Bài thơ Phò giá về kinh (Tụng giá hoàn kinh sư) của Trần Quang Khải được giới thiệu trong chương trình Ngữ văn lớp 7, nhằm thể hiện ý chí quyết chiến và khát vọng hòa bình thịnh vượng của dân tộc Việt Nam thời nhà Trần.

Mytour giới thiệu Bài văn mẫu lớp 7: Phân tích chi tiết bài thơ Phò giá về kinh, mời các bạn học sinh cùng xem nội dung chi tiết dưới đây.
Dàn ý phân tích bài thơ Phò giá về kinh
I. Mở đầu
- Giới thiệu về tác giả Trần Quang Khải (những nét chính về cuộc đời, đặc điểm sáng tác…)
- Giới thiệu về bài thơ “Phò giá về kinh” (hoàn cảnh ra đời, tóm tắt giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật…)
II. Nội dung chính
1. Sức mạnh chiến đấu kiên cường của dân tộc Việt Nam
- Hai câu đầu nhắc đến sự chiến thắng của quân đội và nhân dân Việt Nam, với vai trò quan trọng của tác giả là người chỉ huy.
- Sử dụng động từ “đoạt, cầm” kết hợp với các địa danh “Chương Dương”, “Hồ Hàm Tử” để làm nổi bật sự hào hùng và không khí chiến thắng tại Chương Dương và Hàm Tử.
- Đây đều là những trận chiến gây ảnh hưởng lớn.
=> Không chỉ tôn vinh chiến công của quân dân Việt Nam mà còn thể hiện lòng tự hào dân tộc.
2. Khao khát thời bình thịnh vượng của dân tộc Việt Nam
- Câu thơ 3: Thái bình cần nỗ lực và sự cố gắng. Sau khi đánh bại quân thù, đất nước giành được độc lập và bước vào thời kỳ hòa bình, cần phải xây dựng và phát triển đất nước.
- Câu thứ 4: Vạn năm vững bền như non nước. Khẳng định sự tồn tại bất diệt của đất nước qua hàng ngàn thế hệ.
=> Đây không chỉ là ước nguyện của tác giả mà còn là mong ước của cả một quốc gia, của toàn dân tộc.
III. Tổng kết
- Khẳng định lại giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ Phò giá về kinh.
- Cảm nhận về bài thơ Phò giá về kinh của Trần Quang Khải.
Phân tích bài thơ Phò giá về kinh - Mẫu số 1
Trần Quang Khải không chỉ là một vị tướng tài ba mà còn là một nhà văn tài năng. Trong những tác phẩm của ông, bài thơ “Phò giá về kinh” đã tôn vinh lòng hào khí của Đông Á trong một thời điểm lịch sử:
“Đoạt sáo Chương Dương độ,
Cầm Hồ Hàm Tử quan.
Thái bình tu nỗ lực,
Vạn cổ thử giang san”
Bài thơ được viết khi Trần Quang Khải đón Thái thượng hoàng Trần Thái Tông và vua Trần Nhân Tông về Thăng Long ( Hà Nội (nay là Hà Nội) ngay sau khi đánh bại Chương Dương, Hàm Tử và giải phóng kinh đô năm 1285.
Hai câu đầu của bài thơ tôn vinh chiến thắng vĩ đại của quân đội nhà Trần. Tác giả sử dụng hai động từ mạnh mẽ “đoạt” và “cầm” để miêu tả chiến thắng quyết liệt của quân dân nhà Trần trong hai trận đánh ở Chương Dương và Hàm Tử. Cách liệt kê hai địa danh này giúp ý thơ trở nên cụ thể, sâu sắc hơn. Việc dịch thơ cũng không khác so với bản gốc:
“Chương Dương chiếm ưu thế, đánh bại kẻ thù
Hàm Tử bắt giữ quân địch”
(Chương Dương chiếm ưu thế, đánh bại kẻ thù
Hàm Tử bắt giữ quân địch)
Tác giả đã tuyên bố chiến thắng của quân đội nhà Trần bằng một giọng điệu hào hứng, sôi động. Đó là nhờ vào sức mạnh vô địch của tinh thần đoàn kết và lòng yêu nước mãnh liệt của tướng sĩ trong cuộc chiến đấu kiên cường. Bài thơ vang lên như một khúc ca vinh quang cho ngày chiến thắng trở về.
Đến hai câu thơ tiếp theo, ý thơ có sự thay đổi. Tác giả đã thể hiện khát vọng thái bình thịnh vượng của bản thân và của toàn dân tộc:
“Thái bình cần nỗ lực, cố gắng hết mình
Vạn năm vẫn vững bền như núi non”
(Thái bình cần cố gắng,
Đất nước vững bền như núi non)
Mong muốn một cuộc sống yên bình, nhân dân được ấm no và hạnh phúc. Đất nước ngày càng mạnh mẽ, ấm no, tồn tại suốt hàng ngàn năm. Giọng thơ lúc này không còn sôi nổi, dồn dập mà chứa đựng nhiều tâm tư, khát vọng. Đó cũng là lời gửi gắm tràn đầy niềm tin và hi vọng vào tương lai đất nước giàu đẹp, phát triển. Đó là tầm nhìn xa rộng lớn của một con người vượt trội.
Bài thơ vang lên như làn sóng sông núi, mang vẻ đẹp lớn lao. Phò giá về kinh thực sự là bản nhạc chốn vinh quang của ngày chiến thắng trở về.
Phân tích bài thơ Phò giá về kinh - Mẫu 2
Trần Quang Khải (1241 - 1294) là con thứ ba của vua Trần Thánh Tông. Ông được vinh danh là thượng tướng vì đã có công rất lớn trong hai cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông (1284 - 1287) và là một trong những anh hùng đã dẫn đầu chiến công Chương Dương, Hàm Tử vang dội qua hàng thế kỷ. Trần Quang Khải không chỉ là một tướng võ xuất sắc mà còn là một thi sĩ tài hoa.
Bài thơ “Phò giá về kinh” (Tụng giá hoàn kinh sư) được viết trong bối cảnh thượng tướng và đoàn tùy tùng đi đón hai vị vua Trần (vua cha Trần Thánh Tông và vua con Trần Nhân Tông) về Thăng Long sau khi kinh đô được giải phóng. Dù bài thơ ngắn gọn, nhưng đã thể hiện rõ nét hào khí chiến thắng và khát vọng vĩ đại của dân tộc ta trong thời đại nhà Trần. Tác giả đã ghi lại hai chiến công nổi bật của quân và dân Đại Việt vào xuân - hè năm Ất Dậu 1285.
