Phân tích khổ 5 Việt Bắc của Tố Hữu bao gồm 13 bài văn mẫu cực hay kèm theo 4 gợi ý cách viết chi tiết. Phân tích phần 5 Việt Bắc sẽ giúp học sinh lựa chọn cách tiếp cận và giọng văn phù hợp, từ đó nắm vững kiến thức một cách tự tin.
TOP 13 bài phân tích khổ 5 Việt Bắc cực chất dưới đây được viết rất sinh động với văn phong rõ ràng, dễ hiểu giúp bạn tự học và nâng cao kiến thức về môn Ngữ văn. Thông qua phân tích khổ 5 Việt Bắc, chúng ta cảm nhận sâu sắc nỗi nhớ về cuộc chiến Khu Việt Bắc của các cán bộ. Đồng thời, để học tốt môn Văn, bạn cũng có thể tham khảo phân tích bức tranh tứ bình Việt Bắc và 8 câu thơ đầu trong bài Việt Bắc.
Đề bài: Hãy phân tích khổ 5 bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu để làm sáng tỏ nỗi nhớ sâu đậm của các cán bộ về cuộc chiến Khu Việt Bắc?
Cấu trúc dàn ý cảm nhận về khổ 5 bài thơ Việt Bắc
I. Khai mạc:
- Giới thiệu về tác giả, bài thơ Việt Bắc: Tố Hữu nổi tiếng là một trong những người đi tiên phong của văn học cách mạng Việt Nam. Bài thơ Việt Bắc (10/1954; được in trong tập thơ cùng tên) được xem là một minh chứng rõ ràng cho sự phát triển của văn học trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp.
II. Nội dung chính:
1. Về bản chất:
- Sự nhớ nhung của những người theo đường lối Cách mạng với quê hương, với thiên nhiên Việt Bắc được tương đối với tình cảm nhớ thương người yêu: đậm đà, thấm thiết, sâu lắng…
- Hồi tưởng về bình yên, tĩnh lặng của tự nhiên, đơn giản nhưng đẹp đẽ, mang đầy bản sắc lãng mạn.
- Nhớ về cuộc sống của đồng bào và những chiến sĩ, dù gian khổ khó khăn nhưng vẫn tràn đầy tình nghĩa: sử dụng hình ảnh màu sắc (đắng, cay, ngọt, bùi), các động từ mạnh mẽ (chia, sẻ, đắp) để diễn đạt lòng nhớ thương của những người rời bỏ đối với những người ở lại.
2. Về nghệ thuật
- Về hình thức thơ: vận dụng lục bát truyền thống với kỹ thuật gieo vần đặc biệt tạo ra âm điệu êm dịu, ngọt ngào.
- Sử dụng biện pháp tu từ: Việc sử dụng từ “nhớ” kết hợp với so sánh đặc biệt đã thể hiện một cảm xúc nhớ nhung đậm sâu. Cách kể liệt kê các hình ảnh và địa danh của Việt Bắc đã tường minh hóa một cách rõ ràng nỗi nhớ thương của một người chiến sĩ - nhà thơ đối với quê hương thứ hai của mình…
- Hình ảnh, ngôn từ: giản dị tự nhiên, thân thuộc…
III. Kết bài
- Đoạn thơ này là biểu tượng của lòng trung thành kiên định, là lời hát của nhà thơ, cũng là của những người con Việt Nam trong cuộc chiến.
- Tố Hữu đã thành công trong việc diễn đạt tình cảm của nhà văn dành cho thiên nhiên và nhân dân Việt Bắc không chỉ là tình cảm của một công dân mà còn là sự sâu lắng như tình yêu vợ chồng.
Phân tích đoạn 5 bài thơ Việt Bắc - Mẫu 1
Nhà văn Macxen Prut cho rằng: Thế giới không chỉ được tạo dựng một lần mà mỗi lần một nghệ sĩ xuất sắc hiện hữu, thế giới lại một lần được tái hiện. Một nghệ sĩ xuất sắc là người mang trong mình phẩm chất đặc biệt, tài năng đặc sắc. Mỗi khi họ xuất hiện, họ lại mang đến cho chúng ta một thế giới riêng, một cách độc đáo để cảm nhận thế giới và con người. Là một nhà thơ theo đuổi lý tưởng và chủ nghĩa cộng sản, Tố Hữu đã xuất hiện trong làng thơ Việt Nam với một phong cách nghệ thuật độc đáo. Thơ của ông mang đậm dấu ấn của tình yêu dân tộc, có tính chất chính trị, và đầy cảm hứng lãng mạn, thấm nhuần tình thương dân tộc. Một trong những tác phẩm tiêu biểu của Tố Hữu phải kể đến bài thơ Việt Bắc - một tác phẩm gắn kết với tình cảm của người Việt Nam, một tình yêu sâu nặng với đất nước. Bài thơ được triển khai qua lối kết cấu đối đáp giữa kẻ ra đi và người ở lại. Trong những lời đối đáp của người ra đi, đã chứa đựng biết bao nhiêu tình cảm nhớ nhung, da diết; và một trong những nỗi nhớ ấy phải là nỗi nhớ như nhớ người yêu:
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy
Ta đi ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó đắng cay ngọt bùi…
Việt Bắc là nơi trở thành căn cứ của cuộc kháng chiến chống Pháp của Việt Nam. Chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc với chiến thắng, và vào tháng 7 năm 1954, hiệp định Giơ-ne-vơ về Đông Dương được kí kết. Hòa bình đã được thiết lập lại, miền Bắc được giải phóng và bắt đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vào tháng 10 năm 1954, Đảng và Chính phủ rời Việt Bắc để trở về Hà Nội, và những người chiến đấu (trong đó có Tố Hữu) từ khu vực miền núi về phần đất phẳng miền Trung và Nam, chia tay với Việt Bắc, kết thúc một giai đoạn của cuộc kháng chiến. Nhân dịp sự kiện lịch sử này, Tố Hữu đã sáng tác bài thơ “Việt Bắc”. Bài thơ “Việt Bắc” là một tác phẩm cao quý trong thơ kháng chiến chống Pháp.
Bài thơ Việt Bắc được xây dựng qua lối kết cấu đối đáp giữa kẻ ra đi và người ở lại một cách tự nhiên, khéo léo. Những câu hỏi gợi nhắc của người ở lại đã đánh thức những ký ức đong đầy. Ký ức kết nối ký ức, kí ức gợi nhớ kí ức. Tất cả đã trỗi dậy và nảy mầm trong dòng cảm xúc dồn dập, tưởng chừng như không bao giờ dứt. Sự kết nối của những ký ức, kí ức ấy chính là sợi dây nhớ, sợi dây thương. Chỉ cần từ “nhớ”, đã được lặp lại bốn lần trong trái tim của người ra đi, nỗi nhớ này chưa qua đi, thì nỗi nhớ khác lại ập đến như là một dòng sóng bất tận. Mỗi lần nỗi nhớ vang lên là một bức tranh ký ức hồi sinh, một tình yêu được tái sinh. Có thể nói rằng nỗi nhớ đã trở thành điệu nhạc, sức hút để thu hút tất cả những kí ức đậm đà tình yêu.
Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất đã trở thành tâm hồn
(Chế Lan Viên, Tiếng hát con tàu)
Rời xa mảnh đất quê hương thân thương, ai cũng mang trong lòng nhớ và thương. Nhưng hiếm có thi sĩ nào khắc sâu trong tim mình nỗi nhớ đắng cay, khắc khoải, cháy bỏng khi rời xa khu vực chiến trường Việt Bắc: “Nhớ gì như nhớ người yêu”. Một dòng thơ với hai lần từ “nhớ” được lặp lại. Nỗi nhớ ấy vẫn ám ảnh tâm trí người ra đi đến mức không thể kìm nén được. Lời thơ được phát ra với ngữ điệu đặc biệt, nửa như câu hỏi, nửa như lời thán phục để lại ấn tượng sâu sắc, gợi cảm cho người đọc. “Như nhớ người yêu” là một hình ảnh so sánh, so sánh lãng mạn, tình cảm. Nỗi nhớ về Việt Bắc được cảm nhận giống như nỗi nhớ thương người yêu. Đôi khi ngẩn ngơ, mơ màng; đôi khi lo lắng, bối rối, xao xuyến, hồi hộp. Khi nỗi nhớ đắng đỏ, khi đau đáu muốn trở về. Nỗi nhớ khi xa cách Việt Bắc có thể chứa đựng mọi cảm xúc. Một nỗi nhớ nồng nàn, sâu sắc, mãnh liệt. Với hình ảnh so sánh này, Tố Hữu thực sự là một người tình trung thành với Việt Bắc, với nhân dân quê mình. Cùng với những câu thơ “Mình về mình có nhớ ta – Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng, Áo chàm đưa buổi phân lí – Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”, bài thơ “Nhớ gì như nhớ người yêu” đã làm cho tác phẩm Việt Bắc trở thành ca khúc tình yêu đỉnh cao trong thơ ca Cách mạng. Quả không sai khi Xuân Diệu nhận xét: Tố Hữu đã đưa thơ chính trị lên đến trình độ thơ rất đỗi trữ tình. Khám phá câu thơ “Nhớ gì như nhớ người yêu”, ta bỗng vỡ lẽ hiểu ra rằng lối kết cấu đối đáp cùng cách xưng hô “ta – mình” trong Việt Bắc không chỉ là sáng tạo về hình thức, là một câu chuyện về ngôn ngữ. Tình cảm giữa cán bộ Cách mạng và nhân dân chiến khu thực sự chân thành, mặn nồng như tình yêu lứa đôi khiến nhà thơ tìm đến cách sử dụng từ ngữ như vậy.
Trong lòng nhớ thương là cảnh sắc Việt Bắc thơ mộng, hiền hòa:
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về
Nhớ từng rừng nứa, bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy.
Những câu thơ như một bức tranh miêu tả vẻ đẹp của rừng Việt Bắc, mộng mơ và đẹp đẽ. Có đêm trăng huyền ảo, ánh trăng nhẹ nhàng lấp lánh trên đỉnh núi, có những chiều nắng ấm áp màu vàng lên ngọn núi và hình ảnh những ngôi nhà, làng chài hiện lên mờ ảo trong sương mù bồng bềnh. Mặc dù không miêu tả chi tiết, nhưng Tố Hữu chỉ gợi lên và chấm phá. Đối với những người trong cuộc, chỉ những điều như vậy cũng đủ khiến họ xao xuyến, bồi hồi. Bên cạnh vẻ đẹp bình dị và mộng mơ của thiên nhiên Việt Bắc là hình ảnh đầy ấm áp của con người Việt Bắc: Sớm khuya bếp lửa người thương đi về. Hình ảnh thơ gợi lên sự chăm chỉ, kiên trì, yêu thương, và những cô gái Việt Bắc mỗi buổi sáng và mỗi buổi tối đều chu đáo nuôi dưỡng ngọn lửa bếp. Hình ảnh của lửa bếp kể về những cuộc sum họp ấm áp và tình cảm sâu sắc giữa quân dân. Tình yêu thương quân dân, tình yêu thương cách mạng mang lại không khí ấm áp, yêu thương như tình gia đình. Cách sử dụng từ ngữ “người thương” một cách khéo léo, đa cảm, chứa đựng tình cảm dịu dàng và sâu sắc, tràn đầy yêu thương. Chắc chắn trong tâm hồn của nhà thơ đã đong đầy tình thương cho một người con gái Việt Bắc hy sinh vì cách mạng.
Kết thúc khổ thơ, tình cảm lại lan tỏa đầy rẫy khắp núi rừng Việt Bắc. Những kỷ niệm chung và riêng xen kẽ nhau, từng bước hiện về trong trí tưởng tượng của người ra đi:
Nhớ từng rừng nứa, bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê đầy dạt dào
Ta đi ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi
Những dãy đồi tre xanh mướt, những con suối trong lành, dòng sông êm đềm, tất cả đều hiện hữu sâu trong nỗi nhớ về người thân. Khi nhắc đến dòng sông, đồi núi, rừng nứa, bờ tre, kí ức ùa về ngập tràn, ghi sâu những yêu thương. Những tên gọi như Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê không chỉ là địa danh mà còn là biểu tượng của nhiều kỷ niệm, nhiều cảm xúc. Những gắn bó, những khoảnh khắc vui buồn đã trở thành những ký ức đậm sâu trong lòng người ra đi không thể nào quên đi. Trong mấy chữ “đắng cay, ngọt bùi” và dấu chấm lửng ở cuối câu thơ, người đi muốn gửi lời nhắn nhủ với người ở lại rằng, dù đi đâu, họ sẽ không bao giờ quên đi bất cứ kỷ niệm nào.
Có thể thấy, khổ thơ đã thể hiện rõ nỗi nhớ sâu sắc của người ra đi Việt Bắc, đó là tấm lòng chân thành của những người lính kháng chiến với Việt Bắc qua lời thơ lục bát truyền thống, uyển chuyển; hình ảnh trong sáng và gợi cảm đã tạo ra sức hút đặc biệt đối với người đọc. Khi đọc khổ thơ này, ta cảm nhận được một trái tim nhớ thương chân thành.
Phân tích khổ thơ 5 Việt Bắc ngắn gọn - Mẫu 2
Tố Hữu, một cái tên không xa lạ với những người yêu thơ. Quả thật, Tố Hữu luôn là biểu tượng của nền thơ ca Cách mạng Việt Nam. Ở Tố Hữu, con người chính trị và nhà thơ hòa quyện với nhau, sự kết hợp giữa trữ tình và chính trị hiện diện rõ trong mỗi tác phẩm, đặc biệt là bài thơ Việt Bắc. Đây là bài thơ ghi lại những tình cảm sâu sắc, nỗi nhớ của một người cán bộ trở về với vùng đất và con người Tây Bắc.
“Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy
Ta đi ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi.”
Việt Bắc là căn cứ cách mạng, là trái tim của cuộc kháng chiến chống Pháp. Thiên nhiên và nhân dân Việt Bắc đã che chở cho Đảng và Chính phủ trong suốt 15 năm. Bài thơ Việt Bắc được sáng tác vào khoảng thời gian tháng 10/1954, khi các cơ quan Trung ương của Đảng và chính phủ rời khỏi Tây Bắc để trở về Hà Nội. Đây là một bài thơ dài ghi lại tình cảm lưu luyến của cán bộ và nhân dân, cũng như khẳng định lòng trung thành của họ với Việt Bắc, với cuộc kháng chiến.
