Phân tích vẻ đẹp kín đáo của người phụ nữ làng chài trong Chiếc thuyền ngoài xa bao gồm gợi ý viết kèm 4 bài văn xuất sắc của các học sinh giỏi. Qua phân tích này, bạn sẽ tiếp cận với những kiến thức sâu sắc về nhân vật, giúp bạn viết bài văn phân tích một cách chuyên nghiệp.
Vẻ đẹp tinh tế của người phụ nữ làng chài được thể hiện rõ trong truyện Chiếc thuyền ngoài xa. Hình ảnh này mang đến nhiều thông điệp về cuộc sống và phẩm chất đáng khen ngợi của phụ nữ. Dưới đây là 4 bài văn mẫu xuất sắc nhất. Ngoài ra, bạn cũng có thể xem thêm các bài văn khác như: phân tích nhân vật Phùng, phân tích bà cụ tứ, phân tích nhân vật Tràng.
Kế hoạch phân tích vẻ đẹp kín đáo của người phụ nữ làng chài
1. Giới thiệu
- Giới thiệu về tác giả Nguyễn Minh Châu, truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa và nhân vật người phụ nữ làng chài.
- Giới thiệu vẻ đẹp âm thầm của người phụ nữ làng chài
2. Nội dung chính
a. Tổng quan về nhân vật người phụ nữ làng chài
- Là nhân vật chính, có vai trò quan trọng trong việc thể hiện thông điệp của tác phẩm. Nhân vật này được mô tả rõ ràng, với sự tương phản giữa bề ngoài và bên trong, giữa vẻ đẹp vật chất và phẩm chất tinh thần.
- Những nét đẹp âm thầm đáng chú ý:
- Mặc dù bên ngoài có vẻ xấu xí, thô kệch, nhưng bên trong lại ẩn chứa một tấm lòng nhân hậu, lòng vị tha, độ lượng, và lòng hi sinh cao cả.
- Dù trông có vẻ cam chịu và nhẫn nhịn, nhưng bên trong vẫn chứa đựng khát vọng hạnh phúc, can đảm và sức mạnh không ngừng.
- Đằng sau vẻ quê mùa và sự thất học là một người phụ nữ sâu sắc, thấu hiểu lẽ sống.
b. Ngoại hình
Vượt qua tuổi trăm, thân hình cao lớn với những đường nét thô ráp, khuôn mặt mệt mỏi sau những đêm thức trắng, và tấm lưng bạc phếch, rách rưới, nửa thân dưới ướt sũng.
Gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống, đối mặt với sự túng quẫn và sự tàn bạo từ lão chồng, nhưng vẫn kiên định và mạnh mẽ vượt qua mọi thử thách.
c. Tính cách, phẩm chất
Kiên nhẫn, bền bỉ: Dù thường xuyên bị chồng đánh đập một cách tàn nhẫn, nhưng chị không bao giờ khóc lóc, van xin hay phản kháng.
Trong phiên tòa, khi bị khuyên bỏ chồng, chị van xin: “Quý tòa, dù tôi bị kết án hoặc phạt tù, nhưng xin đừng bắt tôi rời xa con”.
→ Chị chịu đựng, kiên nhẫn vì muốn bảo vệ con, mong muốn cho con có một gia đình ấm êm, và được chăm sóc.
Yêu thương vô bờ bến: Sự chịu đựng của chị là do tình yêu thương con con dâng trào. Chị muốn bảo vệ con khỏi bạo lực, thậm chí chị còn cảm thấy có lỗi khi bắt con đánh bố vì thương con.
Biết tha thứ, dung hòa: Dù bị chồng đánh đập, bà không giữ hận thù, tức giận hay muốn trả thù. Thậm chí, bà còn biết ơn người đã chia sẻ gánh nặng cuộc sống và cùng chăm sóc con trẻ. Bà đảm nhận mọi trách nhiệm, cho rằng sự ác độc của chồng là do bà gây ra.
Hiểu biết sâu sắc về cuộc sống: Bà nhận ra sứ mệnh của mình là người phụ nữ và quy luật bền vững của tự nhiên: “Người phụ nữ sinh ra để sinh con và dưỡng con cho đến khi chúng trưởng thành”.
d. Tổng kết
Nhân vật người đàn bà là một trong những thành công nổi bật trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu, để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc.
Người phụ nữ là biểu tượng nghệ thuật đầy sức thu hút mà Nguyễn Minh Châu muốn truyền đạt tinh thần nhân đạo qua tác phẩm.
3. Kết luận
Tóm tắt lại phẩm chất đáng kính của người phụ nữ làng chài cùng nội dung và nghệ thuật của truyện ngắn.
Vẻ đẹp bí ẩn của người phụ nữ làng chài - Mẫu 1
“Không phải là một nhà văn tỏa sáng ngay từ tác phẩm đầu tiên, không nhanh chóng nổi danh như Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Minh Châu giống như một người biết ơn, biết tri ân với người đọc nhưng phải cùng nhau vượt qua một quãng đường dài. Có thể so sánh ông như một nhà bếp đã biếu tặng chúng ta một loại rượu ngon, được ủ kỹ lưỡng, uống phải từ từ, thưởng thức và khi hấp thụ làm ngất ngây”. Phát biểu này của Phan Sư Đệ đã thể hiện rõ vị thế và đẳng cấp của nhà văn Nguyễn Minh Châu. Trong số các tác phẩm nổi tiếng của ông, không thể không nhắc đến truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa. Tác phẩm đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc thông qua hình tượng nhân vật “người phụ nữ”.
Nhân vật “người phụ nữ” không phải là nhân vật chính của câu chuyện nhưng khi đọc Chiếc thuyền ngoài xa, người đọc không thể không nhớ đến nhân vật này, một con người mang trên mình số phận bi đát, cực khổ nhưng vẫn tỏa sáng bởi những phẩm chất cao quý.
Nhân vật “người phụ nữ” đại diện cho số phận của hàng nghìn người phụ nữ làng chài sống lênh đênh trên dòng sông. Bà không được giới thiệu ngay từ đầu truyện mà xuất hiện trong một hoàn cảnh đau khổ và éo le. Bước ra từ Chiếc thuyền ngoài xa đẹp tuyệt vời – bức tranh nghệ thuật mà nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng mất hơn một tuần để “phụ kích” đã tìm ra. Nhưng Phùng không bao giờ ngờ rằng phía sau vẻ đẹp hoàn hảo của bức tranh là một câu chuyện đời thường, một số phận bi kịch, đau đớn.