“Đoạt sông Chương Dương chiếm đoạt,
Bắt quân thù tại Hồ Hàm Tử”
(Chương Dương cướp giáo giặc
Hàm Tử bắt quân thù)
Chương Dương là một bến sông nằm ở bờ hữu ngạn của sông Hồng, thuộc huyện Thường Tín, tỉnh Hà Đông (cũ), nay là Hà Nội. Chiến thắng tại Chương Dương diễn ra vào tháng 6 năm Ất Dậu (1285) do Trần Quang Khải trực tiếp chỉ huy. Hàm Tử là một địa danh ở bờ đông của sông Hồng, thuộc huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên. Chiến thắng tại Hàm Tử vào tháng 4 cùng năm do tướng Trần Nhật Duật lãnh đạo cùng với sự hỗ trợ quan trọng từ Trần Quang Khải.
Đây là những trận chiến dữ dội trên sông Hồng. Trận Hàm Tử diễn ra vào tháng 4, tướng Trần Nhật Duật đã tiêu diệt Toa Đô. Hai tháng sau, Trần Quang Khải đã đánh bại giặc Nguyên - Mông tại Chương Dương. Hàng vạn lính xâm lược đã bị tiêu diệt hoặc bị bắt làm tù binh. Quân ta thu được nhiều chiến thuyền, vũ khí và lương thực của địch.
Cụm từ “Đoạt sáo” (cướp giáo) và “Cầm Hồ” (bắt giặc) được đặt ở đầu mỗi câu thơ như những điểm nhấn trong khúc ca chiến thắng. Thể hiện giọng thơ sảng khoái, hào hùng, phản ánh tinh thần bừng bừng của dân tộc ta thời kỳ đó. Từ vua quan, tướng sĩ đến dân chúng đều hân hoan, sung sướng, tự hào.
Hai câu thơ ngũ ngôn tứ tuyệt với nhịp thơ nhanh, gấp và các động từ biểu thị hành động mạnh mẽ, quyết đoán (đoạt: cướp lấy; cầm: bắt) thể hiện nhịp độ dồn dập, sôi động, quyết liệt của chiến trường. Tác giả không nói nhiều về những chiến công nhưng vẫn truyền tải được niềm phấn khởi, kiêu hãnh vô bờ bến từ âm điệu của bài thơ.
Mùa hè năm Ất Dậu là mốc son trọng đại trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc. Hiện thực sôi động đã truyền cảm hứng vào những vần thơ hùng tráng khiến bài thơ mang đậm phong vị anh hùng ca. Nhà thơ đã sử dụng thủ pháp liệt kê và đối chiếu để nổi bật hai sự kiện lịch sử mang tầm chiến lược. Chiến thắng Chương Dương diễn ra sau nhưng lại được nói đến trước vì nhà thơ đang sống trong không khí hào hùng của chiến thắng Chương Dương vừa qua. Kế đó, nhà thơ tái hiện không khí sôi động của chiến thắng Hàm Tử trước đó chưa lâu.
Hai chiến công Chương Dương độ và Hàm Tử quan đã làm thay đổi cục diện thế trận của quân ta. Từ việc rút lui theo chiến lược, quân ta đã tiến lên phản công như một cơn bão. Chỉ trong một khoảnh khắc, 50 vạn quân Nguyên dưới sự chỉ huy của tướng Thoát Hoan đã ồ ạt sang xâm lược nước ta. Kinh thành Thăng Long chìm trong khói lửa ngút trời. Hai mũi tấn công của giặc từ Nam Quan đánh xuống, từ Chiêm Thành đánh ra, kẹp lại như hai gọng kìm sắt. Tình hình lúc đó như 'chỉ mành treo chuông' nhưng với tài thao lược của các vị danh tướng, quân ta đã dùng bình đánh trường, dùng yếu đánh mạnh. Với chiến thắng Chương Dương và Hàm Tử, quân ta đã đem sấm sét xuống đầu lũ giặc phương Bắc hùng hổ, ngạo mạn. Kinh thành Thăng Long đã được giải phóng. Quân xâm lược đã bị quét sạch khỏi biên cương nước ta.
Trần Quang Khải là nhà thơ đầu tiên đã đưa địa danh sông núi Đại Việt thân thương vào thơ ca. Hai tên Chương Dương và Hàm Tử đã ghi dấu trong lịch sử chống ngoại xâm, trong lịch sử văn chương như những điểm son sáng rực. Chỉ có người trong cuộc, thương yêu non sông bội thu của quê hương, Trần Quang Khải mới sáng tác được những câu thơ hùng tráng như vậy! Hai câu thơ sau:
“Thái bình cần nỗ lực,
Vạn năm thử thách đều phải vượt qua.
(Thái bình nên gắng sức,
Non nước ấy ngàn thu)
Đây là lời động viên của một vị thượng tướng, kêu gọi mọi người hãy bắt tay vào công cuộc xây dựng, phát triển đất nước trong hòa bình và tin tưởng vào sự bền vững của Tổ quốc. Danh tướng Trần Quang Khải vừa từ chiến trường trở về, áo bào còn vương khói súng, chưa kịp nghỉ ngơi đã lo ngay đến nhiệm vụ trước mắt cũng như chiến lược dài hạn cho quốc gia, dân tộc. Ông nhấn mạnh rằng, trong thời bình, mọi người cần dốc hết sức lực để xây dựng non sông. Đất nước mạnh mẽ, dân giàu mới có thể đánh bại được tham vọng của giặc ngoại xâm, bảo vệ chủ quyền độc lập lâu dài. Điều đó chứng tỏ Trần Quang Khải không chỉ là một chiến tướng xuất sắc mà còn là một nhà chính trị có tầm nhìn và trách nhiệm với dân, với đất nước.
Ngôn ngữ của bài thơ Phò giá về kinh rất đơn giản nhưng ý tưởng bên trong rất lớn lao. Khi Tổ quốc đứng trước nguy cơ xâm lăng, vua chúng ta đồng lòng, anh em hòa thuận, cả nước đều đóng góp sức lực (Trần Quốc Tuấn). Trong thời bình, từ vua đến quan lại, từ tướng sĩ đến dân chúng, ai cũng cần tu dưỡng tri thức để đất nước Đại Việt tồn tại. Câu thơ chứa đựng một tư tưởng vĩ đại, thể hiện tầm nhìn sáng suốt của Trần Quang Khải.
