Mytour cung cấp tài liệu Bài văn mẫu lớp 7: Phân tích đặc điểm nhân vật trong một tác phẩm văn học.
Tài liệu này bao gồm 4 dàn ý, sơ đồ tư duy và 18 bài văn mẫu, dành cho các bạn học sinh lớp 7. Hãy theo dõi ngay sau đây.
Sơ đồ tư duy về phân tích đặc điểm của nhân vật
Bố cục phân tích đặc điểm nhân vật
Bố cục số 1
1. Khởi đầu
Giới thiệu về tác phẩm văn học và nhân vật, tóm tắt ấn tượng về nhân vật.
2. Nội dung chính
Phân tích đặc điểm của nhân vật, đánh giá cách xây dựng nhân vật một cách nghệ thuật:
- Ý 1: ...
- Ý 2: …
- Ý 3: …
…
3. Tổng kết
Đưa ra ấn tượng và đánh giá về nhân vật.
Bố cục số 2
1. Khởi đầu
Giới thiệu về tác phẩm và nhân vật cần phân tích. Tóm tắt các đặc điểm nổi bật của nhân vật một cách súc tích.
2. Nội dung chính
- Giới thiệu về hoàn cảnh và lý lịch của nhân vật (nếu có): Tên, tuổi, quê quán…
- Phân tích về ngoại hình và tính cách của nhân vật.
- Liệt kê các đặc điểm chính của nhân vật.
- Trích dẫn các chi tiết, câu văn trong tác phẩm liên quan đến đặc điểm của nhân vật; sau đó dùng lý luận để phân tích rõ hơn.
- Đánh giá về nhân vật:
- Nhân vật đại diện cho tầng lớp xã hội nào?
- Tác giả muốn truyền đạt điều gì thông qua nhân vật đó?
- Phong cách xây dựng nhân vật có điểm gì đặc biệt?
3. Tổng kết
Tóm lại những đặc điểm nổi bật của nhân vật. Đánh giá và suy ngẫm về nhân vật.
Bố cục số 3
(1) Khởi đầu
Tổng quan về tác phẩm văn học, giới thiệu nhân vật sẽ được phân tích.
(2) Nội dung chính
- Nhân vật xuất hiện trong tác phẩm như thế nào?
- Những đặc điểm của nhân vật được thể hiện qua:
- Hành động của nhân vật?
- Ngôn ngữ của nhân vật?
- Cảm xúc, suy nghĩ của nhân vật?
- Mối quan hệ của nhân vật đó với các nhân vật khác.
(3) Tóm lại
Đưa ra suy nghĩ và đánh giá về nhân vật trong tác phẩm.
Bố cục số 4
1. Khởi đầu
Tổng quan về tác phẩm văn học, giới thiệu nhân vật sẽ được phân tích.
2. Nội dung chính
- Nhân vật xuất hiện trong tác phẩm như thế nào?
- Đặc điểm của nhân vật được thể hiện qua:
- Hành động của nhân vật?
- Ngôn ngữ của nhân vật?
- Cảm xúc, suy nghĩ của nhân vật?
- Mối quan hệ của nhân vật đó với các nhân vật khác.
3. Tổng kết
Đưa ra suy nghĩ và đánh giá về nhân vật trong tác phẩm.
Nhân vật Võ Tòng trong truyện Người đàn ông cô độc giữa rừng
Bài văn mẫu số 1
Trong đoạn trích “Người đàn ông cô độc giữa rừng”, nhân vật Võ Tòng được tác giả Đoàn Giỏi xây dựng với đầy đủ ngoại hình và tính cách của mình.
Một lần, bà nuôi của An đã đưa cậu và thằng Cò đến thăm Võ Tòng. Qua nét mặt của An, nhân vật này hiện lên là người đàn ông hiền lành, chất phác. Người dân trong vùng không biết tên thật của Võ Tòng. Họ chỉ biết rằng nhiều năm trước, Võ Tòng đã một mình bơi xuồng đến dựng lều giữa khu rừng đầy thú dữ. Một mình chú đã giết chết hơn hai mươi con hổ. Kể từ đó, người ta gọi chú là Võ Tòng.