Một nỗi nhớ sâu sắc, không dứt được tác giả miêu tả như sau:
“Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương”
Một từ 'gì' ẩn chứa nhiều điều, có lẽ đó là kỷ niệm về thiên nhiên, về thời gian kháng chiến đầy ý nghĩa. Nhớ 'như nhớ người yêu', so sánh ý nghĩa, nỗi nhớ vẫn sâu sắc, luôn hiện diện trong tâm trí. Một khung cảnh khẳng định rõ đối tượng được nhớ - Việt Bắc: 'Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương', và những hình ảnh tưởng chừng không gian thơ mộng của núi rừng Việt Bắc.
“Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về”
Hình ảnh thiên nhiên Việt Bắc được kể từng chi tiết. Tác giả vẫn nhớ rõ kỷ niệm với Việt Bắc. 'Người thương', hai từ đơn giản nhưng chứa đựng biết bao tình cảm. 'Bếp lửa' - như một gia đình thứ hai. Vần chân 'sương' và 'người thương' tạo ra âm điệu da diết, diễn tả nỗi nhớ sâu sắc, không muốn xa nhau. Nỗi nhớ càng sâu khi nhắc đến các địa danh cách mạng:
“Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy”
Dù nhỏ bé, nhưng trong ký ức của tác giả, đó trở nên quan trọng, không bao giờ quên. Một sự khẳng định rõ ràng... không bao giờ quên:
“Ta đi ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi”
Dù bản thân đi xa, ở nơi nào, vẫn luôn nhớ về 'mình'. Sử dụng từ ngữ giản dị mà thân thuộc. 'Mình' và 'ta' không thể quên những 'đắng cay ngọt bùi' đã trải qua. 'Đắng cay' là khó khăn, 'ngọt bùi' là niềm vui chiến thắng. Mỗi kỷ niệm tràn ngập trong tâm hồn Tố Hữu như nỗi tương tư đối với 'người thương'. Từ 'nhớ' lặp đi lặp lại nhấn mạnh sâu sắc tình cảm của tác giả đối với Việt Bắc.
Cả đoạn thơ phản ánh tâm hồn dân tộc, thể hiện rõ ý chí của Tố Hữu. Sử dụng từ 'nhớ' và so sánh đặc biệt để biểu lộ sâu sắc tình cảm thương nhớ. Kỹ thuật thể thơ lục bát tạo ra âm điệu ngọt ngào. Liệt kê các hình ảnh và địa danh của Việt Bắc làm nổi bật nỗi niềm thương nhớ của người chiến sĩ - nhà thơ đối với quê hương thứ hai.
Đoạn thơ này là bản tình ca về lòng chung thủy, tiếng lòng của nhà thơ và những người trong kháng chiến. Với những cảm xúc sâu sắc, Tố Hữu thành công thể hiện tình cảm của cán bộ đối với thiên nhiên, nhân dân Việt Bắc không chỉ là tình cảm xã hội mà còn là tình yêu lứa đôi. Nhờ đó, Việt Bắc trở thành biểu tượng cho văn học Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp.
Với những vần thơ dân tộc sâu sắc, nỗi nhớ và tình cảm chung thủy giữa cán bộ và nhân dân, thiên nhiên Việt Bắc cùng kháng chiến được mô tả rõ ràng. Tố Hữu xứng đáng là ngọn cờ đầu của thơ cách mạng Việt Nam.
Phân tích Việt Bắc đoạn 5 - Mẫu 3
Tố Hữu, một nhà thơ cách mạng vĩ đại, 'chim đầu đàn' của thơ ca Cách mạng thế kỷ 20. Sự sáng tạo thơ của ông chặt chẽ với các giai đoạn kháng chiến của dân tộc. Tập thơ nổi tiếng nhất của ông, 'Việt Bắc', tập trung vào chặng đường phát triển của cách mạng, giải phóng dân tộc. Đoạn 5 của 'Việt Bắc' thể hiện sự kết nối sâu sắc với nhân dân, niềm tự hào dân tộc.
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy.
Ta đi ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi…
Việt Bắc, nơi đã bảo vệ cuộc sống của những chiến sĩ cộng sản, đảng và quốc gia trong suốt 15 năm kháng chiến. Khi cuộc kháng chiến kết thúc, đảng và chiến sĩ phải rời xa. Bài thơ được sáng tác trong tình hình chia xa, chứa đựng những tâm tư chân thành và sâu lắng.
Hầu hết nội dung bài thơ thể hiện sự lưu luyến của cán bộ và nhân dân với Việt Bắc, đồng thời khẳng định tình cảm thủy chung của họ. Đoạn 'Nhớ gì như nhớ người yêu' thể hiện rõ nhất tình yêu của cán bộ đối với nhân dân Việt Bắc và quê hương thứ hai.
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương”
Phân tích đoạn thơ nhớ gì như nhớ người yêu – Nỗi nhớ về người yêu luôn đậm đà, triền miên. Tố Hữu đã so sánh nỗi nhớ Việt Bắc với nỗi nhớ người yêu, đề cao tình yêu và lòng biết ơn đối với đất nước, nhân dân.
Hai câu thơ của Tố Hữu là biểu hiện cao nhất của nỗi nhớ, khẳng định sự vững chắc và sâu sắc của tình cảm. Thể hiện sự lưu luyến, tha thiết đến độ rộng lớn của tình yêu và kỷ niệm.
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về
Nỗi nhớ Việt Bắc không chỉ là như người yêu, không chỉ là ánh trăng, nắng lưng chiều mà còn là hình ảnh của quê hương thứ hai. Đó là kỷ niệm về những chiều dày khói sương, những bữa ăn gia đình ấm cúng với người thương đi về trong bếp lửa.
Nỗi nhớ của Tố Hữu rất chân thành và hiện thực, không phải là những thứ to tát, cao sang, núi rừng hùng vĩ mà chỉ là những hình ảnh đơn giản, mộc mạc như bếp lửa, người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối lê tràn đầy.
Nỗi nhớ của tác giả đối với đồng bào Miền Bắc vẫn là hình ảnh các địa danh quen thuộc như Ngòi Thia, Sông Đáy, Suối Lê. Đây là những biểu tượng và dấu ấn cách mạng không thể nào quên. Nếu ở câu trên là rừng nứa bờ tre giản dị quen thuộc, thì câu sau lại là những hình ảnh đầy ý nghĩa, đậm chất cách mạng. Cả hai câu thơ tưởng chừng đối lập nhưng lại hỗ trợ lẫn nhau, thể hiện tình cảm sâu sắc của tác giả dành cho Việt Bắc.
Chữ “vơi đầy” không chỉ là trạng thái đầy của sông suối mà còn là biểu hiện của nỗi nhớ sâu sắc trong lòng người ra đi.