Dù bài thơ được sáng tác gần 800 năm trước nhưng ý nghĩa của nó vẫn còn nguyên vẹn. Bài học từ bài thơ là nếu chúng ta không chú trọng xây dựng đất nước mạnh mẽ, dân tộc thông minh thì làm sao chống lại được âm mưu xâm lược, sự đồng nhất của các thế lực ngoại bang đang đe dọa đất nước?!
Tương tự như bài Sông núi nước Nam, bài thơ Phò giá về kinh cũng thể hiện tình yêu đất nước một cách giản dị, tự nhiên nhưng rất mạnh mẽ và hào hùng. Cả hai bài thơ đều phản ánh sức mạnh và sự kiêu hùng của dân tộc. Một bài cao cao tôn vinh chủ quyền độc lập, khẳng định rằng nước Nam là của vua Nam, không ai được phép xâm phạm, và nếu có sẽ gánh chịu hậu quả tai hoạ. Một bài thể hiện lòng hào hùng và khát vọng xây dựng, phát triển đất nước trong hòa bình với niềm tin rằng Tổ quốc sẽ vững vàng bền lâu.
Bài Phò giá về kinh của Trần Quang Khải là một tác phẩm xuất sắc trong văn thơ cổ. Ý thơ sâu sắc, tinh tế; ngôn ngữ thơ đơn giản, lôi cuốn. Bài thơ này thể hiện niềm tự hào về chiến thắng của dân tộc và tái hiện lại những năm tháng hào hùng đánh đuổi quân xâm lược Nguyên - Mông. Đồng thời, nó nhắc nhở mỗi người Việt Nam cần nâng cao ý thức trách nhiệm công dân để bảo vệ và phát triển đất nước trong hòa bình, giàu đẹp, bền vững muôn đời.
Phân tích bài thơ Phò giá về kinh - Mẫu 3
Trần Quang Khải (1241-1294) là một vị tướng kiệt xuất của triều đại nhà Trần, ông đã có nhiều đóng góp quan trọng trong cuộc kháng chiến chống lại quân Mông – Nguyên, đặc biệt là ở hai trận Hàm Tử và Chương Dương. Không chỉ vậy, ông còn là một nhà thơ nổi tiếng với nhiều tác phẩm có giá trị, trong đó bài thơ “Phò giá về kinh” nổi bật. Đây là một tác phẩm thể hiện tinh thần yêu nước của thời đại nhà Trần, với sự hào khí về chiến thắng và khát vọng về một đất nước thịnh vượng, hòa bình.
Sau khi chiến thắng Chương Dương và Hàm Tử, kinh đô Thăng Long được giải phóng, Trần Quang Khải đã đi đón Thái thượng hoàng Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông trở về kinh đô. Bài thơ “Phò giá về kinh” được sáng tác trong bầu không khí chiến thắng hào hùng đó, nổi lên như một bản ca anh hùng của dân tộc. Hai câu thơ đầu tiên nhắc lại hai trận chiến hào hùng của dân tộc với âm vang tự hào:
“Vượt qua Chương Dương, bắt giữ Hàm Tử quan”
Chương Dương và Hàm Tử là hai địa danh nổi tiếng liên quan đến hai trận đánh lịch sử của dân tộc được tác giả nhắc đến một cách trực tiếp trong câu thơ. Đối với quân dân nhà Trần, chỉ cần nhắc đến hai chiến công quyết định này cũng đủ để tạo nên cảm giác tự hào và ca ngợi. Tác giả không mô tả chi tiết trận đánh, chỉ đơn giản là liệt kê nhưng vẫn gợi lên được bầu không khí của trận chiến với tính chất gay go, căng thẳng.
Đặc biệt để nói về chiến thắng, nhà thơ chỉ sử dụng hai cụm động từ “vượt qua, bắt giữ” với sức mạnh gợi lên khẳng định quân ta luôn trong thế chủ động, tự tin và chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược dù là ai. Trong phần dịch nghĩa, tác giả sử dụng từ “cướp” để dịch thoát nghĩa cho từ “đoạt” trong phiên âm, tuy nhiên nó đã làm mất đi sắc thái ý nghĩa của hành động. Với giọng điệu hào hùng, sôi nổi kể lại những chiến công oanh liệt, hào hùng cùng của dân tộc cùng hào khí chiến đấu, chiến thắng vẻ vang của quân và dân nhà Trần, hai câu thơ đầu đã thể hiện niềm vui sướng, hạnh phúc và tự hào của nhà thơ, đồng thời là sự biểu hiện cụ thể của tình yêu đất nước.
Không nghỉ ngơi sau chiến thắng, càng sung sướng, tự hào về chiến công bấy nhiêu thì quân và dân nhà Trần càng quyết tâm để giữ gìn sự hòa bình, thịnh vượng của dân tộc bấy nhiêu. Với giọng điệu dứt khoát, đầy tự tin Trần Quang Khải đã lên tiếng để nói về khát vọng đó.
“Thái bình tu trí lực,
Vạn cổ thử giang san.”
Đối với hai câu thơ này, giọng điệu trở nên trầm lắng, niềm vui, hân hoan, hạnh phúc dường như tạm lắng lại, thay vào đó là những phút suy tư sâu sắc về tình hình đất nước. Triều đại vừa trải qua những biến cố bất ngờ do cuộc xâm lược của kẻ thù, đất nước còn nhiều vấn đề bộn bề lo toan, làm người chính trị gia, Trần Quang Khải không thể không suy nghĩ, lo lắng cho đất nước. Trong câu thơ, tác giả đã nhấn mạnh rằng sau thời gian hòa bình, cần phải nỗ lực xây dựng để đất nước thịnh vượng vĩnh viễn. Câu thơ cho thấy tầm nhìn rộng lớn của một người chính trị gia tài ba. Đây là lời hứa quyết tâm và kêu gọi mọi người cùng chung tay góp sức xây dựng đất nước, đồng thời là lời nhắc nhở con cháu về trách nhiệm và nghĩa vụ của mình đối với đất nước, dân tộc. Hai câu thơ khiến chúng ta trân trọng, kính phục và cảm động trước tấm lòng yêu nước thương dân và tài năng thao lược tài giỏi của người con nhà Trần.
Với thể thơ ngũ ngôn tứ tuyệt ngắn gọn nhưng dồn nén cảm xúc, “phò giá về kinh” của Trần Quốc Tuấn không chỉ ca ngợi chiến thắng hào hùng của dân tộc, mà còn thể hiện niềm tin vào sự bền vững muôn đời của đất nước. Bài thơ này được coi là một bản hùng ca hòa trong dàn ca yêu nước của dân tộc cùng với các tác phẩm như Nam Quốc sơn hà, Hịch tướng sĩ, Bình ngô đại cáo,...Những khúc ca ấy đã đánh thức trong lòng mỗi người tình yêu đất nước và ý thức bảo vệ, xây dựng, giữ gìn đất nước.