Sống trong rừng sâu, cách ăn mặc của chú cũng rất đơn giản. Chú thường trần truồng, mặc chiếc quần kaki còn mới nhưng coi bộ đã lâu không giặt chiếc quần lính Pháp có những sáu túi. Bên hông chú đeo lủng lẳng một lưỡi lê, nằm gọn trong vỏ sắt.
Khác với vẻ ngoài là một tính cách hiền lành, tốt bụng. Cuộc đời của chú đã trải qua nhiều cay đắng. Trước đây, chú cũng từng có một gia đình hạnh phúc. Vợ chú là một người phụ nữ xinh xắn, lúc mang thai đứa con đầu lòng cứ kêu thèm ăn măng. Yêu quý vợ hết mực, chú liều xách dao đến bụi tre đình làng xắn một mụt măng. Khi về ngang qua bờ tre nhà địa chủ liền bị hắn vu cho tội ăn trộm. Võ Tòng một mực cãi lên nhưng bị tên địa chủ quyền thế lại ra sức đánh, khiến chú chém trả. Nhưng chú không trốn chạy mà đường hoàng chịu tội. Hành động này thể hiện được bản chất thật thà, dũng cảm của Võ Tòng.
Ở tù về, Võ Tòng nghe tin vợ đã lấy tên địa chủ, còn đứa con trai duy nhất thì đã chết. Chú liền bỏ làng đi, vào trong rừng sống một mình. Dù vậy, chú vẫn hay giúp đỡ mọi người. Võ Tòng còn là một con người giàu lòng yêu nước. Chú đã chuẩn bị những mũi tên tẩm thuốc độc để đánh giặc Pháp. Chú đã kể lại chiến công giết chết tên giặc Pháp với vẻ hào hứng, sung sướng. Chú chia những mũi tên cho bà nuôi của An - một con người mà chú hết sức yêu mến và tin tưởng để ông sử dụng khi gặp kẻ thù.
Có thể khẳng định, nhân vật Võ Tòng hội tụ đầy đủ những vẻ đẹp của con người Nam Bộ: phóng khoáng, gan dạ, mạnh mẽ, có tinh thần yêu nước nồng nàn.
Bài văn mẫu số 2
“Người đàn ông cô độc giữa rừng” được trích từ tiểu thuyết “Đất rừng phương Nam” của nhà văn Đoàn Giỏi. Trong đoạn trích này, nhân vật Võ Tòng nổi bật.
Nhân vật này được mô tả qua lời kể của cậu bé An trong chuyến thăm Võ Tòng cùng tía nuôi. Về tên tuổi, không ai biết tên thật của Võ Tòng là gì, người dân chỉ biết rằng từ mười mấy năm trước, chú đã một mình bơi xuồng đến dựng lều giữa khu rừng đầy thú dữ. Người ta truyền nhau kể lại việc Võ Tòng đã giết chết hổ. Về ngoại hình, chú thường cởi trần, mặc chiếc quần kaki còn mới nhưng coi bộ đã lâu không giặt chiếc quần lính Pháp có những sáu túi. Bên hông chú đeo lủng lẳng một lưỡi lê, nằm gọn trong vỏ sắt. Điều này cho thấy tính cách phóng khoáng, mạnh mẽ gan dạ của Võ Tòng.