Ta đi ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi…
Tôi ở đây chính là nhà thơ. Sử dụng từ 'Tôi' để chỉ sự chung chung, không rõ là ai nhưng cũng là tất cả. Đó chính là những người chiến sĩ cộng sản sắp rời xa mảnh đất quê hương thứ hai, đầy bâng khuâng và nhớ nhung da diết. Khi sắp rời xa Việt Bắc, nỗi nhớ lại dâng trào, nhớ về những kỷ niệm có cả đắng cay và ngọt bùi. 15 năm ở núi rừng Việt Bắc, sống bằng rừng ở núi thì chắc chắn phải có nhiều kỷ niệm vui buồn khác nhau.
Cả đoạn thơ mang đậm màu sắc dân tộc, thể hiện rõ hồn thơ Tố Hữu. Đặc biệt tác giả sử dụng liên tục điệp khúc 'Nhớ' để thể hiện nỗi nhớ dạt dào vô tận. Đọc đoạn thơ lên ta cảm thấy vô cùng ngọt ngào tình cảm thấm đẫm tình yêu thương, các hình ảnh Việt Bắc liên tục hiện ra như một đoạn phim quay chậm càng nhấn mạnh niềm thương nhớ vô tận. Việt Bắc không chỉ là mảnh đất tạm thời của những người chiến sĩ cộng sản mà nó còn là quê hương thứ hai: 'Khi tôi ở đó, chỉ là nơi ở. Khi tôi đi, đất đã trở thành phần tâm hồn.' Từng từ trong lời thơ của Tố Hữu đã biến Việt Bắc thành một phần không thể tách rời của tâm hồn, trở thành nơi gắn bó và yêu thương khó lòng quên.
Đoạn thơ ngắn nhưng đã thể hiện thành công tình cảm dành cho nhân dân Việt Bắc, là một bản tình ca về lòng sắt son chung thủy. Đây không chỉ là tấm lòng của tác giả mà còn là của những người chiến sĩ đã từng ở đây và được mảnh đất này yêu thương, bảo vệ. Thật không hề nói quá khi nói Tố Hữu là ngọn cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam. Những lời thơ đơn giản, chân thành, mộc mạc nhưng đậm đà.
Phân tích khổ thơ 5 của bài Việt Bắc - Mẫu 4
Tố Hữu là một trong những nhà thơ của lí tưởng và cộng sản, ông xuất hiện trong làng thơ Việt Nam với phong cách nghệ thuật độc đáo. Thơ của ông mang đậm nét trữ tình, lãng mạn, nhưng vẫn chứa đựng bản sắc dân tộc và tinh thần cách mạng. Một trong những bài thơ tiêu biểu của ông phải kể đến bài Việt Bắc – bài thơ là tình cảm, là tinh thần yêu nước của con người Việt Nam. Bài thơ được triển khai theo lối kết cấu đối đáp giữa kẻ ở và người đi. Trong những lời đối đáp của người đi, đã có biết bao nhiêu tình cảm nhớ nhung, da diết; và một trong những nỗi nhớ ấy là:
'Nhớ đến như nhớ người yêu
Trăng rằm treo đầu núi, nắng chiều lưng dựa
Nhớ từng đám khói và sương
Sáng tối bếp lửa, người thương về đây
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê tràn ngập
Ta đi ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi…'
Việt Bắc là một tác phẩm thuộc thể loại thơ kháng chiến chống Pháp. Bài thơ này được triển khai theo cấu trúc đối đáp giữa kẻ ở và người đi một cách tự nhiên và tinh tế. Câu hỏi của người ở lại đã làm trỗi dậy biết bao kỷ niệm. Dường như mọi thứ bất ngờ tỉnh giấc và tràn đầy trong dòng cảm xúc dạt dào, vô tận. Chỉ trong bài thơ 8 câu này, Tố Hữu đã sử dụng từ 'nhớ' đến bốn lần, nỗi nhớ này chưa kịp tắt thì nỗi nhớ khác lại tràn về như những làn sóng miên man không ngừng. Mỗi lần nỗi nhớ trỗi dậy là một đám mây kỷ niệm ùa về, một tình cảm được thấm nhuần. Có thể nói, nỗi nhớ đã trở thành điều hút lôi, lực cuốn hút mọi kí ức và tình cảm.
Đúng vậy, hiếm có thi sĩ nào mang trong lòng một nỗi nhớ tha thiết, khắc khoải, cháy bỏng như khi rời xa chiến khu Việt Bắc: “Nhớ đến như nhớ người yêu”. Một dòng thơ mà hai lần từ 'nhớ' được lặp lại. Nỗi nhớ này ẩn hiện ám ảnh trong tâm trí người đi đến mức không thể kìm nén. Câu thơ được viết ra với cảm xúc đặc biệt, phần nào nghi ngờ, phần nào ngưỡng mộ, tạo nên một ấn tượng sâu sắc, gợi lên sự ám ảnh cho người đọc. “Như nhớ người yêu” là một so sánh lãng mạn, tình tứ. Nỗi nhớ về Việt Bắc được cảm nhận như nỗi nhớ về người yêu. Có thể bị cuốn theo những suy tư mơ mộng, hay cảm thấy mơ màng, hồi hộp, bồi hồi, xao xuyến. Khi nỗi nhớ đắng đo đếm, khi nỗi nhớ lửa thiêu đốt.
Ngoài ra, trong nỗi nhớ và tình thương là những khung cảnh bình yên của Việt Bắc:
'Trăng lên trên đỉnh núi, nắng chiều ôm lưng
Nhớ từng tia sáng và cơn mưa sương'
Những câu thơ như một bức tranh tuyệt vời về cảnh rừng Việt Bắc đẹp đẽ, lãng mạn. Có những đêm trăng mơ màng, ánh trăng nhẹ nhàng rọi xuống đỉnh núi, có những buổi chiều nắng ấm áp trên cánh đồng và hình ảnh những căn nhà, làng chài hiện lên mờ ảo trong sương khói len lỏi. Tố Hữu không mô tả chi tiết mà chỉ gợi lên, đủ để làm cho lòng người xao xuyến, bồi hồi. Bên cạnh vẻ đẹp dịu dàng và mơ mộng của thiên nhiên Việt Bắc là hình ảnh đáng yêu của con người Việt Bắc:
“Sớm tối bếp lửa, người thương về.”
Hình ảnh thơ gợi lên sự dũng cảm, nhẫn nại, yêu thương và hy sinh của những phụ nữ Việt Bắc nuôi dưỡng quân lính trong chiến khu. Không ngại khó khăn, những người phụ nữ Việt Bắc luôn cố gắng nuôi dưỡng người thân với tình yêu thương. Hình ảnh bếp lửa kể về những buổi sum họp ấm cúng và tình đoàn kết chặt chẽ giữa quân dân. Tình thương quân dân và cách mạng mang lại không khí ấm áp, như tình thân mật trong gia đình. Trong lòng nhà thơ, đã có một con người con gái Việt Bắc đầy tình yêu với Cách mạng.
Nhưng nỗi nhớ không chấm dứt, tình cảm vẫn tồn tại mạnh mẽ khắp nơi trong rừng Việt Bắc. Những kỷ niệm chung và riêng lẫn nhau hiện ra liên tục trong trí tưởng tượng của người ra đi:
“Nhớ như thế nào những ngày ở cơ quan
Khó khăn vẫn ngân vang trong núi đèo
Nhớ âm thanh của chuông rừng chiều
Con chày đánh suốt đêm, dòng suối xa...”
