Đoạn trích từ 'Vượt thác' trong tác phẩm Quê nội của tác giả Võ Quảng sẽ được thảo luận trong bài học Ngữ văn lớp 6.
Trang Mytour sẽ giới thiệu cho các bạn học sinh tài liệu Bài văn mẫu lớp 6: Phân tích tác phẩm Vượt thác, mong rằng sẽ hữu ích trong quá trình nghiên cứu về tác phẩm này.
Tổ chức dàn ý để phân tích tác phẩm Vượt thác
I. Khởi đầu
- Giới thiệu tổng quan về tác giả Đoàn Giỏi.
- Giới thiệu về văn bản “Vượt thác” (nguồn gốc, tóm tắt, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật…).
II. Nội dung chính
1. Đoàn thuyền trôi trên dòng sông êm đềm trước khi đến gần chân thác
- Hình ảnh của dòng sông:
- Cánh buồm nhỏ trên sông phơi phới, thuyền lướt trên sóng nhẹ nhàng như muốn ôm trọn nỗi nhớ về núi rừng.
- Những chiếc thuyền đầy cau, dây mây, dầu rái, và hàng mít, quế.
- Mỗi chiếc thuyền trôi đi êm đềm.
- Bức tranh hai bên bờ:
- Tại ngã ba sông, khắp nơi đều là những bãi dâu rợp bóng xanh mướt.
- Ngày càng lên đỉnh, vườn tược trở nên dày đặc.
- Dọc theo bờ sông, những cây thụ cổ kính đứng vững, ngẩn ngơ nhìn xuống dòng nước.
- Núi cao đầy mênh mông.
=> Thiên nhiên phong phú đa dạng, tràn đầy sức sống và vẻ đẹp cổ kính.
2. Đoạn sông với nhiều thác dữ
* Tình huống: thuyền đến Phường Rạnh, sẵn sàng vượt qua nhiều thác nước.
* Hình ảnh của nhân vật Hương Thư:
- Tướng mạo:
- Trần trụi.
- Giống như tượng đồng đúc.
- Cơ bắp rắn chắc.
- Hàm răng cắn chặt, quai hàm rộng ra, đôi mắt lửa lò.
- Hành động của nhân vật:
- Điều chỉnh cán sào.
- Thả sào xuống, kéo sào lên nhanh chóng như một nhát dao.
- Chắc chắn trên đầu sào như một chiến binh từ Trường Sơn, vững vàng, hùng mạnh.
=> Tươi đẹp, mạnh mẽ, gan dạ.
3. Sau khi vượt qua thác dữ
- Hành động của nhân vật: chú Hai vứt bỏ sào, ngồi xuống hít thở không ngừng.
- Tự nhiên:
- Dòng sông uốn khúc quanh co theo những dãy núi cao vững chãi.
- Trên sườn núi, những cây lớn mọc giữa những bụi cây rậm rạp, tỏa hương xa như những ông lão vùng lên và động viên đám con cháu bước đi về phía trước.
III. Kết luận
- Ý nghĩa: Bài văn mô tả cảnh vượt thác của con thuyền trên sông Thu Bồn, nhấn mạnh sự dũng cảm và sức mạnh của con người lao động giữa vẻ đẹp thiên nhiên hùng vĩ.
- Kỹ thuật nghệ thuật: dùng phép so sánh, nhân hóa, mô tả hành trình trên con thuyền vượt thác một cách tự nhiên, sống động, và giàu trí tưởng tượng.
Phân tích tác phẩm Vượt thác - Mẫu 1
“Vượt thác” được trích từ chương XI trong truyện “Quê nội” của Võ Quảng, một trong những tác phẩm thành công nhất của ông. Truyện này kể về cuộc sống ở làng quê ven sông Thu Bồn (làng Hoà Phước), tỉnh Quảng Nam vào những ngày sau Cách mạng tháng Tám 1945 và những năm đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Đoạn trích này nhấn mạnh vẻ mạnh mẽ và dũng cảm của con người lao động giữa cảnh thiên nhiên hùng vĩ.