Phân tích bài thơ Phò giá về kinh - Mẫu 4
Trận chiến với quân Mông-Nguyên giành chiến thắng, quân dân đất nước rất vui mừng về chiến công hiển hách của mình. Sức mạnh của quân giặc cũng phải chịu thua trước khí thế mạnh mẽ và tinh thần quật cường chiến đấu của quân ta. Niềm xúc động và tự hào không nguôi còn mãi trong lòng mỗi người. Trước sự kiện đó, Trần Quang Khải đã sáng tác những vần thơ thép, hùng hồn như 'Phò giá về kinh':
“Chương Dương chiếm giáo địch
Hàm Tử bắt quân thù
Thái bình tu trí lực
Non nước ấy vẫn thịnh vượng ngàn thu.”
Hai câu đầu tác giả đã tái hiện lại những chiến công hào hùng của quân đội nhà Trần. Bằng nghệ thuật đảo ngữ, hai địa danh nổi bật như Chương Dương và Hàm Tử được nhấn mạnh để thể hiện niềm tự hào của tác giả. Những động từ mạnh mẽ kết hợp với danh từ như 'chiếm giáo', 'bắt quân thù' cho thấy sự chủ động và sức mạnh của quân đội ta trong mọi trận chiến. Mặc dù trận Chương Dương diễn ra sau nhưng lại được liệt kê trước, có vẻ như là một sắp đặt có ý đồ của tác giả. Đang sống trong niềm hứng khởi của chiến thắng nhưng vẫn không quên những ngày hào hùng, sung sướng trong thắng lợi năm xưa. Hào khí chiến đấu mạnh mẽ là biểu tượng cho hào khí của một thời đại - hào khí Đông Á. Lời thơ hùng hồn, tự hào, ta như hình dung được trước mắt khung cảnh chiến đấu nơi trận chiến oanh liệt ấy.
'Thái bình tu trí lực
Non nước ấy vẫn thịnh vượng ngàn thu'
Sau khi đánh đuổi quân giặc, nhân dân được tự do, yên bình. Tuy nhiên, để có được hoà bình đó, phải đánh đổi bao nhiêu máu và nước mắt, bao nhiêu người phải hy sinh nơi chiến trường, vì vậy cần phải nhận thức được công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước. Không nên ngủ quên trên chiến thắng, hãy nỗ lực, rèn luyện quân đội, xây dựng lực lượng vững mạnh, trí lực và vật lực cùng nhau hợp tác để xây dựng đất nước mới thịnh vượng, hòa bình: 'Non nước ấy vẫn thịnh vượng ngàn thu'.
Đó là trách nhiệm của mỗi người và cũng là lời gửi gắm của vị tướng sĩ tới muôn dân, muôn người lúc bấy giờ và cả những thế hệ sau. Đất nước tồn tại vững bền hàng ngàn năm phải là sự hợp lực, quyết tâm cao độ, nỗ lực kiên trì. Hai câu thơ cuối thể hiện trí tuệ và tầm nhìn chiến lược của người anh hùng yêu nước. Yêu nước không chỉ là đấu tranh, mà còn là xây dựng, phát triển nước nhà ngày càng giàu mạnh hơn để nhân dân mãi sống trong hoà bình, tự do. Vận mệnh đất nước luôn nằm trong tay chúng ta, do chúng ta quyết định, sống hay chết, tồn tại hay không tồn tại đều phụ thuộc vào nỗ lực, ý thức của nhân dân.
Bài thơ ngũ ngôn vô cùng cô đọng, hàm súc, lời ít ý nhiều tạo nên ấn tượng mạnh. Những chiêm nghiệm sau những chiến thắng rực rỡ của dân tộc như một sự đúc rút thực tiễn đầy khách quan, từ đó tạo niềm tin và thúc giục mọi người hành động, quyết tâm cao.
Đọc bài thơ này, tôi cảm thấy rất may mắn khi được sống trong thời bình ngày nay, những ước mơ và lời nhắn nhủ của anh hùng Trần Quang Khải vẫn đang được thế hệ sau tiếp nhận và nâng cao tinh thần quyết tâm thực hiện. Tôi hứa sẽ cố gắng học tập chăm chỉ, rèn luyện năng lực, trau dồi đạo đức để sau này có thể đóng góp nhiều hơn cho đất nước yêu dấu.
Phân tích về bài thơ Phò giá về kinh - Mẫu 5
Cuộc kháng chiến chống quân Mông – Nguyên đã qua đi nhưng những kỷ niệm về chiến thắng vẫn còn sống mãi trong lòng người cho đến ngày nay. Khi nhắc đến cuộc chiến này, không thể không nhắc đến Trần Quang Khải – một vị tướng tài ba đã có nhiều cống hiến trong cuộc kháng chiến đó. Ông cũng là một thi sĩ tài hoa sáng tác bài thơ “Phò giá về kinh', đem lại cho chúng ta cảm giác hào hùng của thời đại ấy. Bài thơ thể hiện rõ hào khí chiến thắng và khát vọng của dân tộc.
'Chiếm độ Chương Dương
Bắt giữ quân thù Hàm Tử Quan
Hoà bình đến từ nỗ lực
Đất nước thịnh vượng ngàn thu'
Dịch thơ:
“Chương Dương chiếm đoạt giáo giặc
Hàm Tử bắt giữ quân thù
Hoà bình nên nỗ lực cố gắng
Đất nước ấy thịnh vượng muôn thu”
Bài thơ bắt đầu bằng sự vinh quang của quân dân Đại Việt trong mùa hè năm Ất Dậu 1285:
“Chiếm độ Chương Dương vĩ đại
Bắt giữ quân thù Hàm Tử Quan”
Chương Dương và Hàm Tử Quan là hai địa danh nổi tiếng trong lịch sử. Chương Dương là bến sông nằm bên bờ phía bên phải sông Hồng thuộc vùng Hà Tây cũ, và trận đánh này do Trần Quang Khải chỉ huy trực tiếp. Hàm Tử là địa danh ở bên bờ trái sông Hồng, trận này do tướng Trần Nhật Duật lãnh đạo với sự hỗ trợ quan trọng từ Trần Quang Khải. Hai chiến thắng này đã làm cho quân địch hoảng sợ và vinh danh tài năng chiến đấu của Trần Quang Khải. Ngay khi đọc hai câu thơ này, chúng ta nhận ra hai cụm từ ở đầu mỗi câu: 'Chiếm độ' (cướp giành), 'Bắt giữ' (bắt giặc). Đây là những điểm nổi bật trong bài ca chiến thắng. Thêm vào đó, hai từ này là các động từ mạnh mẽ thể hiện sự dồn dập, quyết liệt của cuộc chiến. Giọng thơ sảng khoái và hào hứng phản ánh khí thế của nhân dân vào thời điểm đó. Tác giả không dừng lại lâu ở chiến công cũng không quên niềm vui chiến thắng, nhưng chúng ta vẫn cảm nhận được sự phấn khởi và kiêu hãnh toát ra từ âm nhạc của bài thơ.