Những cánh đồi tre xanh mướt, những dòng suối trong lành, con sông êm đềm, tất cả vẫn hiện về trong lòng những kỷ niệm nhớ nhung về quê hương. Khi nhắc đến dòng sông, những cánh đồi, rừng núi, bờ tre, đều đọng chứa bao kỷ niệm, bao tình yêu thương. Cái tên Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê không chỉ đơn thuần là những địa danh mà còn ẩn chứa bao kỷ niệm, bao cảm xúc. Những kỷ niệm về gian khổ và ngọt ngào đã trở thành những dấu vết đậm nét trong tâm trí của những người đi, không thể quên. Trong từng chữ “đắng cay, ngọt bùi” và dấu chấm cuối dòng thơ là lời nhắn gửi của người ra đi đến người ở lại, hứa hẹn rằng họ sẽ không bao giờ quên mọi kỷ niệm, mọi kí ức.
Dù chỉ là 8 câu thơ ngắn nhưng đã truyền đạt rõ ràng tâm trạng nhớ nhung của những người đi Việt Bắc, thể hiện tấm lòng chân thành của những người lính kháng chiến qua từng câu vần uyển chuyển, mềm mại; hình ảnh trong sáng, gợi cảm đã tạo nên sức hút đặc biệt với người đọc. Đọc những câu thơ này, lòng ta tràn đầy nỗi nhớ và tình yêu sâu đậm.
Phân tích khổ thơ 5 về Việt Bắc - Mẫu 5
Bài thơ Việt Bắc được viết dựa trên một sự kiện lịch sử - xã hội quan trọng. Đó là khi Trung ương Đảng và Chính phủ chuyển về thủ đô sau khi thủ đô được giải phóng. Suốt 15 năm gắn bó với Việt Bắc, trong khoảnh khắc chia ly xúc động, Tố Hữu đã sáng tác bài thơ này. Bài thơ này có dáng vẻ như một tổng kết lịch sử. Tựa đề bài thơ đã trở thành tựa đề cho cả tập thơ kháng chiến của Tố Hữu và được coi là một trong những bài thơ hay nhất thế kỷ XX của Việt Nam.
Đoạn thơ này mang lại cảm giác chung của bài thơ với hình thức lục bát ngọt ngào, kết cấu đối đáp, và cách diễn đạt gần gũi của ca dao. Đây là lời nhớ Việt Bắc của người ra đi, là tiếng nói của những người ra đi.
Câu thơ mở đoạn thơ mang sự so sánh sâu sắc: “Nhớ gì như nhớ người yêu'. Câu thơ không nói về nỗi nhớ người yêu mà là nỗi nhớ về Việt Bắc. Nhớ Việt Bắc giống như nhớ người yêu. Tố Hữu không thường viết về tình yêu nhưng cũng mang trong lòng những cảm xúc đó. Câu thơ này chính xác với tâm trạng của người đang yêu. Nhớ Việt Bắc đến mức say đắm, nồng nàn, dịu dàng mà ngọt ngào. Thơ của Tố Hữu chứa đựng những tình cảm lớn: về đất nước, về nhân dân, nhưng ông đã diễn đạt những tình cảm này bằng ngôn ngữ của hai người yêu nhau. Nỗi nhớ ấy hiện hữu trong tâm trí suốt thời gian, không gian khiến người ra đi thốt lên như cảm thán, so sánh, nghi vấn, tạo nên sức hấp dẫn đặc biệt cho câu thơ. Trong những câu sau, bức tranh của Việt Bắc với những cảnh quen thuộc đã được thể hiện một cách sinh động.
“Trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm trưa bếp lửa người thương đi về
Nhớ từng rừng nứa, bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy”.
Nhà thơ không đi vào chi tiết mà chỉ gợi nhắc, với những người trong cuộc, đó cũng đủ để làm họ xao xuyến. Hình ảnh của “trăng lên”, “nắng chiều” không chỉ nói về nỗi nhớ trải dài suốt thời gian mà còn gợi lên kí ức về những cuộc hẹn hò, những khoảnh khắc cuối ngày đầy xúc động...
Hình ảnh của bếp lửa gợi lên sự ấm áp, sum họp của người thương. Hình ảnh “bản khói cùng sương” đánh thức những kí ức về những ngôi làng xa xôi của Việt Bắc bị mây mù che phủ quanh năm. Cụm từ “nhớ từng” được lặp lại nhấn mạnh người ra đi không quên bất kỳ nơi nào, bất kỳ sự việc gì, địa danh nào, từ “ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê...” Tất cả đều ở trong trái tim của người ra đi. Suối Lê có khi vơi lúc đầy nhưng tình cảm với Việt Bắc luôn đầy ắp.
Dù đã xa cách nhưng người ra đi không thể quên những ngày sống giữa Việt Bắc gian khổ:
Những ngày đi vẫn ẩn chứa nỗi nhớ,
Đắng cay, ngọt bùi ở đâu ta cũng mang theo,
Thương nhau chia sẻ, đau khổ cũng qua.
Mỗi bữa cơm, nửa chăn, cùng đắp chăn sui.
Sự chia sẻ trong khó khăn luôn ghi dấu sâu trong lòng.
Việt Bắc chia sẻ từ mỗi bát cơm, mỗi củ sắn, đắng ngọt cay đắng của cuộc sống được tả chi tiết, không chỉ trong vật chất mà còn trong tinh thần. “Mình đây, ta đó” luôn đồng hành, có “mình” sẽ có “ta”. Những chi tiết vừa thực tế vừa tượng trưng, nhấn mạnh giá trị của sự đồng lòng trong khó khăn mà Việt Bắc và người kháng chiến đề cao. Chi tiết “Chăn sui đắp cùng” gợi lên tinh thần kháng chiến. Đây cũng là chi tiết đã xuất hiện trong bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu. Tấm chăn sui, mặc dù chưa đủ ấm lòng trước lạnh giá của mùa đông Việt Bắc, nhưng nó đã làm ấm lòng, gắn kết tình người, như cách mỗi bữa cơm, mỗi củ sắn không chỉ làm no bụng mà còn ấm lòng bằng vị ngọt bùi của tình thân.
Hai câu tiếp theo là nỗi nhớ về Việt Bắc:
Nhớ mẹ nắng cháy lưng,
Đưa con ra đồng, bẻ bắp ngô từng cọng.
Với người mẹ, tấm lưng trần dưới ánh nắng chói chang đã nói lên tất cả. Chi tiết này vừa thực tế lại rõ ràng gợi lên cuộc sống khó khăn của người Việt Bắc trong cuộc chiến tranh. Mà họ vẫn “chia sẻ củ sắn, bát cơm' cho sự nghiệp cách mạng. Thật đáng trân trọng những tấm lòng của những người mẹ Việt Bắc, của những người dân Việt Bắc.
Những câu thơ còn lại tiếp tục nói về những khó khăn nhưng nâng cao tinh thần lạc quan của những người chiến đấu.
Nhớ những buổi học mệt mỏi,
Chạng vạng đuốc sáng trong buổi liên hoan,
Nhớ những ngày làm việc trong cơ quan,
Gian nan cuộc sống vẫn ngân nga trên núi đèo...