Tác giả mô tả dòng sông Thu Bồn và cảnh hai bên bờ trong cuộc hành trình vượt thác của con thuyền do dượng Hương Thư chỉ huy, từ làng Hoà Phước lên thượng nguồn để lấy gỗ về xây trường học cho làng. Điều này nhấn mạnh vẻ mạnh mẽ và sức mạnh của con người lao động trên nền cảnh thiên nhiên tươi đẹp. Kỹ thuật mô tả cảnh vật, con người xuất phát từ quan điểm trên con thuyền theo hành trình vượt thác rất tự nhiên, sinh động. Câu chuyện được kể theo trình tự thời gian: con thuyền đi qua đoạn sông yên bình trước khi đến chân thác, chống dòng từ làng Hoà Phước, qua đoạn sông mênh mông ở vùng đồng bằng, rồi vượt qua đoạn sông có nhiều thác ở vùng núi, cuối cùng lên tới đoạn sông trôi chảy mạnh mẽ không còn thác nữa.
Bức tranh về thiên nhiên được mô tả trong bài văn này như một bức tranh sơn thuỷ hữu tình. Tác giả, đứng trên con thuyền, ngắm cảnh bầu trời và dòng sông, trong lòng nảy lên một cảm xúc mãnh liệt. Lời văn cuồn cuộn như con thuyền lướt trên sóng: “Cánh buồm nhỏ căng phồng. Thuyền rẽ sóng lướt bon bon như đang nhớ núi rừng phải lướt cho nhanh để về cho kịp”.
Dòng sông ở vùng đồng bằng trở nên yên bình, thơ mộng, thuyền đông đúc. Hai bên bờ là những bãi dâu trải ra bạt ngàn đến tận những làng xa xôi. Đó là một miền quê phong phú: “Thỉnh thoảng chúng tôi gặp những thuyền chất đầy cau tươi, dây mây, dầu rái, những thuyền chở mít, chở quế. Thuyền nào cũng xuôi chậm chậm. Càng về ngược, vườn tược càng um tùm...”.
Khi đi đến phần có nhiều thác ghềnh, cảnh vật hai bên bờ sông cũng đổi khác: “Những chòm cây thụ đứng trầm ngâm lặng nhìn xuống nước, rồi núi cao bất ngờ hiện ra như một bức tường đứng chắn ngang trước mắt”. Khi ở phần có nhiều thác dữ, tác giả mô tả hình ảnh dòng nước: “Nước từ trên cao đổ giữa hai vách đá dựng đứng chảy vẻn vẹn. Dòng nước dữ dội được tác giả miêu tả rất ấn tượng”.
Trong cảnh vật hoang dã và dữ dội đó, hình ảnh con người xuất hiện rất đẹp, rất mạnh mẽ. Sự khắc nghiệt được thể hiện qua cách miêu tả những hành động mạnh mẽ của dượng Hương Thư và mọi người khi thuyền vượt thác: “Dượng Hương Thư đứng sau bám lái, thả sào xuống nước nghe tiếng 'xoạc'! Thép chạm vào sỏi! Dượng Hương cố gắng giữ sào chắc chắn, lấy thế chống lại, giúp chú Hai và thằng Cù Lao thả sào xuống nước. Sào của dượng Hương uốn cong dưới sức nặng. Nước bắn văng, thuyền vùng vẫy, hầu như đổ xuống, cố chạy trở lại Hòa Phước”.
Điều đặc biệt trong kỹ thuật mô tả ở phần này là sự kết hợp giữa miêu tả thiên nhiên và hoạt động của con người khi thuyền đối mặt với dòng nước, vượt qua thác. Cảnh vật thiên nhiên xuất hiện rất tươi đẹp và phong phú. Trung tâm của bức tranh là hình ảnh con người, nổi bật là sự mạnh mẽ, dũng mãnh của dượng Hương Thư: “Những động tác thả sào, kéo sào nhanh như cắt. Thuyền cố vượt lên. Dượng Hương Thư như một pho tượng đồng đúc, gân cốt cuồn cuộn, hai hàm răng cắn chặt, quai hàm bạnh ra, cặp mắt nảy lửa, dùng sức mạnh để giữ sào chắc chắn giống như một hiệp sĩ của Trường Sơn hùng dũng”.