Dưới vẻ bề ngoài độc đáo là một tính cách hiền lành, tốt bụng. Cuộc đời của Võ Tòng gặp nhiều bất hạnh. Trước đây, chú từng có một gia đình hạnh phúc. Vợ chú là một người đàn bà xinh xắn, lúc mang thai đứa con đầu lòng cứ kêu thèm ăn măng. Yêu quý vợ hết mực, chú liều xách dao đến bụi tre đình làng xắn một mụt măng. Khi về ngang qua bờ tre nhà địa chủ liền bị hắn vu cho tội ăn trộm. Võ Tòng một mực cãi lên nhưng bị tên địa chủ quyền thế lại ra sức đánh, khiến chú chém trả. Nhưng chú không trốn chạy mà đường hoàng chịu tội, thể hiện sự dũng cảm, dám làm dám chịu của một người đáng nam nhi. Sau khi ra tù, nghe tin vợ đã lấy tên địa chủ, còn đứa con trai duy nhất thì đã chết, Võ Tòng liền bỏ làng đi, vào trong rừng sống. Ở trong rừng lâu, chú trở nên kì dị hình dáng hơn. Nhưng mọi người đều quý mến chú bởi tính tình chất phác, thật thà, luôn sẵn sàng giúp đỡ mọi người xung quanh mà không nghĩ đến chuyện nhận được đền đáp.
Võ Tòng cũng là một người gan dạ, yêu nước. Điều này được thể hiện qua cuộc trò chuyện với tía nuôi của An về việc đánh giặc Pháp. Võ Tòng chuẩn bị những mũi tên tẩm thuốc độc, rồi chia sẻ cho tía nuôi của An. Chú kể lại chiến công giết chết kẻ thù Pháp với vẻ hào hứng, sung sướng.
Nhân vật Võ Tòng trong tiểu thuyết Đất rừng phương Nam của Đoàn Giỏi được tạo hình với vẻ bề ngoài hung dữ, nhưng bên trong lại chứa đựng những phẩm chất đáng quý của con người. Đó là sự chân thành, thật thà, thẳng thắn; là sự quan tâm, chăm sóc, chu đáo; là tính hào phóng, tốt bụng; và lòng yêu nước cháy bỏng. Nhân vật này đại diện cho hình ảnh của con người Nam Bộ, phóng khoáng, tốt bụng và tình cảm.
Nhân vật An-tư-nai trong tác phẩm Người thầy đầu tiên
Bài văn mẫu số 1
Trong tiểu thuyết “Người thầy đầu tiên”, Ai-tơ-ma-tốp truyền đạt một bài học có giá trị. Nổi bật trong câu chuyện là nhân vật nhỏ bé An-tư-nai.
Hoàn cảnh sống của An-tư-nai được hé lộ qua cuộc đối thoại giữa các bạn nhỏ và thầy Đuy-sen. An-tư-nai là một cô bé mồ côi, sống cùng chú thím. Cô bé bị đối xử rất tàn nhẫn, thậm chí bị bán cho những người giàu có. Cô bé không chỉ sống trong nghèo khó về vật chất mà còn thiếu tình thương thơm.
Tuy nhiên, An-tư-nai vẫn thể hiện những phẩm chất tốt đẹp. Tác giả đã xây dựng nhân vật này chủ yếu thông qua lời nói và hành động để làm nổi bật tính cách. Trước hết, An-tư-nai có tấm lòng lương thiện, tốt bụng. Khi chứng kiến thầy Đuy-sen bị những người giàu trên núi xúc phạm, cô bé tỏ ra căm ghét đến mức nắm cương ngựa và quát thẳng vào mặt các người này. Biết được những khó khăn của thầy Đuy-sen và học trò, An-tư-nai không ngần ngại trút bỏ ki-giắc để giúp đỡ. Trong trời đông giá buốt, cô bé cùng thầy Đuy-sen tạo các ụ nhỏ trên lòng suối giúp các em nhỏ đi lại dễ dàng và an toàn.
Nhờ sự giúp đỡ của thầy Đuy-sen, An-tư-nai đã được đi học và luôn chăm chỉ trong học tập. Cô bé luôn biết ơn và yêu mến thầy Đuy-sen vì những điều tốt đẹp đã dạy cho cô bé. Khi trưởng thành, An-tư-nai trở thành một bà viện sĩ nhưng vẫn ghi nhớ hình ảnh thầy Đuy-sen và những lời dạy bảo. Cô đã nhờ người kể lại câu chuyện về thầy Đuy-sen để truyền cảm hứng cho mọi người, đặc biệt là tuổi trẻ.