Mùa hè năm Ất Dậu là cột mốc sáng chói trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của chúng ta. Những chiến công vĩ đại đã truyền cảm hứng vào những vần thơ hùng tráng, mang bài thơ đậm chất anh hùng ca. Trần Quang Khải có tài khi sử dụng phép liệt kê và sắp xếp các sự kiện để làm nổi bật hai sự kiện chiến lược này. Chắc hẳn vẫn còn ngập tràn trong không khí chiến thắng của trận Chương Dương vừa diễn ra nên ông đã viết nó lên đầu, tiếp theo là trận đánh Hàm Tử Quan diễn ra không lâu sau đó.
Hai trận đánh này đã thay đổi hoàn toàn tình hình, đưa nước ta từ thế bị động sang thế chủ động, tung đòn mạnh vào quân giặc khiến chúng phải sợ hãi. Chương Dương và Hàm Tử Quan là những dấu ấn quan trọng thể hiện sức mạnh của dân tộc. Chỉ khi yêu quê hương, đất nước sâu sắc, Trần Quang Khải mới có thể sáng tác những bài thơ hào hùng như vậy. Ông nhắc nhở trong thời bình mọi người cần nỗ lực xây dựng đất nước, chỉ khi đất nước mạnh mẽ và dân giàu có, giặc mới không dám tới và độc lập được bảo vệ lâu dài. Trần Quang Khải không chỉ là một vị tướng tài ba, mà còn là một nhà quản lý xuất sắc. Ông luôn đặt lợi ích của nước dân lên hàng đầu. Những câu thơ dường như đơn giản và ngắn gọn, nhưng ý nghĩa bên trong rất to lớn. Khi đất nước gặp khó khăn, chúng ta cần đoàn kết đánh đuổi quân giặc; khi trong thời bình, từ các quan đại thần đến nhân dân cần nỗ lực xây dựng đất nước ngày càng vĩ đại. Từ bài thơ này, ta thấy được tầm nhìn chiến lược xa trông rộng của ông. Đến tận bây giờ, bài học từ bài thơ vẫn được áp dụng: phải chăm sóc xây dựng đất nước thì mới duy trì được hòa bình, đời sống của nhân dân mới ấm no và hạnh phúc. Đừng quên giữ vững bài học trong chiến thắng.
“Hòa bình cần nỗ lực
Đất nước ấy phát triển vạn đời”
Ông nhấn mạnh rằng trong thời bình, mọi người cần cố gắng xây dựng đất nước, chỉ khi đất nước mạnh mẽ và dân giàu có, giặc mới không dám xâm lược và độc lập được bảo vệ lâu dài. Trần Quang Khải không chỉ là một vị tướng tài ba, mà còn là một quan chức có tài năng trong việc quản lý và sắp xếp mọi việc. Ông luôn đặt lợi ích của đất nước và dân chúng lên hàng đầu. Những câu thơ dường như rất đơn giản và ngắn gọn, nhưng ý nghĩa bên trong rất to lớn. Khi quê hương gặp khó khăn, chúng ta cần đoàn kết đánh đuổi giặc ngoại xâm; khi trong thời bình, từ các quan chức đến nhân dân cần nỗ lực xây dựng đất nước ngày càng phát triển. Từ bài thơ này, ta thấy được tầm nhìn chiến lược xa trông rộng của ông. Đến tận bây giờ, bài học từ bài thơ vẫn được áp dụng: phải chăm sóc xây dựng đất nước thì mới duy trì được hòa bình, đời sống của nhân dân mới ấm no và hạnh phúc. Đừng quên giữ vững bài học trong chiến thắng.
Chỉ với bốn câu thơ ngắn gọn, Trần Quang Khải đã thể hiện được sức mạnh và khát vọng xây dựng đất nước, duy trì hòa bình. Bài thơ cũng là lời nhắc nhở mỗi người dân Việt Nam trong cuộc hành trình xây dựng và bảo vệ đất nước.
Phân tích bài thơ Phò giá về kinh - Mẫu 6
Phò giá về kinh là một trong những bài thơ nổi tiếng nhất của Trần Quang Khải, nằm trong số những tác phẩm văn học yêu nước xuất sắc nhất của Việt Nam. Bài thơ không chỉ thể hiện âm hưởng chiến thắng hào hùng mà còn cho thấy tầm nhìn xa trông rộng về hướng phát triển đất nước của tác giả.
Bài thơ được sáng tác ngay sau khi quân ta giành chiến thắng, trong bầu không khí đầy sôi động của chiến thắng Chương Dương và Hàm Tử mà Trần Quang Khải đã dẫn đầu. Ông đi đón và hộ tống Thái thượng hoàng Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông trở về Thăng Long. Bởi vậy, bài thơ phát sinh từ cảm hứng chiến thắng hào hùng của những trận đánh do Trần Quang Khải chỉ huy.
Hai câu thơ đầu thể hiện cảm hứng tự hào trước những chiến công của thời đại, mang tính thời sự nóng bỏng:
“Chương Dương cướp giáo giặc
Hàm Tử bắt quân thù”
Câu thơ ngắn gọn, chỉ năm chữ nhưng chứa đựng ý nghĩa và niềm vui mãnh liệt. Câu thơ dồn nén sức mạnh và sự thần tốc của các chiến công, đặc biệt là sự dứt khoát của vị tướng. Đồng thời, nó còn phản ánh không khí sôi động của những sự kiện lịch sử quan trọng trong chiến trường. Chương Dương là trận đấu mở màn nhưng lại có tầm quan trọng đặc biệt đối với chiến thắng chống quân Mông - Nguyên lần thứ hai. Câu thơ vang lên thật hào hùng, hân hoan niềm vui. Việc nhắc lại hai địa danh này càng gia tăng niềm vui và tự hào. Ngoài ra, tác giả sử dụng từ ngữ mang sắc thái biểu cảm: chữ 'Hồ' thường được người Bắc sử dụng để chỉ các dân tộc thiểu số ở Tây và Tây Bắc Trung Quốc. Khi dùng chữ này với quân xâm lược Mông - Nguyên, tác giả muốn biểu lộ sự khinh bỉ.