Nhân vật dượng Hương Thư được tác giả tập trung mô tả nổi bật trong cuộc vượt thác. Dượng Hương Thư vừa là người đứng mũi chịu sào can đảm vừa là người chỉ huy giàu kinh nghiệm. Tác giả tập trung mô tả các hành động, tư thế và ngoại hình của nhân vật này với nhiều hình ảnh so sánh vừa súc tích vừa sôi nổi. So sánh như một pho tượng đồng đúc thể hiện ngoại hình vững chắc, mạnh mẽ của nhân vật. Còn so sánh giống như một hiệp sĩ của Trường Sơn hùng vĩ lại thể hiện tính dũng cảm, tư thế hào hùng của con người trước thiên nhiên. Tác giả còn so sánh hình ảnh dượng Hương Thư khi vượt thác với hình ảnh của dượng khi ở nhà, nhấn mạnh vẻ đẹp, sức mạnh kiên cường của nhân vật.
Dòng sông vẫn uốn quanh giữa những ngọn núi cao nhưng đã ít nguy hiểm hơn và đột ngột mở ra một bãi cỏ rộng phẳng như mời gọi con người sau cuộc hành trình vượt thác thành công. Ở phần đầu, khi thuyền đã qua phần sông yên bình, sắp đến phần sông có nhiều ghềnh thác, thì cảnh vật hai bên bờ cũng thay đổi và những chòm cây thụ hiên ngang như để cảnh báo về một phần sông dữ hiểm, vừa như dặn dò con người tích cực sẵn sàng vượt thác. Trong khi ở phần cuối, hình ảnh những chòm cây thụ lại xuất hiện trên bờ khi thuyền đã vượt qua nhiều thác dữ, thì lại trở thành những điểm xanh giữa những bụi cỏ nom xa như những ông lão vung tay hò con cháu đi về phía trước. Sự so sánh làm nổi bật sự khác biệt trong vẻ đẹp của thiên nhiên và thể hiện được tâm trạng hồi hộp, phấn khích của con người sau khi vượt qua những thác ghềnh nguy hiểm, tiếp tục dẫn thuyền tiến về phía trước.
Bài văn miêu tả dòng sông Thu Bồn và phong cảnh hai bên bờ theo hành trình của con thuyền vượt qua các loại địa hình khác nhau, tập trung vào cảnh thác nước. Tác giả nhấn mạnh hình ảnh của con người lao động trên nền cảnh thiên nhiên hùng vĩ và thơ mộng của miền Trung.
Phân tích tác phẩm Vượt thác - Mẫu 2
Võ Quảng, sinh năm 1920, quê ở tỉnh Quảng Nam, là một nhà văn chuyên viết cho trẻ em. Bài “Vượt thác” được trích từ chương XI của truyện “Quê nội” (1974). Tên của bài viết do người biên soạn đặt. Truyện này mô tả cuộc sống ở một làng quê ven sông Thu Bồn (làng Hòa Phước), tỉnh Quảng Nam, miền Trung Trung Bộ vào thời kỳ sau Cách mạng tháng Tám 1945 và những năm đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Hai câu mở đầu xác định điểm cuối nguồn và bắt đầu về thượng nguồn của dòng sông, cũng là hai câu giới thiệu kinh nghiệm đầu tiên của nghề lái thuyền: “Thuyền đi ngược dòng nhờ gió, xuôi dòng nhờ nước”. Dượng Hương Thư - nhân vật chính trong đoạn văn này - có kinh nghiệm đó. Vì vậy, “gió nồm vừa thổi”, gió đông nam thổi từ biển vào đất liền khiến dượng nhổ sào, giương cánh buồm nhỏ: “Thuyền lướt sóng bon bon núi rừng để về cho kịp”. Sự so sánh bằng nhân hóa thể hiện thuyền và người nhớ về quê hương, đồng thời giới thiệu khoảng đường xa mà người và thuyền phải đi qua.