An-tư-nai còn có bản lĩnh và ý chí kiên cường. Dù với hoàn cảnh gia đình khó khăn, tuổi thơ gian khổ, cô bé vẫn luôn lạc quan và nỗ lực. Dưới sự hướng dẫn của thầy Đuy-sen, An-tư-nai có cơ hội học tập ở thành phố và trở thành một viện sĩ thành đạt.
Nhân vật An-tư-nai hiện lên với những phẩm chất đẹp, đáng ngưỡng mộ. Qua nhân vật này, tác giả muốn truyền tải nhiều thông điệp giá trị.
Bài văn mẫu số 2
Tác phẩm Người thầy đầu tiên của Ai-tơ-ma-tốp là một trong những tác phẩm hay. Trong đó, nhân vật An-tư-nai được mô tả rất chân thực.
Trong tác phẩm này, nhà văn ít miêu tả về ngoại hình của An-tư-nai mà chủ yếu qua ngôn ngữ và hành động. Tuy nhiên, nhân vật này vẫn rất rõ nét về tính cách và tâm hồn.
Hoàn cảnh sống của An-tư-nai được thể hiện qua cuộc trò chuyện của thầy Đuy-sen và các em học trò. An-tư-nai là mồ côi cha mẹ, sống cùng chú thím. Cô bé phải chịu đựng sự tàn nhẫn của những người xung quanh nhưng vẫn giữ được tấm lòng lương thiện và trong sáng. Khi biết thầy Đuy-sen vất vả trữ củi, An-tư-nai không ngần ngại trút bỏ ki-giắc để giúp đỡ. Dưới trời đông giá buốt, thầy Đuy-sen đã cõng bọn An-tư-nai qua suối để học trò không phải chịu đựng lạnh. Tuy nhiên, bọn nhà giàu lại trêu chọc, làm bùn thầy trò. Lúc đó, An-tư-nai tỏ ra rất tức giận và chỉ muốn quát thẳng vào mặt bọn người giàu.
An-tư-nai là một cô bé rất tình cảm. Cô yêu mến và kính trọng thầy Đuy-sen như người thân. Cô bé mong ước thầy là anh ruột của mình và luôn gửi những lời tốt đẹp nhất tới thầy. Mong ước nhỏ bé chứa đựng tình yêu thương sâu sắc cũng như khát khao có được tình cảm gia đình.
An-tư-nai cũng rất kiên cường, nghị lực. Nhờ sự giúp đỡ của thầy Đuy-sen, cô bé đã có cơ hội đi học ở thành phố và trở thành một viện sĩ nổi tiếng. Khi thành công, An-tư-nai cảm ơn thầy và nhờ một hoạ sĩ kể lại câu chuyện cuộc đời để truyền cảm hứng cho mọi người.
An-tư-nai là một trong những nhân vật nổi bật trong tác phẩm Người thầy đầu tiên. Từ nhân vật này, Ai-tơ-ma-tốp gửi gắm đến người đọc những bài học quý giá.
Phân tích về nhân vật Sơn trong truyện Gió lạnh đầu mùa
Bài văn mẫu số 1
Trong truyện Gió lạnh đầu mùa, Sơn được nhà văn khắc họa để truyền đạt những tư tưởng, tình cảm của mình.
Trong câu chuyện, nhân vật Sơn được mô tả chủ yếu qua ngôn ngữ và hành động để làm nổi bật tính cách. Thạch Lam ít nhắc đến ngoại hình của Sơn. Sơn bước ra khỏi giường và thấy mọi người trong nhà đều đã dậy sớm, ngồi bên bếp sưởi ấm và pha nước chè uống. Cậu được mẹ mặc chiếc áo dạ màu đỏ và áo vệ sinh, ngoài ra còn mặc thêm một chiếc áo vải dày. Những chi tiết này cho thấy Sơn sinh ra trong một gia đình khá giả, luôn được yêu thương và chăm sóc.