“Người phụ nữ” là một phụ nữ không may mắn, gương mặt xấu xí với vết sẹo, là kết quả của một trận bão mùa từ khi còn bé. Lớn lên, bà trở thành vợ của một người đàn ông làng chài. Số phận bi thảm của người phụ nữ có thể được gọi là nạn bạo hành gia đình. Bị chồng đánh đập hành hạ “ba ngày một trận nhẹ”, “năm ngày một trận nặng”, nhưng bà vẫn không kêu lên, không oán trách, không tìm cách trốn chạy. Ngay cả khi tòa án khuyên bà rời bỏ chồng, bà vẫn kiên quyết không rời bỏ người chồng vũ phu, độc ác.
Có thể ta sẽ ngạc nhiên và thấy kỳ lạ trước hành động và thái độ không bình thường của người phụ nữ này nhưng khi nghe lời tâm sự chân thành của bà, thì chúng ta mới hiểu được căn nguyên của sự việc. Qua lời kể của người phụ nữ, chúng ta phần nào hiểu được về người chồng của bà, một người đàn ông từng hiền lành nhưng bây giờ trở thành một kẻ vũ phu, độc ác, không nhân từ. Tất cả đều có nguyên nhân, sự thay đổi đó, sự nghèo đói khiến con người quên mất tất cả, khiến con người trở nên tức giận, lạnh lùng, bực bội. Tội ác bắt nguồn từ đó, ‘bất cứ khi nào tức giận, hắn lại vác tôi ra đánh’. Những lời kể của người phụ nữ đặt câu hỏi sâu sắc về nỗi đau của con người trước hoàn cảnh khó khăn, bất công - “cả nhà vợ chồng con cái đều phải ăn xương rồng luộc chấm muối”, đẻ nhiều, sống khó khăn “biển động cả tháng trời”. Người phụ nữ nhìn suốt cuộc đời của mình: “chỉ vì tôi sinh đẻ quá nhiều, cả nhà không thể sắm một chiếc thuyền lớn hơn”. Đó là sự thực khắc nghiệt, là tình trạng phổ biến không thể tránh khỏi của những người làm nghề chài lưới. Vì thế, gánh nặng cuộc sống luôn đè nặng lên vai người đàn ông khiến ông ta không thể tránh khỏi sự thất vọng, ông ta phải trút mọi uất ức, đau khổ lên ai đó để giải thoát bản thân, và nơi trút không đâu khác ngoài người vợ. Và đó chính là lý do tại sao khi bước ra từ xe rà phá mìn, “lão đàn ông trở nên hùng hổ, mặt đỏ gay…” hắn trút giận bằng cách rút chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người phụ nữ, hắn vừa đánh vừa thở hổn hển, hai hàm răng nghiến ken két, mỗi nhát quật xuống hắn lại rên rỉ trong đau đớn, uất ức: “Mày chết đi cho tao nhờ, chúng mày chết đi cho tao nhờ!”. Nghe tiếng rên xiết của lão đàn ông độc ác, ta vẫn cảm nhận được nỗi đau, sự tuyệt vọng, và vô lực trước hiện thực cuộc sống khắc nghiệt đó.
Còn người phụ nữ, khi bị chồng đánh đập, hành hạ cũng không kêu lên một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách trốn chạy, liệu có phải bởi vì bà bị đánh đòn quá nhiều nên đã quen, hay bà đã chìm vào bóng tối, mù quáng đến mức không còn nhận biết được quyền sống của mình. Có thể không phải vậy? Khi Kiều bị đánh đập, Nguyễn Du đã phải thốt lên rằng:
Tuy số phận không may mắn nhưng người phụ nữ không bao giờ từ bỏ, không chối bỏ cuộc sống của mình dù đau khổ, dù nghèo khó. Bà vẫn kiên nhẫn chịu đựng, chấp nhận mọi thử thách của cuộc đời, bằng lòng hy sinh cho gia đình, cho người thân. Bà là biểu tượng của sức mạnh, kiên cường và lòng nhân ái trong mỗi con người, mỗi phụ nữ.
Thân thể của ai cũng là người
Trái tim nào cũng rung, máu đỏ vào cũng chảy.
Đúng vậy, người phụ nữ cũng là con người như chúng ta, có cảm xúc, có đau đớn, có khả năng tự vệ. Nhưng bởi cuộc sống của bà quá lênh đênh, quá rối ren bất ổn trên một chiếc thuyền, với nhiều con nhỏ nhàm chán, liệu có cách nào khác để bà thay đổi cuộc sống.
Nhân dân ta có câu “cá chuối đắm đuối vì con”, có lẽ người phụ nữ ấy hiểu rõ hơn bất kỳ ai về vai trò làm mẹ của mình, vì thế “trên thuyền phải có một người đàn ông chèo chống sóng gió để cùng làm ăn và nuôi nấng để sắp con nhỏ’. Bà ý thức sâu sắc về số phận và trách nhiệm của mình đối với con “đàn bà hàng chài sống trên sóng biển chỉ có thể sống vì con chứ không thể sống vì bản thân như phụ nữ trên đất liền”. Người phụ nữ ấy sẵn lòng chịu đựng, chấp nhận mọi gian khổ của cuộc sống vì những đứa con. Trong hình ảnh của người phụ nữ, chúng ta nhìn thấy hàng ngàn hàng triệu phụ nữ Việt Nam giàu lòng nhân ái, can đảm và giàu lòng hi sinh.
Dù nhẫn nhục với chồng, nhưng người phụ nữ rất tự trọng với con cái, lo lắng cho tương lai của chúng. Bà lo sợ những hành động bạo lực của người cha sẽ gây tổn thương tinh thần cho các con. Vì vậy, khi các con dần trưởng thành, người phụ nữ yêu cầu với chồng ‘đưa lên bờ mà đánh”. Bà không muốn con trải qua nỗi đau khổ của cả một cuộc đời bà, vì với bà: không có gì đau đớn hơn sự tổn thương đầu tiên gây ra cho những đứa con. Bà không chấp nhận con làm bất cứ điều gì gây hại cho bố, bởi người đàn ông đó vẫn là bố của chúng, vẫn là trụ cột vững chắc của gia đình. Bà chịu đựng những cay đắng, khổ sở về cả thể xác và tinh thần, chỉ với một hy vọng duy nhất là nuôi dưỡng con lớn khôn. Bà dành trọn tình yêu cho các con, đặc biệt là đối với thằng Phác. Trong những khoảnh khắc đau khổ, buồn phiền, nhưng cũng có lúc người phụ nữ cảm thấy hạnh phúc. Đó là khi thấy con cái ăn no, đó là niềm hạnh phúc nhỏ bé, giản dị nhưng đối với người phụ nữ bất hạnh, đó là sức mạnh sống, là động lực giúp bà vượt qua những khó khăn, trở ngại.