Các đoạn văn còn lại, Võ Quảng mô tả phong cảnh làng xóm hai bên bờ sông, cùng với dượng Hương Thư, chú Hai và thằng Cù Lao vượt thác. Đó là cảnh ngã ba sông với “những bãi đậu trải ra bạt ngàn đến tận những làng xa tít” là cảnh thường thấy với những chiếc thuyền theo dòng chở “đầy cau tươi, dây mây, dầu rái, những thuyền chở nút, chở quế”. Sự giới thiệu về giao thông thủy cũng như sản phẩm của miền núi Quảng Nam. Trái cây vườn như cau, mít, dây mây, dầu rái, quế là quà biếu của núi rừng. Đó là nguồn tài nguyên kinh tế. Sau đó, “những chòm cây thụ dáng mãnh liệt đứng trầm ngâm lặng nhìn xuống nước. Núi cao như đột ngột hiện ra chắn ngang trước mặt”. Sự nhân hóa khiến tâm trạng độc giả trở nên trầm lặng. Sự so sánh khiến độc giả ngỡ ngàng trước sự hùng vĩ của núi sông. Cả hai hình ảnh là dấu hiệu của tự nhiên báo trước phần sông khó khăn: “Thuyền chuẩn bị vượt nhiều thác nước”.
Các đoạn văn tiếp theo, Võ Quảng tập trung vào việc mô tả dượng Hương Thư và việc vượt qua thác Cổ Cò. Người viết mô tả ngọn thác này như sau: “Nước từ trên cao phóng giữa hai vách đá dựng đứng chảy đứt đuôi rắn”. Hình ảnh so sánh này biểu thị mức độ nguy hiểm của thác. Dòng nước “đứt đuôi rắn” cho thấy thác nước giữa hai vách đá dựng đứng đang chảy qua đá có mỏm nhô ra làm dòng nước gãy khúc.
Nguy hiểm ở khúc này đợi chờ người vượt thác, đặc biệt là dượng Hương Thư “như một pho tượng đúc, các bắp thịt cuồn cuộn”. So sánh này làm nổi bật sức mạnh của người đã sống cùng sông nước, nắng gió. Trong tính cách, “dượng Hương Thư ở nhà, nói năng nhỏ nhẹ, tính nết nhu mì, ai gọi cũng vâng vâng dạ dạ”. Nhưng khi vượt thác thì hoàn toàn khác. Trước hết, dượng là người nhận ra mức độ nguy hiểm khi vượt thác. Vì vậy, mọi kinh nghiệm đều được dượng đưa ra. Từ việc chuẩn bị bữa cơm trước khi vượt thác để chắc bụng. Chỉ khi đã chuẩn bị như thế mới có thể “có khi suốt buổi phải chống liền tay không phút hở”. Đó là cách tối ưu để bảo vệ mạng sống và tài sản trên thuyền. Rồi cuộc vượt thác bắt đầu. Hình ảnh sống động của dượng Hương Thư, chú Hai và thằng Cù Lao được mô tả trong văn. “Dượng Hương Thư đánh trần đứng sau lái có người phóng chiếc sào xuống lòng sông nghe một tiếng xoạc”. Tiếp theo là hình ảnh của sức mạnh cơ thể của dượng tập trung vào việc “ghì chặt trên đầu sào” để thuyền không bị dòng nước đẩy lui, giúp chú Hai và thằng Cù Lao đẩy sào xuống thuyền tiến về phía trước. Nhưng chiếc sào lại “bị cong”, còn chiếc thuyền thì “vùng vằng cứ chực tụt xuống”. Khuôn mặt, đôi mắt của dượng Hương Thư biến dạng khi “hai hàm răng cắn chặt, quai hàm bạnh ra, cặp mắt nảy lửa ghì trên ngọn sào giống như một hiệp sĩ của Trường Sơn oai linh hùng vĩ”.