Các câu thơ còn lại chi tiết và đặc trưng hơn về cuộc sống trong chiến khu: có những buổi học mệt mỏi, tiếng hát vang lên trong buổi liên hoan, có ánh đuốc sáng lên giữa đêm, có không khí liên hoan vui vẻ, phấn khởi. Điều này cho thấy tư duy chiến đấu đã thấm nhuần vào tổ chức cuộc sống, cũng như tinh thần phấn chấn của những người chiến đấu. Đằng sau đó, là tâm trạng bất an khó diễn đạt của con người. Câu “nhớ những buổi học mệt mỏi” không chỉ nói về việc nhớ, mà còn nói về việc sống trong sự nhớ, không chỉ là một sự kể lại khách quan, mà còn là cảm xúc chân thành.
Nhớ tiếng chuông rừng chiều buông,
Chày nghiền, cối giã từng hạt suối xa...
Tiếng chuông ngân vang trong không gian, nhắc nhở về quá khứ đầy ý nghĩa. Đó là âm thanh quen thuộc của tuổi thơ, luôn hiện hữu trong kí ức của mỗi người dân.
Bức tranh của quê hương được vẽ nên từ tâm hồn, lồng ghép những mảng màu sắc của kỷ niệm. Nỗi nhớ về những khát vọng lớn lao của quốc gia, hiện hữu trong từng nét vẽ, từng chi tiết nhỏ bé của cuộc sống hàng ngày.
Khám phá vẻ đẹp của Việt Bắc qua khổ thơ thứ sáu.
Tố Hữu - nhà văn cách mạng không chỉ để lại dấu ấn trong lịch sử cách mạng mà còn là người mang tinh thần của nền văn học cách mạng. Từ trẻ thơ, ông đã hướng tới ý nghĩa của cách mạng và không ngừng dấn thân, kể cả khi bị giam giữ, ông vẫn kiên định tin tưởng vào con đường đã chọn. Thơ của ông là biểu tượng của sự đoàn kết dân tộc, của lý tưởng cách mạng, và của tình yêu thương dành cho quê hương và nhân dân.
“Nhớ thương như ngọn gió
Đêm về bên sông, sáng trưa bên rừng
Nhớ từng bản làng, từng dòng suối
Bước chân nhẹ nhàng qua những ngày dài
Nhớ từng lúa mạ và đồng cỏ
Hương cỏ biếc, gió thoảng, nắng chiều dịu êm
Ta đi, lòng vẫn nhớ mãi những kỷ niệm
Giọt lệ buồn, nụ cười, trong tim ấm áp.”
Việt Bắc là trái tim của cuộc kháng chiến, nơi mà tinh thần cách mạng được vun đắp và phát triển. Bài thơ này được sáng tác khi cơ quan trung ương của Đảng rời khỏi khu vực Tây Bắc để trở về Hà Nội. Những dòng thơ trong tác phẩm toát lên sự tiếc nuối khi phải rời xa những con người và cảnh vật thiên nhiên ở đây. Trích đoạn này xuất hiện ở khổ thơ thứ năm, thể hiện sự lưu luyến với những người dân nơi này:
“Nhớ như nhớ người yêu
Ánh trăng soi đỉnh núi, nắng chiều ôm lưng
Nỗi nhớ về người yêu luôn rất sâu sắc và mãnh liệt. Những ai đã từng trải qua tình yêu đều biết cảm giác ấy ra sao. Tố Hữu sử dụng nỗi nhớ này để miêu tả tình cảm của mình đối với con người và thiên nhiên ở Việt Bắc. Điều này cho thấy tình cảm của ông dành cho nhân dân nơi đây đến đâu sâu đậm. Nỗi nhớ da diết, không nguôi nghỉ, giống như nỗi nhớ của những người yêu nhau chuẩn bị phải xa nhau. Nỗi nhớ “người yêu” được thể hiện qua hình ảnh thiên nhiên đậm đà nét đặc trưng của Việt Bắc: ánh trăng rọi sáng đỉnh núi mờ sương và nắng chiều ôm lưng. Một bức tranh thiên nhiên đẹp mắt, trữ tình, đong đầy cảm xúc. Nỗi nhớ này được nhấn mạnh qua lời lặp lại nhiều lần: “Nhớ như nhớ…” để thể hiện sự da diết, sâu sắc của nỗi nhớ đối với cảnh vật thiên nhiên.
“Nhớ từng bản khói phủ sương
Mỗi chiều bếp lửa ấm, người thương trở về
Trong thơ của Tố Hữu, hình ảnh thiên nhiên và cuộc sống của nhân dân Việt Bắc được mô tả rất sinh động và chi tiết. Đó là hình ảnh của khói mờ phủ lấp mỗi khi bình minh, khiến bản làng trở nên mịn màng trong sương mờ. Đặc biệt, hai từ 'người thương' mang đến sự ấm áp, chân thành, da diết. Đây là những người dân hiền lành, chân chất, luôn che chở, yêu thương và quý trọng các bậc lãnh đạo trong suốt những năm tháng khó khăn. Một tình cảm không thể nào thay thế và đầy lòng biết ơn, trân trọng.
Bếp lửa, biểu tượng của một tổ ấm thân thương, một hình ảnh quen thuộc trong mỗi gia đình. Có lẽ tác giả đã coi nơi này như là mái nhà của mình, và việc phải rời xa giờ đây khiến ông cảm thấy bịn rịn và lưu luyến.
“Nhớ từng rừng nứa, từng bờ tre
Ngòi Thia, dòng sông Đáy, suối Lê tràn đầy”
Hình ảnh của Việt Bắc hiện ra trong từng khung cảnh quen thuộc, từng địa điểm mà các cán bộ đã đi qua và ở lại. Đó là ngòi Thia, dòng sông Đáy, suối Lê, cùng với rừng nứa và bờ tre… Tác giả nhớ mỗi chi tiết, từng cảnh vật, mỗi khung cảnh, chúng trở thành những kí ức quý giá không thể phai mờ.
“Chúng ta đi, chúng ta nhớ những ngày
Ở đây hay ở đó, ngọt bùi đắng cay”
Lời từ ngữ đơn giản, thân thương, dành cho đồng bào Việt Bắc. Tác giả sử dụng ngôi “chúng ta” để diễn đạt tình cảm lưu luyến, tình thân mật dành cho những người dân nơi đây. Dù đã rời xa, nhưng vẫn nhớ những khoảnh khắc bên nhau, nhớ những trải nghiệm đắng cay ngọt bùi đã chia sẻ cùng nhau. “Đắng cay” ẩn chứa những khó khăn, gian khổ mà các cán bộ đã phải đối mặt trong thời kỳ kháng chiến, và niềm vui chiến thắng, tình đồng đội cũng là những ngọt bùi khó quên.
Toàn bộ đoạn thơ phản ánh tinh thần dân tộc, hiện hữu trong tâm hồn của Tố Hữu. Từ khóa “nhớ” được sử dụng liên tục để thể hiện sự cảm xúc sâu sắc, lưu luyến của tác giả. Ông đã khéo léo sử dụng hình thức thơ lục bát, kết hợp với cách gieo vần êm đềm, ngọt ngào, để tả rõ niềm nhớ thương của một chiến sĩ cách mạng đối với người dân và đất nước Việt Bắc, mà ông coi như là quê hương thứ hai của mình.