Người phụ nữ làng chài hiểu được trọng trách cao cả làm mẹ của mình và giữ những khoảnh khắc hạnh phúc nhỏ bé trong cuộc sống. Đó là lý do khiến hành động và suy nghĩ của bà luôn liên quan đến niềm tin trong thuyền, trong người chồng độc ác, vũ phu. Khi được toà án triệu tập và thẩm phán đầy thông cảm chia sẻ với cuộc sống của người phụ nữ, và bà vẫn kiên quyết từ chối ly hôn chồng. Thẩm phán đã nhận được câu trả lời tưởng chừng không lý do mà lại rất sâu sắc: “các ông có tấm lòng tốt nhưng các ông không phải là người thực tế, không thể hiểu được cuộc sống của những người làm nghề chài khó nhọc”. Trước một phụ nữ làng chài không biết chữ, khổ cực vất vả, thẩm phán thông minh nhưng hẹp hòi, anh ta có thể là một chuyên viên pháp lý thông minh nhưng chưa thực sự hiểu biết về cuộc sống. Anh ta nhận ra “có điều gì đó mới mẻ trong tâm trí”. Anh ta hiểu rằng cuộc chiến chống đói nghèo là một cuộc chiến đầy cam go, gian nan, phải có một giải pháp thực tế và hiệu quả chứ không thể giải quyết bằng lòng tốt và lý thuyết xa xỉ. Cuộc chiến đó còn khó khăn hơn cả cuộc chiến chống xâm lược bởi khi vẫn còn rơi vào vòng luẩn quẩn của đói nghèo, con người vẫn phải đối mặt với cái xấu, với cái khó khăn đã trở thành phần không thể tách rời của cuộc sống.
Cuộc sống và số phận của người phụ nữ làng chài cũng mang lại cho Phùng, nhiếp ảnh gia, cái nhìn mới mẻ về nghệ thuật, con thuyền nghệ thuật có thể ở rất xa, con người khó có thể đạt tới được nhưng hiện thực cuộc sống ở rất gần ta, xung quanh ta và gắn bó với ta. Đó cũng chính là mối quan hệ mật thiết giữa nghệ thuật và cuộc sống, “nghệ thuật sẽ chẳng là gì nếu không vì cuộc sống mà có” (Phạm Văn Đồng).
Qua số phận đầy chua cay của người phụ nữ làng chài, Nguyễn Minh Châu đã tôn vinh phẩm chất cao đẹp của những người lao động bình thường và chia sẻ cảm xúc với những người phụ nữ làng chài. Thấp thoáng ở đó, ta vẫn thấy ở người phụ nữ nghèo khổ làm nghề chài những phẩm chất cao đẹp, rất tiêu biểu cho người phụ nữ Việt Nam: mạnh mẽ, giàu tình yêu thương và sẵn lòng hi sinh. Qua hình tượng người phụ nữ nhà văn đã chia sẻ, chúng ta đồng cảm với những số phận đau khổ, tủi nhục của những người lao động không tên trong xã hội, đồng thời cũng nhận ra, tôn vinh những phẩm chất tốt đẹp của họ. Mặt khác, Nguyễn Minh Châu cũng khuyến khích các văn nghệ sĩ phải có cái nhìn đa chiều, đa dạng về cuộc sống: “Con người thì đa dạng, cuộc đời cũng phải đa dạng”.
Phân tích vẻ đẹp ẩn chứa của người phụ nữ làng chài - Mẫu 2
Nguyễn Minh Châu là một nhà văn đặc biệt, với phong cách viết giàu tính biểu tượng trong văn học Việt Nam. Những tác phẩm của ông luôn khiến người đọc phải suy ngẫm, trăn trở rất nhiều. Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” là một câu chuyện gây ấn tượng như vậy. Hình ảnh người phụ nữ làng chài là hình ảnh ghi sâu trong lòng người, đề cập đến cuộc sống của con người trong thời đại hiện đại.
Chiếc thuyền ngoài xa là câu chuyện về chuyến đi sáng tác của nhiếp ảnh gia Phùng tới vùng biển này. Và từ chuyến đi này, anh đã nhận ra rất nhiều khía cạnh của cuộc sống, nhiều góc khuất mà con người thường bỏ qua. Hình ảnh người phụ nữ là một hình ảnh khiến anh vừa khó hiểu, vừa băn khoăn, vừa đau lòng. Có thể nói người làng chài là biểu tượng cho cuộc sống đầy khó khăn, chịu nhiều thiệt thòi của phụ nữ.
Trong câu chuyện của nhiếp ảnh Phùng, người phụ nữ hiện ra là một hình ảnh đầy vất vả, mệt mỏi. Với nét vẽ tinh tế, Nguyễn Minh Châu đã tái hiện một người phụ nữ trên tuổi, quen thuộc với cuộc sống ven biển, cao lớn với vẻ ngoài đậm chất lao động. Khuôn mặt của bà ấy phản ánh sự mệt mỏi sau những đêm thức trắng, tái ngắt kéo lưới, dường như đang buồn ngủ. Một hình ảnh gợi lên sự đau khổ, khốn cùng và thương cảm ngay từ những dòng đầu tiên.
Người phụ nữ đó còn tràn đầy sự kiên nhẫn và lòng nhân từ khi phải đối diện với sự hằn học và mắng mỏ từ người chồng. Ánh mắt của bà như đọng lại trong lòng người đọc, gợi lên những cảm xúc đầy thương xót và yêu thương dành cho con cái.
Trong hành trình tìm kiếm cái đẹp của nhiếp ảnh Phùng, người phụ nữ đã trở thành tâm điểm của vẻ đẹp ấy. Một vẻ đẹp mang theo sự gian khổ, vất vả và đau đớn. Bằng sự im lặng trước bạo lực từ người chồng, bà khiến cho mọi người phải suy ngẫm.
Sự kiên nhẫn đó tiếp tục được thể hiện khi bà phải đối mặt với tòa án. Dù phải trải qua những cuộc tranh cãi liên tục, bà vẫn giữ im lặng. Hình ảnh của bà, ngồi trên ghế dựa và cố gắng tự giữ dáng người, gợi lên nỗi lo sợ và ám ảnh trong lòng mọi người. Tuy nhiên, sau cùng, bà lại trở nên lúng túng và e dè. Có lẽ cuộc sống của bà đã quá nặng nề trong suốt những năm qua.
Hình ảnh người phụ nữ vái lạy để bảo vệ con trai khỏi sự điên rồ của người cha, cũng như vái lạy trước tòa án, vẫn gợi lên sự kiên nhẫn, nhẫn nhục và lòng hi sinh 'Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó'. Dù đối diện với nỗi đau đớn, khi có cơ hội thoát khỏi, bà vẫn im lặng và chấp nhận đau khổ. Và điều đó chẳng phải là do tình mẫu tử sao?