Cuộc chiến giữa con người và thác không chỉ là một cuộc chạm trán ngắn. Mô tả về việc phóng sào, răng cắn chặt, quai hàm bạnh ra... cũng được lặp lại nhiều lần. Mỗi lần thuyền di chuyển một khoảng ngắn là mỗi lần cần phải dồn hết sức mạnh như vậy và dượng Hương Thư thật xứng đáng là “một hiệp sĩ” trước sự mạnh mẽ và oai vệ của thiên nhiên như rặng Trường Sơn. Cả ba người, đặc biệt là dượng Hương Thư, đã phải đấu tranh dũng cảm, dai dẳng như vậy, “thả sào, rút sào rập ràng nhanh như cắt” để “đến tối, thuyền đã vượt qua thác Cổ Cò”. Khi đó đã vượt qua phần nguy hiểm, con người tiến về phía trước, tiến đến mục tiêu. Đoạn văn mang hơi thở của người vượt thác, bây giờ “dòng sông cứ chảy quanh co”. Núi cao vẫn trở nên đầy uy nghi nhưng dòng sông đã trở nên hiền hòa. “Dọc sườn núi, những cây to mọc giữa những bụi lúp xúp nom xa như những cụ già vung tay hô đám con cháu tiến về phía trước”, một so sánh nhân hóa để tôn vinh những cây đa cây đề sông núi như những bóng dáng của các thế hệ trước đây đã hỗ trợ chí khí cho thế hệ đời sau vượt qua mọi khó khăn trong cuộc sống và trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Nhịp văn, từ ngôn từ trong đoạn kết bài dịu lại như chú Hai thở không ra hơi trở lại trạng thái thoải mái và cũng như dòng sông chảy “qua nhiều lớp núi, đồng ruộng lại mở ra”.
Nghệ thuật nhân hóa và so sánh đã làm tăng tính hấp dẫn và ý nghĩa của chuyến vượt thác. Người đọc cảm nhận rằng sau những dòng văn mô tả không chỉ có vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên, ý chí vượt qua khó khăn của con người mà còn có sự tặng phẩm của núi rừng Trường Sơn cho những con người đã cùng nhau sống.
Phân tích tác phẩm Vượt thác - Mẫu 3
Trích từ chương XI của truyện dài “Quê nội” của Võ Quảng, văn bản “Vượt thác” đã mô tả đời sống thiên nhiên và con người ở đây với những đặc điểm đẹp đẽ.
Sông Thu Bồn ở Quảng Nam được nhắc đến. Sau khi cách mạng tháng Tám thành công, dân làng Hòa Phước quyết định xây trường học cho trẻ em. Dượng Hương Thư là người được giao nhiệm vụ đi Dùi Chiêng mua gỗ để xây trường. Trong đoàn có 4 người: Dượng Hương Thư, chú Hai Quân và hai thanh niên Cù Lao và Cục. Cảnh vượt thác Cổ Cò được miêu tả qua cảm xúc của Cục, là một trải nghiệm mới mẻ và thú vị.
Bắt đầu bằng cảnh thuyền trưởng Hương 'nhổ sào' khi 'gió nồm vừa thổi', hình ảnh cánh buồm căng phồng đẹp đẽ và tràn đầy khí thế. Con thuyền, nhân hóa, 'rẽ sóng lướt bon bon' với tâm trạng háo hức của Cục trong chuyến đi này.
Thuyền chạy ngược dòng, cảnh sắc thiên nhiên hiện ra liên tiếp. 'Ngã ba sông' bao quanh là những bãi dâu, làng quê trù phú nuôi tằm, trồng dâu, dệt lụa, gợi lên sự ấm áp và bình yên. Tâm hồn mỗi người lặng lẽ liên tưởng tới những miền quê tươi đẹp.
'Tới ngã ba sông, nước bốn phía, nửa chiều gà kêu bên đê. Làng xa nằm im sau hàng tre trúc, bến cũ chờ thuyền em ghé về...'