Sơn là một cậu bé tình cảm, thân thiện. Khi nhìn thấy Duyên, đứa em gái đã qua đời khi mới lên bốn tuổi, Sơn cảm thấy xúc động và thương em. Cậu cũng đồng cảm với mẹ, nhìn thấy mẹ rơi nước mắt. Sơn thường chơi với các bạn nhỏ nghèo trong xóm như Thằng Cúc, thằng Xuân, con Tí, con Túc.
Điều đáng cảm động nhất là hành động của Sơn khi thấy Hiên, cô bé hàng xóm không có áo ấm để mặc. Sơn nhớ lại Hiên từng chơi cùng em Duyên. Cậu đã lấy áo bông của em Duyên để cho Hiên. Sau khi được sự đồng ý của chị gái, Sơn đợi chị Lan mang áo tới. Sơn cảm thấy ấm áp và vui vẻ trong lòng.
Qua nhân vật Sơn, nhà văn muốn gửi gắm bài học về tình yêu thương con người trong cuộc sống.
Bài văn mẫu số 2
Thạch Lam thường viết về thế giới nội tâm của nhân vật với những cảm xúc mong manh trong cuộc sống thường ngày. Trong truyện Gió lạnh đầu mùa, nhân vật Sơn được đặc biệt nhấn mạnh.
Trong tập truyện ngắn “Gió lạnh đầu mùa” (NXB Đời nay, 1937), Sơn là nhân vật trọng tâm, mang những tư tưởng nhân văn sâu sắc.
Sơn xuất hiện với những suy nghĩ, hành động hồn nhiên của một đứa trẻ trong bối cảnh thời tiết thay đổi. Cậu tỉnh dậy, nhìn thấy mọi người trong nhà đã mặc áo rét. Sơn được mẹ mặc cho áo dạ chỉ đỏ lẫn áo vệ sinh, ngoài lại mặc áo vải thâm. Sơn sinh ra trong một gia đình khá giả, được yêu thương xung quanh.
Sơn sống giàu tình cảm, biết yêu thương mọi người. Cậu cảm thấy xúc động khi nhắc đến em gái đã mất. Sơn chơi thân với các em nhỏ nghèo trong xóm, không khinh thường. Cậu cảm thấy thương xót khi thấy Hiên, và đã chia sẻ áo bông của em Duyên cho Hiên.
Hành động của Sơn đối với Hiên thể hiện ý nghĩa của sự chia sẻ và lòng từ bi. Sơn biết cảm thông và chia sẻ, cho thấy tấm lòng nhân ái của con người.
Nhà văn gửi gắm bài học về tình yêu thương, lòng nhân ái và sự chia sẻ thông qua nhân vật Sơn trong câu chuyện.
Thạch Lam đã viết truyện ngắn “Gió lạnh đầu mùa” nhẹ nhàng nhưng sâu sắc, mang thông điệp về tình yêu thương giữa con người.
Bài văn mẫu số 3
Thạch Lam là một nhà văn nổi tiếng theo trường phái văn học lãng mạn. Trong tác phẩm Gió lạnh đầu mùa, nhân vật Sơn là điểm nổi bật.
Sơn được miêu tả qua lời nói, hành động, suy nghĩ và cảm xúc. Mở đầu truyện, Sơn tỉnh dậy và cảm nhận sự thay đổi của thời tiết. Cậu được mẹ mặc áo dạ chỉ đỏ lẫn áo vệ sinh, ngoài mặc áo vải thâm. Sơn sống trong gia đình khá giả, được quan tâm và yêu thương.