Những lời chia sẻ của người phụ nữ về cuộc sống, về người chồng, về đứa con đã khiến người đọc vừa thương xót vừa ngưỡng mộ. Một người phụ nữ yêu thương chồng mặc cho bị ngược đãi. Một người mẹ yêu thương con vô điều kiện, không đòi hỏi điều gì.
Khi chị kể về khoảnh khắc “vui nhất là khi thấy các con đã ăn no”, có lẽ người đọc sẽ không kìm được nước mắt. Đứa con là nguồn động viên giúp chị vượt qua mọi khó khăn, sống mạnh mẽ đến bây giờ. Một người mẹ lặng lẽ hy sinh cuộc đời mình vì con cái, một người mẹ nhẫn nhục tất cả chỉ vì miếng cơm manh áo cho con. Một người mẹ nghèo, kiên cường nhưng đầy tình yêu thương vô bờ bến. Cuộc sống của chị với bao nhiêu đau thương và nước mắt lại chứa đựng bao nhiêu phẩm chất cao quý, đáng trân trọng.
Tác giả không gọi nhân vật là “người phụ nữ” một cách ngẫu nhiên. Có lẽ không chỉ có một người phụ nữ duy nhất, mà chúng ta còn có thể nhìn thấy nhiều người phụ nữ cùng cảnh ngộ tương tự ở bất kỳ bãi biển nào. Nguyễn Minh Châu đã tạo ra một bức chân dung khiến người đọc phải suy tư, phải đắm chìm trong cuộc sống của nhiều người xung quanh chúng ta. Và bức hình mà nhiếp ảnh Phùng chụp được cũng như suy nghĩ của anh về người phụ nữ này đều chứa đựng một triết lí, một triết lí về cái nhìn sâu sắc vào cuộc sống này. Tấm áo bạc phếch, ướt sũng của người phụ nữ này có thể sẽ ám ảnh nhiều người khác nữa.
Người phụ nữ ấy chính là sự tài năng của Nguyễn Minh Châu, cũng như tác giả đã dùng trái tim để vẽ lên hình ảnh đó.
Hình ảnh người phụ nữ làng chài trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” đã truyền đạt nhiều thông điệp sâu sắc về cuộc sống và những phẩm chất tốt đẹp của phụ nữ.
Phân tích vẻ đẹp đầy ẩn chứa của người phụ nữ làng chài - Mẫu 3
Hình ảnh người phụ nữ luôn là đề tài được quan tâm trong văn học. Sự yêu thương dành cho họ càng sâu sắc, những trang văn càng làm đau lòng. Từ Kiều đến những người chinh phụ, từ Thị Nở đến những cô vợ nhặt... cảm xúc người viết về họ càng trở nên đầy đau thương. Trong 'Chiếc thuyền ngoài xa' của Nguyễn Minh Châu, tác giả thành công trong việc khắc họa hình ảnh người phụ nữ làng chài, một người lao động vất vả, bất hạnh nhưng cũng tràn đầy tình yêu thương, sự hy sinh và lòng vị tha. Người phụ nữ đó để lại cho độc giả niềm đồng cảm và sự trân trọng sâu sắc về những phẩm chất quý giá của họ.
Truyện 'Chiếc thuyền ngoài xa' ra đời vào thời điểm đất nước chúng ta đang trải qua những biến động, cuộc sống kinh tế đầy thách thức. Tác phẩm ban đầu được in trong tập 'Bến quê' (1985), sau đó được chọn làm tên cho một tuyển tập truyện ngắn in năm 1987.
Nguyễn Minh Châu được coi là 'người mở đường tài năng' trong văn học Việt Nam. Ông là một nhà văn luôn tìm kiếm và khám phá bản chất con người ở chiều sâu tâm hồn, từ đó tạo ra những tác phẩm như những tác phẩm tự sự nhỏ bé. Ông chỉ cần 'cắt lấy một phần', 'cắt lấy một khúc' và 'chụp lấy một khoảnh khắc' để phản ánh bi kịch của cuộc đời và đưa ra triết lý nhân sinh. Tác giả đã thành công trong việc xây dựng nhân vật Phụng bên cạnh người phụ nữ làng chài, làm nổi bật những phẩm chất đáng quý của người phụ nữ đó. Mọi sự kiện, số phận, tính cách và trải nghiệm của chị đều khiến lòng độc giả xúc động, suy tư mạnh mẽ không chỉ với tác giả mà còn với độc giả.
Truyện kể lại qua lời của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phụng, một cựu chiến binh vừa trở về từ chiến trường với những tổn thương đau lòng. Phụng được giao nhiệm vụ trở lại chiến trường xưa để chụp một bức tranh biển theo yêu cầu của trưởng phòng. Tại đây, anh phát hiện ra một bức tranh biển độc đáo: 'trước mặt tôi là một bức tranh biển của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ trong sương mù... Tất cả cảnh đẹp ấy nhìn qua cái lưới mắt, từ đường nét đến ánh sáng, đều tạo ra một sự hài hòa'. Cảnh đẹp ấy khiến người nghệ sĩ dường như đã 'khám phá ra bí mật của sự hoàn hảo'. Nhưng đằng sau chiếc thuyền đẹp như mơ ấy là một hiện thực đắng cay: một người phụ nữ xấu xí, một người chồng bạo lực, thô bạo hành hạ người phụ nữ bằng những cú đánh đau thương, người phụ nữ nhẫn nhục chịu đựng. Phụng từ niềm vui đến sự bàng hoàng, choáng váng. Tình cảnh đó làm tan vỡ trái tim anh.
Cuốn truyện khiến người đọc không biết tên thật của người phụ nữ là ai, tác giả đã sử dụng một cách khéo léo: đôi khi gọi là người phụ nữ làng chài, đôi khi lại gọi là mụ, đôi khi lại gọi là chị... như một cách làm mờ đi để nhấn mạnh thêm số phận của chị. Khi người phụ nữ này đến tòa án huyện để gặp chánh án Đẩu, ta vẫn không biết tên của chị. Nguyễn Minh Châu không đặt tên cho người phụ nữ làng chài này không phải vì ngôn từ của ông nghèo nàn đến mức không thể đặt tên cho chị mà vì chị cũng giống như hàng trăm người phụ nữ khác ở vùng biển này: chị là người vô danh, là biểu tượng của cuộc sống khó khăn, làm lụi bại như bao người phụ nữ khác trên miền quê Việt Nam. Điều đó chỉ ra một sự thật rằng, không chỉ riêng người phụ nữ đó gặp bất hạnh mà có rất nhiều phụ nữ trong xã hội cùng chịu đựng những bất hạnh như thế. Nhân vật người phụ nữ làng chài cũng khiến ta nhớ đến nhân vật Thị trong truyện Vợ nhặt của Kim Lân. Có lẽ vẫn là số phận của con người đang sống giữa cuộc đời mà sự sống mong manh.