Gợi mở sự liên tưởng là một đặc điểm quý giá trong văn xuôi của Võ Quảng, từ đó, sự thơ mộng bắt nguồn từ cảnh vật và tâm trạng hiện hữu. Bé Cục thấy thú vị với vẻ đẹp của cảnh sông rộng lớn. Có những chiếc thuyền trôi 'chứa đầy quả cam tươi, dây mây, dầu rái'. Có cả thuyền 'đầy mít, đầy quế'. Sông Thu Bồn là nguồn sống, là máu thịt của đất Quảng. Do mang nặng lâm thổ sản, nên 'mọi chiếc thuyền đều đi chậm rãi'. Cuộc sống ấm no, vùng rừng rộng lớn... Ngược dòng sông, cảnh sắc thiên nhiên tràn đầy sức sống, trở nên thơ mộng và gần gũi. Vườn trầu um tùm, những cây cổ thụ đứng im như đang ngắm nhìn dòng nước. Cổ thụ được nhân hóa để diễn tả vẻ đẹp hoành tráng, uy nghiêm của vùng rừng sâu thẳm, thần bí. Gần 200 năm trước, một nhà thơ tài ba đã viết:
“Xanh om cổ thụ tròn xoe tán,
Trắng xóa tràng giang phẳng lặng lờ”
(Bà Huyện Thanh Quan)
Gần đến chân thác rồi, lòng sông như co lại, tầm nhìn của những người đi thuyền dần thu hẹp lại. 'Núi cao như bất ngờ hiện ra, che khuất trước mặt'. Đó là lúc dượng Hương, chú Hai Quân, bé Cù Lao, bé Cục đã đưa con thuyền lên dòng sông Thu Bồn đến Phường Rạnh. Mọi người, đặc biệt là bé Cục, đã có cơ hội trải nghiệm và thưởng ngoạn những cảnh đẹp của quê hương.
Tiếp theo là cảnh vượt thác Cổ Cò. Cuộc vượt thác thực sự là một cuộc chiến đấu căng thẳng và dữ dội. Dượng Hương Thư, với nhiều kinh nghiệm vượt thác, đã chuẩn bị kỹ càng. Dòng thác đáng sợ: 'Nước từ trên cao phóng về giữa hai vách đá dựng đứng chảy xiết như rắn.' 'Chảy xiết như rắn' là cách diễn đạt của người dân để miêu tả dòng thác phun ra từ trên cao, nước chảy mạnh mẽ và xiết lại như xoắn lại, như đập tung ra. Dượng Hương Thư đã thể hiện vẻ đẹp oai nghiêm, mạnh mẽ khi chỉ huy cuộc vượt thác. Con thuyền được nhân hóa để tả cảnh vượt thác gian nan, vất vả, ba thủy thủ chèo rất khéo léo, phối hợp nhịp nhàng: 'Những động tác thả sào, rút sào rất nhanh nhẹn như cắt.' 'Nhanh nhẹn như cắt' là cụm từ miêu tả sự nhanh nhẹn, mạnh mẽ, sắc bén; những cây sào lao xuống, phóng lên, rút lên liên tục rất nhanh chóng và quyết liệt. Dượng Hương Thư được mô tả thông qua hàng loạt chi tiết như những nét khắc sắc nét: Bắp thịt 'cuồn cuộn', hàm răng 'cắn chặt', quai hàm 'bạnh ra', cặp mắt 'nảy lửa',... Hình ảnh một thuyền trưởng dũng mãnh, quyết đoán và tài ba, không sợ khó khăn, đã chiếm lĩnh cuộc sống và thiên nhiên. Trong đời thường, dượng Hương hiền lành, khiêm tốn: 'nói nhỏ, tính nhẹ nhàng, ai nói cũng vâng lời'. Cảnh vượt thác đã thêm một chiều sâu về tính cách của dượng. Tác giả 'Quê nội' đã dùng hai hình ảnh so sánh tài năng: “Dượng Hương Thư như một pho tượng đồng đúc”, 'như một hiệp sĩ của Trường Sơn oai linh hùng vĩ' để tôn vinh vẻ đẹp của một con người chân chính trong công việc. Và đó cũng là suy nghĩ, lòng kính trọng và sự ngưỡng mộ của bé Cục đối với Dượng Hương Thư, người thân thiết của mình. Trong 'Quê nội', nhà văn Võ Quảng hai lần mô tả cảnh vượt thác, cả hai đều ấn tượng. Sau hơn nửa thế kỷ, đọc trang văn của Võ Quảng, cảm thấy mình đang cùng Cù Lao và Cục ngược sông Thu Bồn, vượt thác, thăm thú sông núi đại ngàn xứ Quảng. Ta thấy, tác giả sống hồn nhiên, sống hết mình với tuổi thơ, với trang văn của mình.