Vui thắng lợi, nhưng sau đó, Trần Quang Khải vẫn có tầm nhìn rộng lớn, đầy quan tâm đến vận mệnh của đất nước. Hai câu thơ trên lướt qua những sự kiện để lại những suy nghĩ sâu sắc:
“Thái bình nên gắng sức
Non nước ấy ngàn thu”
Hai câu thơ cho thấy suy nghĩ, tầm nhìn của một vị lãnh đạo, trong niềm vui chung của đất nước, ông không bị cuốn đi bởi chiến thắng, mà vẫn nêu lên nhiệm vụ sau khi độc lập. Ông nhấn mạnh trách nhiệm dù ở thời bình vẫn phải nỗ lực hết sức để xây dựng, phát triển đất nước, chỉ có như vậy, non sông nước Nam mới bền vững muôn thuở. Hai câu thơ cuối vừa là chân lí vừa là kinh nghiệm được rút ra từ chiến tranh lâu dài của dân tộc. Cũng chính nhờ những lời nhắc nhở ấy, mà nhân dân ta đã tiếp tục đánh bại quân Mông - Nguyên lần tiếp theo, cũng từ đó, vận mệnh đất nước lâu dài, thịnh vượng, nhân dân sống trong cảnh yên bình, hạnh phúc. Câu thơ đã thể hiện tầm nhìn sâu sắc, chiến lược trong tương lai của một con người hiểu biết rộng.
Bài thơ sử dụng thể thơ ngũ ngôn với số câu chữ ít ỏi, nhưng rất súc tích. Số câu chữ ít ỏi đã tóm tắt đầy đủ những sự kiện lớn của dân tộc và nêu lên chân lí lớn của thời đại. Kết cấu thơ chặt chẽ, ngôn từ chọn lọc, nhịp thơ ngắn gọn, kết hợp giữa ý nghĩa và cảm xúc. Vừa đưa ra những sự kiện lịch sử chính vừa thể hiện niềm vui, sự hân hoan trước chiến thắng và những suy tư, chiêm nghiệm sau khi đất nước đánh bại quân xâm lược.
Bài thơ với ngôn từ chọn lọc, cô đọng giàu cảm xúc đã cho thấy khí thế chiến thắng và khát vọng hòa bình, thịnh vượng của nhân dân thời Trần. Đồng thời khẳng định chân lí mang ý nghĩa thời sự và lịch sử:
“Trong thời bình cần phải nỗ lực
Đất nước kia ngàn thu”
Phân tích bài thơ Phò giá về kinh - Mẫu 7
Suốt lịch sử dài của đất nước, có những chiến thắng oanh liệt trước quân xâm lăng, trong đó có chiến thắng vang dội khiến giặc ngoại xâm khiếp sợ nhất là chiến thắng trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông xâm lược lần thứ hai. “Phò giá về kinh” là bài thơ viết sau khi quân dân đã giành chiến thắng, vua và nhân dân nhà Trần trở về Thăng Long. Đây là bài ca hoàn hảo của dân tộc. Bài thơ sử dụng thể ngũ ngôn tứ tuyệt, bằng chữ Hán:
“Đoạt sáo Chương Dương độ
Cầm Hồ Hàm Tử quan
Thái bình tu trí lực,
Vạn cổ thử giang san”
Bài thơ bắt đầu bằng hai câu thơ nhắc đến 2 chiến thắng lịch sử quan trọng đánh dấu sự phá tan quân Nguyên Mông năm 1285 tại Chương Dương và Hàm Tử:
“Chiếm sông Chương Dương,
Giữ chỗ Hồ Hàm Tử quan”
Có thể dịch hai câu thơ như sau:
“Chương Dương cướp giao địch địch
Hàm Tử bắt quân thù”
Chương Dương và Hàm Tử là hai địa danh bên bờ sông Hồng. Dưới sự chỉ huy của tướng tài ba Trần Quang Khải, quân dân ta đã đánh bại địch quân tại hai điểm này. Hai câu thơ này không nói về sự khốc liệt của cuộc chiến, nhưng các động từ “chiếm” và “giữ” đã thể hiện sự quyết tâm chiến đấu mạnh mẽ của quân dân ta. Lời thơ như đưa ta vào trong cảm giác của chiến thắng hào hùng, làm rộn ràng bầu trời đất.
“Trong thời bình cần sử dụng tri thức và nỗ lực,
Để gìn giữ vĩnh viễn sự vĩ đại của đất nước”
Tương lai của đất nước được Trần Quang Khải suy ngẫm và gửi gắm đến toàn bộ dân tộc
“Thái bình nên nỗ lực
Đất nước ấy muôn thu”
Đây là lời gửi của vị tướng kiệt xuất về tương lai của Việt Nam, thái bình là trách nhiệm của mọi người từ trẻ đến già, nam nữ, từ vua chúa đến quân dân, phải tự ý thức xây dựng và bảo vệ thái bình bằng trí lực của mình. Mỗi người cần rèn luyện phẩm chất, đạo đức, và cống hiến tài năng cho đất nước. Tinh thần đoàn kết là sức mạnh vượt qua mọi khó khăn.
Câu cuối “Vạn cổ thử giang san” là sự nhấn mạnh của Trần Quang Khải về kết quả của sự cố gắng xây dựng và bảo vệ đất nước, đó chính là “Non nước” lưu danh vĩnh viễn. Đây cũng là ước mơ của tác giả và của dân tộc về một thế giới thái bình lâu dài. Việc sử dụng chiến tranh chỉ là giải pháp tình thế.
“Phò giá về kinh” đã ra đời cách đây hàng trăm năm, nhưng giá trị mà bài thơ để lại vẫn còn nguyên vẹn cho đến ngày nay. Trần Quang Khải, danh tướng và nhà thơ của dân tộc đã dốc hết tâm huyết vào bài thơ này, gửi gắm tâm tư đến nhân dân, nhấn mạnh rằng đoàn kết là sức mạnh dẫn đến chiến thắng, đồng thời nêu lên tinh thần tự hào và nhắc nhở mọi người cần rèn luyện tài năng, đạo đức và cống hiến cho tổ quốc.