Tác giả đã sử dụng từ ngữ tinh tế để mô tả về bề ngoại của người phụ nữ làng chài có hình ảnh xấu xí tàn tạ “trạc ngoài 40, một thân hình quen thuộc của người phụ nữ vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt. Khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ”. Vì cuộc sống khó khăn, làm việc vất vả trên biển, diện mạo của chị trở nên thô kệch. Không chỉ vậy, tác giả còn tập trung vào miêu tả ánh mắt của người phụ nữ: “Chị đưa mắt nhìn xuống chân,… nhìn ra ngoài bờ phá”. Cách mô tả của nhà văn không chỉ thể hiện sự khổ cực, gian khổ của người phụ nữ mà còn hé lộ những đau khổ tinh thần đang ám ảnh tâm can.
Người phụ nữ làng chài không chỉ phải chịu thiệt thòi về ngoại hình mà còn phải gánh chịu mọi bất hạnh của cuộc đời, xấu xí, nghèo khổ, làm việc vất vả, đau khổ. Chị phải thường xuyên chịu đựng những trận đánh của chồng vũ phu, tổn thương, đau xót khi con cái phải chứng kiến bố đánh mẹ… Số phận xấu xí đã theo đuổi chị như một định mệnh, thậm chí chị còn có khuôn mặt rỗ do dịch đậu mùa khiến không ai để ý, từ khi còn nhỏ. Rồi chị kết hôn với một người hàng chài để cùng nhau mưu sinh.
Người phụ nữ làng chài thường mơ mộng về một cuộc sống gia đình hạnh phúc và ấm áp. Nhưng cuộc sống trên biển cực kỳ khắc nghiệt, vất vả, làm việc lam lũ, bấp bênh. Gia đình nghèo lại có nhiều con, thuyền chật chội,… Bị chồng thường xuyên đánh đập, hành hạ với những trận đánh “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”. Mỗi khi chồng cảm thấy quá khổ là lại đánh chị, như thể để trút giận, như đánh một con vật với những lời lẽ độc ác “Mày chết đi cho tôi nhẹ lòng, cả nhà mày chết hết đi cho tôi nhẹ lòng”. Thực sự, người phụ nữ làng chài có một cuộc đời cực khổ, khó khăn, đầy khốn khó. Chị là nạn nhân của nghèo đói, vô học và lạc hậu. Số phận, cuộc đời chị dần dần hiện ra rõ nét khi chị đến tòa án huyện. Số phận bi kịch đó được tác giả tái hiện đầy cảm thông và chia sẻ.
Nhân vật người phụ nữ làng chài để lại ấn tượng không thể phai nhạt trong lòng người đọc bởi vẻ đẹp tâm hồn. Là một người phụ nữ yếu đuối phải chịu đựng bao đắng cay của cuộc đời nhưng chị lại có một phẩm chất đáng quý. Đầu tiên là sự kiên nhẫn, sự chịu đựng vì hoàn cảnh. Chị coi việc bị đánh là một phần của cuộc sống của mình. Chị chấp nhận, không phàn nàn, không trốn chạy và không hề nghĩ đến việc bỏ rơi gia đình, bỏ rơi chồng vũ phu của mình. Chị hiểu rõ cuộc sống khắc nghiệt của người phụ nữ mưu sinh trên biển nếu không có người đàn ông: thuyền xa biển, cần một người đàn ông mạnh mẽ, có kỹ năng và sẵn lòng đối mặt với những ngày phong ba bão táp. Đó là sự kiên nhẫn, sự chịu đựng đáng trân trọng. Cách hành động của người phụ nữ không thể khác với một con người sống trách nhiệm.
Trong nhân vật người phụ nữ làng chài xấu xí và đau khổ đó tồn tại một tình mẫu tử vô cùng rộng lớn. Dù phải chịu đựng khổ cực, nhưng người phụ nữ đó quyết tâm chịu đựng tất cả, làm tất cả vì những đứa con thân yêu của mình. Bà nhận thấy rằng, các con là cuộc sống, lẽ sống, là tất cả những gì có trên cuộc đời này của bà. Khi tòa án ra phán quyết ly hôn, bà từ chối. Điều này có nghĩa là bà từ chối bỏ đi mảnh bi kịch nhục nhã của cuộc đời mình. Đối với người phụ nữ này, thà bị giam cầm, bị đánh đập còn hơn là phải rời bỏ chồng: “Quý tòa có thể kết án tôi, phạt tù tôi, nhưng đừng buộc tôi rời xa nó”. Lý do mà bà đưa ra đơn giản nhưng cũng rất đáng thương: cần có chồng để cùng nuôi dạy các con. Thì ra sự sống của những đứa con là lý do khiến người phụ nữ ấy phải chịu đựng cuộc sống này.
Tình yêu thương của người mẹ dành cho con cái chính là nguồn sức mạnh khiến người phụ nữ ấy kiên nhẫn: “Người phụ nữ ở trên thuyền chúng tôi phải sống vì con, không thể sống cho bản thân như trên đất liền được”. Người phụ nữ đã tự nguyện chịu mọi đau đớn để đảm bảo sự sống của con cái vì gia đình đông con phụ thuộc vào nghề sông nước đầy khó khăn. Thậm chí khi bị đánh đập, bà còn tự nguyện xin chồng đánh ở nơi khác: “Sau này, khi con cái lớn lên, tôi sẽ xin với ông… để tôi lên bờ bị đánh”. Bà muốn chịu hết nỗi đau cho riêng mình, không để con cái phải chịu tổn thương.
Tương tự như bà cụ Tứ, người phụ nữ quay mặt để che giấu nước mắt cho riêng mình, để Tràng và Thị được trải qua chút hạnh phúc nhỏ nhoi trong cuộc sống khó khăn khi đói kém nhưng cũng rất gần kề. Tình yêu thương như một bản năng mãnh liệt tỏa ra một cách cảm động và sâu sắc nhất ở người phụ nữ này. Tình mẫu tử hiện hữu, trên nền tảng của cuộc sống cơ cực, gian nan, đau đớn đầy xót xa. Vậy nên, nếu ai đó so sánh công lao của người mẹ như biển Thái Bình, ta sẽ dễ dàng hiểu được điều đó.