Sau khi vượt qua thác Cổ Cò, bóng tối đã buông xuống. Một ngày vất vả vượt thác dần trôi qua. Chú Hai 'vứt sào, ngồi xuống thở không ra hơi'. Sông Thu Bồn ở vùng Trung Phước 'quanh co dọc những ngọn núi cao đứng vững'. Sông dường như thu hẹp lại. Nước sông cuồn cuộn, không chảy băng băng mà 'quanh co', như đang nhảy múa. Một lần nữa, tác giả mô tả về cổ thụ bằng một so sánh - liên tưởng thú vị: 'Dọc sườn núi, những cây to mọc giữa những bụi lúp xúp xa xa như những cụ già vung tay gọi đám con cháu tiến lên phía trước'. Rừng xanh như đang mời gọi. Chốn đại ngàn với những ngọn núi cao, thác nguy hiểm không còn màu sắc huyền bí mà trở nên thân quen, gắn bó với con người địa phương. Sau khi vượt qua thác Cổ Cò, đến Trung Phước, khung cảnh lại mở ra, trải dài rộng lớn. Câu văn nhẹ nhàng: 'Qua nhiều lớp núi, đồng ruộng lại hiện ra'... phải dừng lại để nghỉ ngơi: 'Đã đến Trung Phước'. Câu văn rút gọn nhưng đầy gợi cảm. Đoàn người tạm dừng chân trên đường đi lấy gỗ.
Đọc trang văn 'Vượt thác' như đang cùng Cù Lao và Cục vượt thác trên sông Thu Bồn hơn nửa thế kỷ trước.
Phân tích tác phẩm Vượt thác - Mẫu 4
Tác phẩm “Vượt thác” của nhà văn Võ Quảng đã miêu tả cảnh sắc thiên nhiên và con người Việt Nam. Bằng bút pháp nghệ thuật tả cảnh, tả người của tác giả làm cho bài văn trở nên sống động hơn với vẻ đẹp hùng vĩ, vẻ đẹp anh dũng của người lao động trên sông Thu Bồn.
Vượt thác là một bức tranh thiên nhiên hùng vĩ trên dòng sông Thu Bồn. Ở đó, ta thấy “những bãi dâu bạt ngàn đến tận những làng xa tít”. Khung cảnh như mở ra một nơi đầy sôi động, với thuyền bè qua lại, chở hàng dầu, giây, quế. Tất cả hòa quyện vào một cuộc sống sôi động ở nơi này. Dọc bờ sông 'những chòm cổ thụ dáng mãnh liệt đứng trầm ngâm lặng nhìn xuống nước'. Mỗi chòm cổ thụ ở đoạn đầu và cuối đều mang một ý nghĩa riêng. Ở đoạn đầu, nó như là dấu hiệu của những khó khăn, thử thách đang chờ đợi con người. Thuyền phải vượt qua nhiều thác nguy hiểm. Nước ngày càng phồng lên, chảy giữa hai vách đá đứng. Dượng Hương cùng thuyền vẫn vùng vằng, vẫn chiến đấu. Và cuối cùng, đến chiều tối, con thuyền cũng vượt qua thác Cổ Cò. Ở những dòng cuối cùng này, ta lại thấy 'dọc sườn núi, những cây to mọc giữa những bụi lúp xúp xa xa như những cụ già vung tay gọi đám con cháu tiến về phía trước' cảnh vật như hòa mình vào niềm vui chung với con người, chiếc thuyền đã vượt qua thác, con người đã chiến thắng thiên nhiên.
Trong tác phẩm 'Vượt Thác', tác giả không chỉ mô tả cảnh thiên nhiên hùng vĩ tươi đẹp mà còn vẽ nên hình ảnh tươi đẹp của con người, sức mạnh to lớn chiến thắng mọi thử thách. Dượng Hương Thư như một anh hùng xuất hiện từ dòng chữ của nhà văn.