Kết thúc bài thơ, tình cảm lưu luyến vẫn hiện hữu rõ ràng. Dù những câu thơ đơn giản, chân thành, nhưng chạm đến trái tim của người đọc. Chỉ khi yêu quý miền đất và con người nơi đây, tác giả mới có thể sáng tác những bài thơ đầy xúc động như vậy. Việt Bắc là biểu tượng của tình yêu và tình thương, dù đi xa cũng không bao giờ quên.
Phân tích về khổ thơ thứ 5 của bài thơ 'Việt Bắc'.
“Khi ở đây, đất chỉ là nơi ở
Khi đi xa, đất trở thành nơi trái tim chúng ta thuộc về”
Có lẽ mỗi vùng đất mà chúng ta đi qua đều để lại trong lòng những kỷ niệm đẹp về thiên nhiên, về cảnh vật và về con người. Đối với nhà thơ Tố Hữu, khi đặt chân đến với vùng núi rừng của Việt Bắc, ông bị ấn tượng bởi vẻ đẹp của thiên nhiên và tấm lòng của con người ở đây, và từ đó, ông gửi gắm một tình yêu sâu sắc đối với Tây Bắc. Niềm nhớ về thiên nhiên và con người của Việt Bắc được nhà thơ Tố Hữu mô tả lại một cách tinh tế qua khổ thơ thứ 5 trong bài “Việt Bắc”.
Tố Hữu, một biểu tượng của thơ ca cách mạng, đã có những đóng góp to lớn cho văn học và cách mạng Việt Nam. Thơ của ông luôn gắn bó chặt chẽ với hành trình của cách mạng. Bài thơ 'Việt Bắc', viết vào tháng 7 năm 1954, được đánh giá cao là một trong những tác phẩm nổi bật nhất của thơ ca kháng chiến chống Pháp. Khổ thơ thứ 5 của bài thơ này diễn tả tâm tình của người về từ Việt Bắc nhớ về những ân tình cách mạng.
Sự nhớ nhung về núi rừng Việt Bắc của người về từ miền núi được thể hiện rõ qua 6 câu thơ đầu của khổ thơ:
“Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy'
Nhà thơ sử dụng cách diễn đạt quen thuộc trong ca dao để mô tả sự nhớ nhung về Việt Bắc. Sự so sánh giữa việc nhớ người yêu và nhớ về cách mạng rất độc đáo, thể hiện tình cảm sâu sắc của người dành cho cách mạng. Sự nhớ đó thật khó diễn tả, vì “Nhớ ai bổi hồi bồi hồi/ Như đứng đống lửa, như ngồi đống than”. Điều này cho thấy, tình yêu đối với đất nước được nhà thơ xem như một tình yêu đôi lứa, đầy nhiệt huyết và sâu sắc. Sự nhớ về Việt Bắc lan tỏa cả trong cảnh vật, thời gian và không gian, qua hình ảnh trăng, bản khói, và bếp lửa. Trong thơ ca cách mạng, trăng thường được coi là bạn tâm tình của người chiến sĩ. Tuy nhiên, ở 'Việt Bắc', trăng mang lại sự thơ mộng của miền núi, là thời điểm lý tưởng cho cuộc hẹn của đôi lứa. Sự nhớ về Việt Bắc còn kết nối với tình cảm yêu quý đối với lao động miền núi, được thể hiện qua hình ảnh “sớm khuya bếp lửa” và tình yêu của “người thương đi về”. Không chỉ thế, sự nhớ về Việt Bắc còn mở ra một không gian rộng lớn trong khu căn cứ của nó với “Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy”.
Ngoài việc nhớ về thiên nhiên và con người của Việt Bắc, người về từ miền núi còn nhớ đến những kỷ niệm ở đó cùng với đồng đội:
'Chúng ta đi, chúng ta nhớ những ngày
Mình đây, ta đó, đắng cay ngọt bùi
Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng
...
Chày đêm nện cối đều đều suối xa...'
Có thể những năm tháng kháng chiến đã khắc sâu trong tâm hồn của những người trở về từ miền núi những kỷ niệm khó quên. Hoàn cảnh gian khó của cuộc chiến đã buộc họ phải chia sẻ từng miếng cơm, từng bước chân trên con đường gian khổ. Đó là thời kỳ đoàn kết, chung sức với nhau để đạt được mục tiêu cao cả, đó là giải phóng đất nước khỏi ách thống trị của thực dân Pháp. Sống chung với những người dân Việt Bắc đã làm cho họ nhớ mãi hình ảnh của người mẹ hiền lành, nụ cười hiền hòa dạy con đi lên từng bước. Tình yêu thương ấy làm xao xuyến lòng người, đem lại cảm giác xót xa và ngưỡng mộ. Cảnh tiếng trống lớp 'i tờ' vẫn vang lên khắp làng khiến cho họ nhớ lại những giây phút hạnh phúc khi được học chữ, học văn hóa cách mạng dưới sự chỉ dẫn của Bác Hồ. Nỗi nhớ về Việt Bắc còn vượt ra cả thời gian cơ quan, âm nhạc nhẹ nhàng 'chày đêm nện cối đều đều suối xa'.
Khúc thơ này đã phản ánh sâu sắc nỗi nhớ của những người cán bộ trở về từ miền núi với cảnh vật và con người, cùng với những kỷ niệm với đồng đội khi còn ở Việt Bắc. Với giai điệu hài hòa, sự lưu loát và ngôn từ giản dị, mộc mạc nhưng lắng đọng, thể hiện khả năng sáng tác tài tình của Tố Hữu. Bài thơ 'Việt Bắc' được coi là một tác phẩm tình cảm và hùng biện.
Qua khúc thơ thứ 5 của bài thơ 'Việt Bắc', chúng ta cảm nhận được nỗi nhớ sâu sắc của những người trở về từ miền núi với Việt Bắc. Đó là tình cảm chân thành, da diết của những tấm lòng yêu nước và quê hương. Đoạn thơ này đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả bởi ngôn từ nhẹ nhàng, da diết mà vẫn mang chút hóm hỉnh của nhà thơ Nguyễn Tuân.
Phân tích khúc thơ thứ 5 của bài thơ 'Việt Bắc' - Mẫu 8
Tố Hữu, người được coi là chim đầu đàn của thơ ca cách mạng Việt Nam, đã để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng dân tộc với những tác phẩm vĩ đại như 'Việt Bắc'. Thơ của ông luôn đồng hành cùng cách mạng, phản ánh chân thực cuộc sống và tinh thần của nhân dân. Bài thơ 'Việt Bắc' là một biểu tượng về lòng yêu nước và lòng dũng cảm của con người trong cuộc kháng chiến.
Việt Bắc, nơi từng là tâm điểm của cuộc kháng chiến chống Pháp, đã chứng kiến chiến thắng lịch sử tại Điện Biên Phủ. Sau khi ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ, miền Bắc được giải phóng và tiến lên xây dựng chế độ xã hội mới. Nhưng việc rời bỏ Việt Bắc để về miền Nam đã để lại trong lòng những người chiến sĩ những ký ức đắng cay, nhưng cũng đầy trân trọng.