Thậm chí, bà rất yêu thương Phác, đứa con ương bướng nhất trong số các con của bà, tính cách và ngoại hình của nó giống hệt bố nên bà phải gửi nó lên núi cho ông ta nuôi. Điều đau đớn biết bao khi người mẹ ấy phải cầu xin chồng để đánh ở nơi khác để các con không thấy. Nhưng chính Phác lại chứng kiến mắt mình cảnh bố nó đánh mẹ nó tàn bạo. Một tình mẫu tử đã bắt đầu tỉnh giấc, theo bản năng của một đứa trẻ còn non nớt nó lao vào chống lại mạnh mẽ. Thậm chí nó còn định sử dụng dao đâm bố. Vì nó đã hứa với lòng mình rằng khi nó còn ở đây, nó sẽ không để mẹ nó bị đánh. Ta cảm thương và phẫn nộ trước hành động rất trẻ con của Phác.
Và thật bất ngờ khi người mẹ phản ứng trước cách Phác thương mình. Khi gã chồng tát Phác một cái làm nó ngã dúi dụi xuống cát và rời đi, lúc này lòng thương con mới tỉnh dậy. “Người phụ nữ dường như lúc này mới cảm thấy đau đớn – vừa đau đớn vừa vô cùng xấu hổ, nhục nhã”. Cuối cùng, miệng bà mếu máo gọi, “người phụ nữ ngồi xệp xuống trước mặt đứa bé, ôm chầm lấy nó rồi lại buông ra, chắp tay vái lấy vái, rồi lại ôm chầm lấy”. Ta lại tìm thấy một mâu thuẫn trong cách hành xử của người phụ nữ. Tại sao khi bị người đàn ông đánh chửi vợ phu, tàn bạo bà không xấu hổ, nhục nhã mà khi chứng kiến cảnh con đánh trả bố mẹ bà lại đau đớn đến vậy? Có lẽ lúc này đã có vô số suy nghĩ chạy trong tâm trí của người phụ nữ kia. Liệu Phác nhìn thấy cảnh này, tâm hồn một đứa trẻ sẽ ra sao? Nó nghĩ gì về bố và mẹ nó? Sau này lớn lên liệu nó có giống tính cách của bố nó không?
Bà đã cố gắng duy trì một mái ấm gia đình cho các con để chúng có niềm vui và đặc biệt để tâm hồn chúng không bị lấp đầy bởi những cặn bẩn của cuộc sống mà vẫn trong sạch. Nhưng bây giờ bà cảm thấy bất lực. Sự kiên nhẫn và hy sinh của bà có vô ích chăng? Khi nhìn thấy thằng Phác không động một chút, bà cảm thấy như một viên đạn đã xuyên qua tâm hồn bà và giờ đang chảy ra từ những dòng nước mắt. Sự đau đớn cực độ của người phụ nữ lúc này thật sự thấy rõ tình yêu thương của bà dành cho con đến đâu, cũng như nỗi đau cuối cùng vì tình yêu mà hy sinh nhưng không hiệu quả. Thật đầy cảm động trước trái tim của người mẹ lao động nghèo khổ này. Hành động đơn giản nhưng ý nghĩa cao đẹp của tình mẫu tử.
Người phụ nữ cô đơn ấy lại mang trong mình lòng bao dung vô tận. Dù chịu đựng tất cả những đau đớn mà người chồng gây ra, bà vẫn có trái tim bao dung, khoan dung đối với chồng. Nghệ sĩ Phùng và thẩm phán Đẩu có vẻ nhìn về người chồng như là kẻ dã man, tàn bạo, đáng bị lên án. Nhưng qua mắt của người vợ, ông từng nói: “anh chồng cục tính nhưng rất hiền lành, không bao giờ đánh tôi”. Bị chồng đánh dã man nhưng bà không oán trách vì bà hiểu nỗi đau của chồng, hiểu rằng nỗi đau đã biến người hiền lành thành kẻ dã man. Cuộc đấu tranh mưu sinh đã biến ông thành kẻ dã man, tàn bạo.
Người ta làm điều ác thường không phải vì họ xấu mà vì họ đau khổ. Bà hiểu rằng chồng mình không chỉ là nạn nhân của đau khổ, mà còn là kẻ gây ra đau khổ cho người thân của mình chỉ vì nghèo đói, ít học về cuộc sống mưu sinh. Thậm chí, bà còn sẵn lòng chấp nhận trách nhiệm của mình, coi mình là nguyên nhân khiến cuộc sống của chồng trở nên khốn khổ vì bà nghĩ: lũ đàn bà trên thuyền sinh con quá nhiều, nhà nào cũng một đống con. Vì vậy, cuộc đấu tranh mưu sinh đổ hết lên đôi vai của người đàn ông. Vì vậy, bà nghĩ rằng mình là nguyên nhân của đau khổ và sự biến chất của người chồng từng là người hiền lành nhưng hơi cục tính xưa kia. Đây chính là người phụ nữ có cái nhìn sâu sắc, đa chiều, bao dung và khoan dung với chồng.
Người phụ nữ hàng chài dưới bút của Nguyễn Minh Châu là một người có kinh nghiệm, hiểu biết cuộc đời. Phải nói rằng, nhà văn đã có cái nhìn đầy thương cảm và trọng trách với người phụ nữ đó nên mới có thể mô tả được một người phụ nữ hàng chài dù không học vấn nhưng không tối tăm, ngược lại rất sâu sắc. Đó là phẩm chất phi thường không phải ai cũng có. Sự trải nghiệm đó của người phụ nữ bị che lấp dưới vẻ ngoài thô kệch, xấu xí. Thậm chí là những hành động tưởng chừng ngượng ngùng khi bước vào căn phòng của thẩm phán Đẩu. Ẩn sau vẻ e dè, sợ sệt trước thái độ của Đẩu và sự xuất hiện đột ngột của Phùng. Nhưng người phụ nữ ấy bỗng nhiên trở nên linh hoạt và sắc sảo không ngờ khi bà nói về cuộc đời với những lý lẽ riêng của một con người từng trải. Từ đó, Đẩu và Phùng phải hiểu và nhận ra nhiều điều.
Bà hiểu lòng tốt của thẩm phán Đẩu và nghệ sĩ Phùng khi khuyên bà rời bỏ người chồng dã man, tàn bạo. Nhưng bà càng hiểu hơn cuộc sống trên sông. Bà suy luận từ cuộc sống khó khăn, lao động một sự thật mộc mạc nhưng thấm đẫm vị mặn của cuộc sống hàng ngày: “đám phụ nữ hàng chài trên thuyền cần có người đàn ông để chèo lái khi gặp khó khăn”. Cuộc sống thực tế cần một người đàn ông để làm trụ cột, dù đó là người chồng dã man, tàn bạo. Bà cũng hiểu và tự hào với sứ mệnh của người phụ nữ: “trời sinh ra người phụ nữ để sinh con, sau đó nuôi dưỡng con cho đến khi trưởng thành nên phải chịu đựng cả khổ cực”. Chính vẻ đẹp của tình mẫu tử, đầy hy sinh và cao quý đó đã tôn vinh người phụ nữ có vẻ bề ngoài xấu xí, thô kệch.