Phân tích bài thơ Phò giá về kinh - Mẫu 8
Trong cuộc kháng chiến chống quân Mông - Nguyên xâm lược thời đại nhà Trần, Thượng tướng Trần Quang Khải đã có nhiều chiến công vĩ đại. Sau chiến thắng tại Hàm Tử và Chương Dương vào năm 1285, trong ngày đất nước giải phóng, Trần Quang Khải vinh dự đón nhà vua về Thăng Long. Trên đường đi, ông đã cảm hứng sáng tác bài thơ Tụng giá hoàn kinh sư. Bài thơ viết bằng chữ Hán, theo thể Đường luật ngũ ngôn tứ tuyệt, toàn bài bốn câu, mỗi câu năm tiếng tuyệt vời. Tuy tác phẩm là biểu ý chính, nhưng sau những ý tưởng to lớn vẫn dấy lên nhiều cảm xúc sâu sắc. Đây là khúc khải hoàn đầu tiên của dân tộc trong cuộc chiến chống quân xâm lược.
Trước thời đại nhà Trần, dân tộc ta đã nhiều lần đánh tan quân giặc ngoại xâm. Nhưng sau những chiến công ấy, chúng ta chưa được đọc, nghe thấy một tác phẩm văn chương nào về chiến thắng, ca ngợi sự khải hoàn. Vì thế, bài thơ Phò giá về kinh của Thượng tướng - nhà thơ không chỉ có giá trị lịch sử mà còn là văn chương. Hãy đọc nguyên văn bài thơ viết bằng chữ Hán:
“Đoạt sáo Chương Dương độ,
Cầm Hồ Hàm Tử quan.
Thái bình tu trí lực,
Vạn cổ thử giang san.”
Và đọc bản dịch thơ của Trần Trọng Kim:
“Chương Dương đoạt giáo giặc,
Hàm Tử bắt quân thù.
Thái bình nên nỗ lực,
Non nước ấy vẫn xanh tươi”
Bố cục tác phẩm chia thành hai phần súc tích. Tinh thần chiến thắng được thể hiện ở hai câu đầu:
“Chương Dương đoạt giáo giặc
Hàm Tử bắt quân thù”
Nghiên cứu lịch sử, chúng ta biết rằng trong cuộc kháng chiến chống quân Mông - Nguyên thời nhà Trần, quân dân đã giành nhiều chiến thắng, nổi bật nhất là chiến thắng trên sông Bạch Đằng. Tuy nhiên, Trần Quang Khải chỉ nhắc đến hai chiến thắng ở Chương Dương và Hàm Tử. Lí do tại sao? Có phải đây là hai chiến dịch đặc biệt, quyết định để đạt được chiến thắng chung cuối cùng không?
Có lẽ nhờ hai chiến thắng này, nhà vua và triều đình sau khi sơ tán, lánh nạn vào nông thôn, được trở về kinh đô, rất vui sướng, hào hứng, xứng đáng làm thơ, xứng đáng ca hát. Trên thực tế, chiến thắng Hàm Tử xảy ra trước (tháng 4 năm 1285), chiến thắng Chương Dương xảy ra sau (tháng 6 năm 1285).
Tại sao tác giả nhắc đến Chương Dương trước, sau đó mới đến Hàm Tử? Điều này cũng là một câu hỏi thú vị. Nghiên cứu lịch sử, chúng ta biết rằng, trong chiến thắng đầu tiên - Hàm Tử - chỉ huy là tướng Trần Nhật Duật, còn Thượng tướng Trần Quang Khải chỉ hỗ trợ. Trái lại, tại Chương Dương, Thượng tướng Trần Quang Khải dẫn đầu ba quân, trực tiếp chỉ huy và giành chiến thắng sáng láng, rồi ngay sau đó đón nhà vua về kinh. Niềm hạnh phúc của chiến thắng lan tỏa như những mũi phóng tiếp sức cho tinh thần và trí tuệ.
Có lẽ vì vậy, trong cơn hứng khởi, vị thượng tướng đã nhắc ngay tới Chương Dương trước, rồi mới nhắc lại đến Hàm Tử. Trong cả hai chiến dịch ở Chương Dương và Hàm Tử, quân dân ta đã chiến đấu một cách dũng cảm, với tinh thần trận mạc sôi nổi, ghi nhận được nhiều thành tựu vĩ đại,... Tuy nhiên, tác giả chỉ dùng hai câu thơ ngắn gọn, mười âm tiết. Ở mỗi chiến thắng, được diễn tả bằng hai từ: 'đoạt sáo' (cướp giáo), 'cầm Hồ' (bắt quân Hồ).
Cần chú ý đến câu thơ 'đoạt sáo'. 'Đoạt' có nghĩa gốc là 'chiếm được từ kẻ khác sau một cuộc chiến đấu'. Vì vậy, việc sử dụng từ 'đoạt sáo', nhà thơ không chỉ ghi nhận thành tựu chiến công mà còn tôn vinh hành động chính nghĩa và dũng cảm của quân dân ta. Trong bản dịch, từ 'cướp giáo' có thể làm giảm phần nào sự trang nghiêm của chiến thắng. Ở Chương Dương, chúng ta đã chiếm được vũ khí của địch. Còn ở Hàm Tử, chúng ta đã bắt được tướng quân của họ. Mỗi chiến dịch đều có thành tích riêng, bổ sung cho nhau, tạo nên sự hài hòa và toàn diện. Trong cuộc chiến, chắc chắn đã có những tổn thất, quân địch chắc chắn đã bị loại bỏ, tiêu diệt, đuổi theo. Nhưng những câu thơ không nói đến cảnh máu chảy, mà chỉ nhắc đến hai hành động 'đoạt sáo', 'cầm Hồ'.
Cách diễn đạt nhẹ nhàng nhưng sâu sắc, thể hiện rõ mục đích chiến đấu của dân tộc ta là không chỉ là giết chết mà là giành lại độc lập, làm cho kẻ thù phải chiều theo, trả lại đất nước cho chính mình. Câu thơ gọn gàng, ý nghĩa sâu sắc. Dù vậy, nhịp thơ, giai điệu vẫn toát lên niềm vui, niềm tự hào rực rỡ. Đọc thơ, ta có cảm giác vị thượng tướng ấy đang đứng cao đầu, đi trong đoàn quân chiến thắng, vang lên tiếng ngâm thơ. Tiếng ngâm truyền ra khắp nơi, trở thành khúc ca hào hùng vang đầy núi sông. Đúng là khúc khải hoàn.