Nhớ về Việt Bắc là nhớ về một thời kỳ đầy biến động và hy vọng. Cảm xúc khắc khoải, da diết của những người lính khi phải chia xa mảnh đất yêu quý đầy gian nan và hy vọng. Bài thơ 'Việt Bắc' của Tố Hữu đã chạm đến trái tim của người đọc, khiến họ hiểu rõ hơn về ý nghĩa của cuộc kháng chiến.
Nỗi nhớ về Việt Bắc không chỉ là nỗi nhớ về một địa danh, mà còn là biểu tượng của tình yêu quê hương và lòng dũng cảm của những người chiến sĩ. Đoạn thơ 'Nhớ gì như nhớ người yêu' đã gợi lên hình ảnh da diết, cháy bỏng của sự nhớ thương.
Việt Bắc hiền hòa, thơ mộng luôn là nguồn cảm hứng vô tận cho những người con xa quê. Nỗi nhớ niềm thương về Việt Bắc được thể hiện qua những dòng thơ của những tâm hồn yêu nước.
Trăng sáng bên đỉnh núi, nắng chiều ấm áp bên lưng nương,
Nhớ từng cơn khói kèm theo sương,
Sáng tối bên bếp lửa, người thương về.
Nhớ từng khu rừng nứa, bờ tre,
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê tràn đầy.
Bức tranh thiên nhiên của rừng Việt Bắc hiền hòa và thơ mộng như một bức họa sống động. Trăng lấp lánh trên đỉnh núi, ánh nắng chiều len lỏi qua lưng nương, những hình ảnh đó chạm đến lòng người. Đặc biệt, hình ảnh bếp lửa sưởi ấm là nơi đong đầy nhiều cảm xúc, gắn kết tình thân thương giữa người thương đi về và những người ở lại. Câu thơ 'Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay' vẫn là biểu tượng cho những nỗ lực và sự hy sinh của người dân Việt Bắc.
Những cảnh đẹp của rừng Việt Bắc luôn in sâu trong lòng những người về. Từng dòng sông, đồi tre, suối mát là nguồn cảm hứng bất tận và cũng là dấu ấn của những kỉ niệm đầy xúc cảm. Tình yêu quê hương và những kỷ niệm đẹp đẽ đã tạo nên một khung cảnh đầy thơ mộng và dễ thương.
Trong bài thơ, Tố Hữu đã mô tả một cách hùng tráng về cuộc kháng chiến và những người lính trong đó. Những hình ảnh về những đường Việt Bắc, những bước chân vững vàng trên đá, cùng với ánh sao rọi sáng trên đầu súng, tạo nên một bức tranh sống động về sự dũng cảm và quyết tâm trong chiến đấu chống giặc.
Những con đường của Việt Bắc chúng ta,
Mỗi đêm vang vọng như lá đất rung,
Quân ta điều đội bước điên cuồng,
Ánh sao trên đầu súng, bạn bên chiếc mũ nan.
Công nhân cầm đuốc đỏ lửa từng đoàn,
Bước chân vẫn nặng đá, nơi lửa tung bay.
Đoạn thơ đã tả lại sự hào hùng của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến. Cuộc chiến chống Pháp là cuộc chiến của toàn dân. Mọi tầng lớp, từ già đến trẻ, từ nam đến nữ, đều tham gia vào cuộc chiến. Trong đó, hình ảnh anh hùng của bộ đội cụ Hồ đặc biệt nổi bật. Những người lính đã trải qua bao gian khổ và hy sinh, nhưng họ vẫn hùng dũng và đầy lạc quan.
Hình ảnh hùng tráng của đoàn quân được thể hiện rõ trong hai câu đầu của đoạn thơ:
Quân xuống vùng chiến đấu hàng loạt
Ngôi sao sáng trên mũ chiến binh
Câu thứ hai của đoạn thơ, ngắt nhịp 4/4, 'Ngôi sao sáng trên mũ chiến binh' làm tôn lên vẻ đẹp của người lính, vừa lãng mạn vừa hiện thực. 'Ngôi sao sáng trên mũ chiến binh' có thể là ánh sáng của ngôi sao treo trên mũ chiến binh của người lính, là nguồn sáng soi đường cho họ trong mỗi cuộc hành quân.
Anh đi bộ đội, sao trên mũ vẫn lấp lánh
Một vì sao dẫn lối mãi không tắt.
Quần chúng nhân dân cũng đóng góp vào sự hào hùng của cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc. Họ là những 'dân công đỏ đuốc từng đoàn', mang theo lương thực, súng đạn để hỗ trợ cho chiến trường. Hình ảnh của họ cũng rất đẹp, hào hùng và đầy lạc quan như các người lính khác.
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Đi trên dặm đá nát, lửa bay khắp nơi
Bằng cách nói mạnh mẽ 'đi trên dặm đá nát', nhà thơ đã làm nổi bật ý chí quyết tâm của người nông dân lao động trong cuộc kháng chiến. Họ là lực lượng nòng cốt của cách mạng, đã góp phần quan trọng vào chiến thắng cuối cùng chống Pháp.
Với lối thơ lục bát ngọt ngào như ca dao và chất thơ trữ tình cách mạng, Tố Hữu đã thể hiện sự hào hùng của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống Pháp ở Việt Bắc.
Phân tích đoạn thơ 5 Việt Bắc - Mẫu 9
Tố Hữu là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thơ ca Việt Nam và thơ ca cách mạng, thơ của ông luôn phản ánh những cột mốc cách mạng của dân tộc. Bài thơ Việt Bắc được coi là một đỉnh cao của thơ Tố Hữu và là một tác phẩm xuất sắc của văn học Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Pháp.
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia sông Đáy, suối Lê vơi đầy
Nhà thơ so sánh nỗi nhớ ở đây với nỗi nhớ người yêu, để trữ tình hóa tình cảm cách mạng, tình quân dân để trở nên dịu dàng và tha thiết hơn. Từ 'nhớ gì như nhớ người yêu' thể hiện sự sâu sắc và tha thiết của nỗi nhớ, trong đó 'Việt Bắc' hiện ra với một không gian thơ mộng và ấm áp.
Ta đi, ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi...
Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Ðịu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô
Nhớ sao lớp học i tờ
Ðồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa...
Cụm từ 'Ta đi ta nhớ...' là lời tâm sự chân thành của người đi dành cho những người ở lại, của người cách mạng dành cho mảnh đất Việt Bắc anh hùng. 'Thương nhau, chia củ sắn lùi', 'Bát cơm xẻ nửa, chăn sui đắp cùng' thể hiện tình đoàn kết và sức mạnh quân dân, đã tạo nên chiến thắng Điện Biên Phủ lịch sử.
Nhà thơ đã mô tả hình ảnh người mẹ 'Mang con lên nương vắt từng bắp ngô', một hình ảnh đẹp, đầy cảm xúc, từ 'cháy' thể hiện sức mạnh và khó khăn của người mẹ trong cuộc kháng chiến.
Kết thúc đoạn trích là những lời khen ngợi Đảng, khen ngợi Bác Hồ Chí Minh, xác nhận vai trò quan trọng của Việt Bắc trong cách mạng và cuộc kháng chiến.
..........
Tải tài liệu để xem thêm bài văn mẫu phân tích khổ 5 Việt Bắc