Trong cơn đau khổ, người phụ nữ ấy giữ gìn những phút giây hạnh phúc nhỏ bé trong cuộc sống hàng ngày. Cuộc sống của người phụ nữ đó đầy đau khổ nhưng hạnh phúc thì hiếm hoi. Vì vậy, bà luôn trân trọng những khoảnh khắc hạnh phúc khi cả gia đình sống bên nhau hòa thuận, vui vẻ. Vì hạnh phúc quý giá, nên phải trải qua những đau đớn, sự bạo lực và nỗi đau về cả thể xác lẫn tinh thần. Niềm hạnh phúc lớn nhất là khi nhìn thấy con cái no nê vui chơi.
Đối với những người phụ nữ khổ cực, niềm vui thật sự là một điều xa xỉ, nhưng sự hi sinh và tận tụy cho gia đình là niềm hạnh phúc lớn nhất với họ. Đó là sức mạnh tinh thần để họ vượt qua mọi khó khăn: “lần đầu tiên, trên gương mặt xấu xí của bà, bỗng trở nên sáng sủa với một nụ cười” - Nụ cười được chứa đựng và nuôi dưỡng trong cuộc sống đau khổ, nước mắt và vết roi. Đó là triết lý sâu sắc về cuộc sống và con người: Hạnh phúc thường đến từ những điều đơn giản, từ những khao khát nhỏ bé nhưng vẫn nằm ngoài tầm với.
Nguyễn Minh Châu tập trung vào miêu tả nhân vật một cách kỹ lưỡng. Tác giả đã sử dụng sự tương phản giữa hoàn cảnh và tính cách, giữa bề ngoại và tâm hồn của người phụ nữ đó để làm nổi bật những phẩm chất cao cả, đáng ngợi ca. Qua cuộc đời của người phụ nữ hàng chài, tác giả cũng đặt ra những vấn đề đau lòng của cuộc sống: bạo hành trong gia đình, đói nghèo, thiếu học vấn, sự biến chất về nhân cách… những mâu thuẫn, nghịch lý của cuộc sống.
Trong tác phẩm, tác giả cũng xây dựng một nhân vật nữ như hình ảnh đối lập của người phụ nữ đó, đó là chị gái lớn của thằng Phác. Dù không xuất hiện nhiều, nhưng cô gái ấy để lại những suy tư và ấn tượng sâu sắc. Nếu thằng Phác là hình ảnh của người đàn ông, thì cô gái ấy là hình ảnh của người phụ nữ. Trong khi thằng Phác thể hiện sự nông cạn tình cảm với mẹ bằng cách đấu tranh mạnh mẽ với bố, thì chị gái thể hiện sự trưởng thành và mạnh mẽ của mình. Cô đã kịp thời ngăn chặn thằng em, không để em làm những việc ngu ngốc và kịp lấy con dao khỏi tay thằng Phác. Đó là suy nghĩ của một cô gái đã trưởng thành và nhận thức.
Đặc biệt, chị gái còn là điểm tựa vững chắc cho người phụ nữ, vì cô luôn ở bên mẹ một cách âm thầm, dịu dàng không gây chú ý như thằng Phác. Đó là cách biểu hiện tình yêu thương của một cô con gái. Khi người mẹ đi lên tòa án huyện, cô con gái đã đi cùng. Cô ngồi lặng lẽ bên ngoài đợi mẹ với chiếc áo tím. Khi người mẹ nhìn ra bờ, cũng là lúc bà bắt đầu nhớ về hình ảnh của cô con gái thân thương ngồi đợi bên thuyền với chiếc áo tím.
Chỉ với hai chi tiết nhỏ nhưng người đọc có thể tìm thấy những đặc điểm tương đồng ở cô gái trẻ này với người phụ nữ hàng chài mà cô gọi là mẹ kia. Liệu sau này khi trưởng thành, cô có trở thành người phụ nữ kiên nhẫn, nhân từ, bao dung, trải qua và hiểu biết như mẹ mình hay không? Câu trả lời có lẽ đã được tìm thấy, nhưng chúng ta vẫn hy vọng cuộc sống của những người phụ nữ ven biển sẽ được cải thiện, không còn những cô gái áo tím theo dõi những người phụ nữ hàng chài kia nữa.
Người phụ nữ hàng chài có lẽ không chỉ là hình ảnh gây ám ảnh cho Phùng mỗi khi anh nhìn vào bức ảnh của mình mà còn là hình ảnh làm cho lòng đọc giả rơi vào suy nghĩ sâu sắc sau khi đọc xong truyện. Ta tự hỏi về số phận của người phụ nữ ấy giữa cuộc sống khó khăn, gian nan. Đó là câu hỏi không chỉ Nguyễn Minh Châu đặt ra trong truyện Chiếc thuyền ngoài xa cách đây ba thập kỷ mà còn là một vấn đề thời sự ngày nay khi xã hội đang nâng cao nhận thức về quyền của phụ nữ và chống lại bạo lực gia đình. Vì thế, tác phẩm của Nguyễn Minh Châu sẽ luôn giữ được giá trị trong tương lai.
Vẻ đẹp tiềm ẩn của người phụ nữ hàng chài - Mẫu 4
Trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của nhà văn Nguyễn Minh Châu, nhân vật gây ấn tượng sâu sắc nhất cho người đọc chính là người phụ nữ làng chài - một người phụ nữ vô danh mang trong mình lòng từ bi, lòng thứ tha và lòng hy sinh.
Truyện được kể qua lời của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng, một người lính mới ra từ chiến trường với nhiều tổn thương và mất mát. Phùng được gửi trở lại cảnh chiến xưa để chụp một bức ảnh cảnh biển theo yêu cầu của trưởng phòng. Tại đây, anh đã phát hiện ra một bức ảnh cảnh biển không giống ai: “trước mặt tôi là một bức tranh cảnh biển được vẽ bằng mực của một danh họa cổ. Phần đầu thuyền mơ hồ hiện lên trong bầu không khí sương mù… Tất cả những gì tôi nhìn thấy được từ khung cảnh ấy qua ống kính… từ đường nét đến ánh sáng, đều hoàn hảo”. Cảnh tượng tuyệt đẹp đó khiến cho nghệ sĩ cảm thấy như vừa “khám phá ra bí mật của sự hoàn thiện”. Nhưng sau chiếc thuyền đẹp như mơ ấy là một cảnh tượng đau lòng: người chồng hung ác, tàn bạo hành hạ người phụ nữ bằng những cú đánh đòn tàn nhẫn, người phụ nữ kiên nhẫn chịu đựng. Phùng từ sự hạnh phúc chuyển sang sự kinh ngạc, choáng váng. Tình huống đối lập ấy làm tan vỡ trái tim anh.