Phân tích bài thơ Phò giá về kinh - Mẫu 9
Thượng tướng Trần Quang Khải là một vị tướng tài ba văn võ, đã có những công lao xuất sắc trong hai cuộc chiến chống quân Mông - Nguyên. Sau những chiến thắng vượt bật ở Chương Dương, Hàm Tử và chiến thắng giải phóng kinh đô năm 1285, ông được gửi đi đón Thái thượng hoàng Trần Thánh Tông cùng vua Trần Nhân Tông về kinh đô. Trên đường đi, ông đã sáng tác bài thơ “Tụng giá hoàn kinh sư”. Đây là bản khúc khải hoàn đầu tiên của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược ngoại bang.
Hai câu đầu của bài thơ nhấn mạnh sự hào hùng và vang dội của chiến thắng của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông.
“Đoạt sáo Chương Dương độ
Cầm Hồ Hàm Tử quan”
(Chương Dương cướp giáo giặc,
Hàm Tử bắt quân thù)
Chúng ta đã biết rằng, trong cuộc chiến chống quân Nguyên - Mông thời vua Trần, nhân dân ta đã giành nhiều chiến thắng trong nhiều chiến dịch, nổi bật nhất là chiến thắng trên sông Bạch Đằng. Nhưng tại sao Trần Quang Khải chỉ nhắc đến chiến thắng ở Chương Dương và Hàm Tử mà không đề cập đến trận Bạch Đằng? Có lẽ đây là hai chiến thắng đại diện, quyết định để giành chiến thắng cuối cùng? Có lẽ nhờ hai chiến thắng này, nhà vua cùng triều đình sau thời gian sơ tán, được trở về kinh đô, trở về nhà với niềm vui tràn đầy? Trong thực tế lịch sử, chiến thắng Hàm Tử xảy ra trước, chiến thắng Chương Dương sau. Tại sao tác giả lại sắp xếp ngược lại, đặt Chương Dương trước, sau đó mới là Hàm Tử? Tìm hiểu lịch sử, chúng ta thấy rằng, người chỉ huy trận Hàm Tử là tướng Trần Nhật Duật, Trần Quang Khải chỉ tham gia hỗ trợ. Còn trong trận Chương Dương, Trần Quang Khải dẫn đầu ba quân, trực tiếp chỉ huy và đạt chiến thắng rực rỡ, sau đó được gửi đi đón nhà vua về kinh đô. Niềm hạnh phúc của chiến thắng, lan tỏa như những đợt sóng dồn dập, thắp lên nhau. Có lẽ vì vậy mà trong một cơn phút nảy sinh, vị tướng đã nhắc đến chiến thắng Chương Dương ngay trước, rồi mới nhắc lại đến Hàm Tử. Trong cả hai chiến dịch, quân dân ta đã chiến đấu dũng cảm, quyết liệt. Tuy nhiên, tác giả chỉ tập trung vào hai câu thơ ngắn gọn với hai động từ mạnh mẽ là “đoạt” và “cầm”. “Đoạt” mang ý nghĩa “chiếm được từ kẻ khác sau một cuộc chiến đấu”. Với từ “đoạt sáo”, nhà thơ ghi nhận thành tựu chiến công và tôn vinh hành động chính nghĩa, dũng cảm của quân dân ta. Ở Chương Dương, chúng ta chiếm được vũ khí của địch trong khi ở Hàm Tử, chúng ta bắt sống được tướng địch. Trong chiến trận chắc chắn đã có thương vong, tổn thất lớn cho cả hai bên. Tuy nhiên, lời thơ không đề cập đến những cảnh đau buồn, mà chỉ nhắc đến hai hành động “đoạt sáo”, “cầm Hồ”. Giọng văn thơ mạnh mẽ, hùng tráng, âm điệu tươi vui, phô diễn niềm vui, niềm tự hào. Đọc thơ, ta cảm nhận được vị tướng ấy đang ngẩng cao đầu, vừa tiến vào đoàn quân chiến thắng, vừa ngâm tiếng thơ.
Có thể nói, hai dòng thơ trên đã thể hiện lại không khí chiến thắng hùng hồn, sự phấn khởi và lòng tự hào của nhà thơ trên đường hộ tống nhà vua về kinh đô.
Xuống dòng hai câu sau, âm điệu thơ như là dịu lại. Nhà thơ dường như đang suy nghĩ về tương lai của đất nước:
“Thái bình nên nỗ lực hết sức,
Vì đất nước ấy là ngàn thu.”
(Thái bình nên gắng sức,
Đất nước ấy là ngàn thu.)
Đây là lời tự nhủ của vị thượng tướng về tương lai của đất nước, cũng là lời nhắn gửi đến toàn bộ quân dân. Tiếng nói, khát vọng của một người đã trở thành động lực, quyết tâm của toàn dân tộc. Trần Quang Khải tự nhắc mình nêu cao tinh thần trách nhiệm, cố gắng “tu trí lực”, vì tu dưỡng trí tuệ và rèn luyện sức lực là hai yếu tố tiên quyết của một con người và một dân tộc nếu muốn đạt được chiến thắng, muốn xây dựng hòa bình. Đồng thời, ông động viên quân dân cố gắng hết sức, đoàn kết phát huy thành quả chiến thắng để xây dựng đất nước bình yên, bền vững dài lâu chứ không được lơ là trên những chiến tích. Câu thơ cuối cũng chỉ ra hướng đi tiếp của đất nước và bày tỏ lòng mong muốn, khao khát về một tương lai tươi sáng vĩnh cửu của dân tộc. Ý nghĩa của thơ là biểu tượng, nhưng giai điệu của thơ vẫn mang tính biểu cảm. Lời răn dạy hài hòa với niềm tin, niềm hy vọng của quân dân.
Những dòng thơ dưới đây thể hiện khát vọng hòa bình sau một chiến thắng rực rỡ và mong muốn xây dựng một tương lai bình yên vĩnh cửu cho đất nước. Đây là lời tự nhủ của một vị tướng lĩnh, đồng thời là lời nhắn nhủ đến quân dân rằng chúng ta không thể ngủ yên vì chiến thắng. Điều này thể hiện sự thông minh và tầm nhìn xa của một nhà lãnh đạo tài ba, biết lo lắng cho dân tộc và đất nước. Để đất nước được thịnh vượng và hòa bình lâu dài, khát vọng hòa bình không chỉ là của riêng những người lãnh đạo mà còn của toàn dân.
Bằng cách nói chân thành, với lời chữ đơn giản, mộc mạc, 'Tụng giá hoàn kinh sư' đã thể hiện lòng hào khí của một chiến thắng vẻ vang và khát vọng thời bình của dân tộc Việt Nam trong thời đại nhà Trần.