Trước khi vượt qua thác dữ, dượng Hương đã chuẩn bị cơm để có đủ sức khỏe chèo thuyền. 'Dượng Hương Thư đánh trần đứng sau lái có người phóng sào xuống lòng sông nghe một tiếng 'xoạc'! Thép đã cắm vào sỏi! Dượng Hương ghì chặt trên đầu sào, lấy lại thế trợ giúp chú hai và thằng Cù Lao phóng sào xuống nước. Chiếc sào của dượng Hương dưới sức chống nó cong lại. Nước bị cản văng bọt tứ tung, thuyền vùng vằng cứ chực trụt xuống quay đầu quay về lại Hòa Phước'. Hình ảnh dượng Hương vượt qua cơn lũ nhanh như cắt rõ ràng và nhanh nhẹn. 'Dượng Hương Thư như một pho tượng đồng đúc, các bắp thịt cuồn cuộn, hai hàm răng cắn chặt, quai hàm bạnh ra, cặp mắt nảy lửa ghì trên ngọn sào giống như một hiệp sĩ của Trường Sơn oai linh hùng vĩ.' Dượng Hương Thư hoàn toàn khác biệt trong cơn thác lũ, từ một người hiền lành trở thành một anh hùng dũng cảm, gan dạ. Tác giả vẽ nên một hình ảnh hoàn mỹ của người lao động có thể vượt qua mọi khó khăn.
Đọc xong tác phẩm 'Vượt thác' của Võ Quảng, ta thấy cảnh vượt thác của con thuyền trên sông Thu Bồn, làm nổi bật vẻ đẹp hùng dũng và sức mạnh của con người lao động trên nền cảnh thiên nhiên rộng lớn, hùng vĩ. Với nghệ thuật đặc sắc, nhà văn đã mô tả cảnh, tả người từ góc nhìn trên con thuyền theo hành trình vượt thác rất tự nhiên và sinh động.
Phân tích tác phẩm Vượt thác - Mẫu 5
Bài văn “Vượt thác” trong chương XI của truyện 'Quê nội' đã miêu tả cảnh vượt thác của con thuyền trên sông Thu Bồn. Đồng thời, Võ Quảng đã làm nổi bật vẻ hùng dũng và sức mạnh của con người lao động trên nền cảnh thiên nhiên rộng lớn, hùng vĩ qua nhân vật dượng Hương Thư.
Cuộc hành trình vượt thác được mô tả theo trình tự thời gian. Con thuyền đi qua các đoạn sông khác nhau, từ sông phẳng lặng đến sông có nhiều thác ghềnh, rồi lên tới khúc sông phẳng lặng không có thác dữ. Trên con thuyền, người ta cảm nhận một cảm xúc mãnh liệt khi nhìn ngắm bầu trời và dòng sông. Cảnh vật xung quanh phản ánh cuộc sống sôi động và trù phú của miền quê. Đặc biệt, việc vượt qua những đoạn sông có nhiều thác dữ được mô tả ấn tượng. Hình ảnh này thể hiện sức mạnh và sự cứng cỏi của con người khi đối mặt với thiên nhiên.
Trong bức tranh thiên nhiên đó, nhân vật dượng Hương Thư tỏ ra rất xuất sắc. Dượng Hương Thư khi vượt thác khác biệt hoàn toàn so với khi ở nhà. Anh ta chuẩn bị kỹ lưỡng trước khi ra khơi và thể hiện sức mạnh, quyết tâm khi vượt qua những khó khăn trên sông. Tác giả đã tạo ra hình ảnh mạnh mẽ của dượng Hương Thư, nhấn mạnh vào sự rắn chắc và dũng mãnh của anh ta.
Phân tích đoạn trích đã mô tả cảnh vượt thác của con thuyền trên sông Thu Bồn, với sự nhấn mạnh vào vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên và sức mạnh của con người lao động. Cảnh này thể hiện sự kiên cường và quyết tâm của con người khi đối mặt với thử thách.