Suốt câu chuyện, hầu hết độc giả không biết tên của người phụ nữ đó, Nguyễn Minh Châu gọi cô ấy với nhiều tên khác nhau: từ người phụ nữ hàng chài, mụ, đến chị... Đằng sau cách gọi đó, có lẽ là một cuộc đời đầy bi kịch, một số phận bị chôn vùi giữa cuộc sống bận rộn.
Trong cuộc sống bình thường, dường như không có gì đặc biệt về cô ấy, nhưng trong đó chứa đựng nhiều điều kỳ diệu khiến người khác phải suy ngẫm. Người phụ nữ trên bốn mươi tuổi, vóc dáng thô kệch, gương mặt mệt mỏi sau một đêm dài kéo lưới, tái ngắt và tạo ra ấn tượng của một người phụ nữ xấu xí, mệt mỏi như đang mơ mộng. Và cuộc sống khó khăn, vất vả, đau khổ đã biến diện của cô từ xấu xí trở nên thô kệch.
Thông qua câu chuyện tại tòa án huyện, độc giả hiểu thêm về nỗi đau khổ trong cuộc đời của cô. Dường như mọi nỗi đau khổ của cuộc sống đều đổ dồn lên cô, xấu xí, nghèo khổ, vất vả, và phải chịu đựng những cú đòn của chồng, tổn thương, đau khổ cho con cái phải chứng kiến cha đánh mẹ... Số phận xấu xí đã đi theo cô từ khi còn nhỏ. Sau khi kết hôn với một ngư dân, cuộc sống trên biển càng trở nên khắc nghiệt, vất vả, không chắc chắn. Gia đình nghèo và đông con, thuyền nhỏ,...
Bị chồng thường xuyên đánh đập, hành hạ: ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng. Mỗi khi chồng cảm thấy khó chịu, lại đánh cô, như là để giải tỏa cơn giận, với lời lẽ cay nghiệt 'Mày chết đi cho tốt, chúng mày hết đi cho tốt'. Khi bị đánh, cô không hề kêu lên, không chống lại, không cố gắng trốn thoát mà coi đó như điều hiển nhiên. Người phụ nữ ấy kiên nhẫn, cam chịu, im lặng chịu đựng mọi đau đớn vì con cái.
Người phụ nữ đã kiên nhẫn, cam chịu. Cô không muốn con cái phải chứng kiến cha đánh mẹ. Cô yêu cầu chồng chịu đánh sau khi con lớn. Cô đau lòng khi nhìn thấy Phác đánh cha: 'như một viên đạn bắn vào người đàn ông và bây giờ đang xuyên qua tâm hồn người phụ nữ, làm rơi xuống những giọt nước mắt...'
Người phụ nữ đó sâu sắc và thấu hiểu cuộc sống. Sự thấu hiểu đó không bao giờ phản ánh ra bên ngoài. Cô ấy coi việc bị đánh như một phần bình thường của cuộc sống, không kêu gào, không chạy trốn. Khi được yêu cầu giúp đỡ, cô ấy nói: 'Xin hãy xem xét tình cảm của tôi'; 'Tòa án có thể kết án con, có thể phạt tôi, nhưng đừng bắt tôi bỏ đi'.
Cô ấy nhận thức rõ vai trò của người phụ nữ: 'Ông trời đã tạo ra phụ nữ để sinh con và chăm sóc cho đến khi chúng lớn lên'. Trong cuộc sống khó khăn: trên biển, cần một người đàn ông mạnh mẽ, có kinh nghiệm. Việc có một người đàn ông làm chỗ dựa, chèo lái khi gặp bão táp, cùng nuôi dạy con cái: 'Phụ nữ trên thuyền chúng tôi sống vì con, không thể sống vì chính mình như trên đất liền'. Cô 'phải sống vì con cái, không thể sống cho bản thân'.
Chỉ khi thấu hiểu được điều này, chúng ta mới hiểu được tình cảm, trái tim của người phụ nữ không may. Bởi vì nếu chỉ đơn giản hiểu rằng cô chỉ cần bỏ chồng thì mọi việc sẽ ổn. Nhưng nếu nhìn vào vấn đề một cách sâu sắc, suy ngẫm thì cách cư xử của người phụ nữ không thể khác. Lí do sâu xa cho sự chịu đựng chính là tình yêu vô bờ bến của cô.
Cô ấy cũng là người giàu lòng vị tha. Cô hiểu tại sao chồng lại trở nên như vậy. Cô hiểu rằng trước kia chồng là một chàng trai hiền lành, nhưng cuộc sống khó khăn đã làm thay đổi anh. Chúng ta có thể không tha thứ cho hành động tội lỗi của ông, nhưng chúng ta có thể cảm thông cho ông một phần.
Đặc biệt, cô ấy vẫn giữ ngọn lửa hy vọng, niềm tin để tạo ra chút hạnh phúc mong manh: Trong những thời điểm khó khăn, cô ấy vẫn tìm thấy những giây phút hạnh phúc nhỏ nhặt: '...vui nhất là khi thấy con chúng tôi được ăn no'; 'trên thuyền cũng có những khoảnh khắc gia đình sống hòa thuận, vui vẻ'.
Đằng sau sự kiên nhẫn đó là bản năng mạnh mẽ để tồn tại và một trái tim đầy yêu thương. Người phụ nữ làm nghề đánh cá không chỉ chịu khó, chân thành, yêu thương con cái hết mực, mà còn luôn hiểu biết về những khía cạnh sâu xa của cuộc sống. Trên đôi vai của người phụ nữ đó hiện lên hình ảnh của hàng triệu phụ nữ Việt Nam, họ hiền lành, bao dung, và sẵn lòng hy sinh.
Khi gấp lại trang sách, người đọc vẫn cảm thấy ám ảnh với những câu hỏi: Cuộc đời của người phụ nữ đó sẽ đi về đâu? Liệu những đứa con khó khăn của cô ấy có được hạnh phúc? Đó là những câu hỏi mà tác giả vẫn chưa trả lời. Câu trả lời nằm trong cuộc sống thực tế, trong hành động của mỗi người chúng ta. Điều đó làm nổi bật giá trị của tác phẩm và uy tín của nhà văn Nguyễn Minh Châu trong văn học hiện đại của Việt Nam.