìm được nước mắt. Có ai không xúc động, không nghẹn ngào tiếng nấc trước cảnh tượng đó. Hối tiếc đã trở nên muộn màng, tâm hồn tác giả bị day dứt.
Bằng cách sử dụng ngôn từ chân thành, sâu sắc và thành công trong việc kết hợp giữa thế giới thực và thế giới tưởng tượng, giữa tình cảm của người cháu với những hy sinh của người bà, tác phẩm đã thành công. Nguyễn Duy không cần phải dùng biểu tượng để diễn đạt tình cảm với người bà, mà ông đã trực tiếp biểu hiện tình cảm đó qua hình ảnh của người bà lam lũ, kiên cường. Điều đó đã để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng độc giả.