Dù sống trong sự giàu có và yêu thương, Sơn không kiêu ngạo và cảm thấy giàu lòng yêu thương. Cậu cảm thấy xúc động khi nhắc đến em gái đã mất. Sơn biểu hiện sự nhạy cảm và tình yêu thương đối với mọi người xung quanh, đặc biệt là với những đứa trẻ nghèo khổ trong xóm.
Sơn có hành động cao cả khi chia sẻ áo bông của em Duyên với bé Hiên, người cậu nhớ là em gái của Duyên và vẫn chơi cùng Hiên ở vườn nhà trước kia. Ý nghĩ tốt ấy được chị Lan đồng ý và chạy về lấy áo, khiến Sơn cảm thấy ấm áp và hạnh phúc. Tình cảm này chỉ ra tình yêu thương của Sơn dù cậu còn nhỏ tuổi.
Nhân vật Sơn được miêu tả qua ngôn từ, hành động và suy nghĩ. Bằng cách sử dụng ngôn từ giản dị và giọng văn nhẹ nhàng mà sâu lắng, nhân vật Sơn hiện lên đầy sinh động và chân thực.
Thạch Lam muốn gửi gắm bài học về tình yêu thương, sự thấu hiểu và chia sẻ trong cuộc sống qua nhân vật Sơn.
Phân tích người bố trong tác phẩm Vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ
Bài văn mẫu số 1
Nguyễn Ngọc Thuần là một nhà văn chuyên viết cho trẻ em. Một trong những tác phẩm nổi bật của ông là Vừa nhắm mắt, vừa mở cửa sổ. Trong truyện, người bố là nhân vật được khắc họa rất chân thực, sống động.
Người bố được mô tả là yêu thiên nhiên sâu sắc. Nhà của 'tôi' có một khu vườn rất rộng, và bố thường trồng nhiều loại hoa. Buổi chiều sau khi làm đồng, bố thường dẫn 'tôi' ra vườn tưới cây. Tình yêu của bố với vườn như tình yêu với đứa con.
Ngoài ra, người bố còn là người rất tinh tế, kiên nhẫn. Dù mệt mỏi sau ngày làm việc, bố vẫn dành thời gian để chia sẻ và dạy con về thiên nhiên. Bố dẫn con trò chơi để cảm nhận hoa và học được bài học về tình yêu thương và biết ơn trong cuộc sống.
Ngoài ra, người bố cũng rất nhân hậu và yêu thương. Bố đã cứu thằng Tí và đón nhận món quà của Tí bằng niềm vui và sự nâng niu. Dù ít khi ăn ổi nhưng vì đó là món quà của Tý, bố vẫn thưởng thức nó với niềm vui. Bố giải thích ý nghĩa của những món quà cho 'tôi': 'Một món quà luôn đẹp, khi ta cho hoặc nhận một món quà, ta cũng đang làm đẹp thêm bản thân...'
Nhân vật người bố trong truyện Vừa nhắm mắt, vừa mở cửa sổ là một người cha tuyệt vời, là tấm gương đáng để mọi người học tập.
Bài văn mẫu số 2
“Vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ” của Nguyễn Ngọc Thuần là một câu chuyện đầy ý nghĩa. Trong tác phẩm, nhân vật người bố là điểm nổi bật.
Ban đầu, người bố được mô tả là người yêu thiên nhiên. Khu vườn của bố trồng nhiều hoa. Bố dành tình yêu cho vườn giống như dành cho con. Mỗi chiều sau khi làm đồng, bố dẫn 'tôi' ra vườn tưới cây. Sau đó, bố nghĩ ra những trò chơi để con trải nghiệm, thể hiện sự tỉ mỉ, kiên nhẫn của bố. Bố yêu cầu 'tôi' nhắm mắt, dắt con đến chạm và ngửi từng bông hoa, rồi đoán tên của chúng. Qua từng trò chơi, bố dạy 'tôi' biết cách yêu thương, lắng nghe và thấu hiểu thiên nhiên, cũng như trân trọng mọi thứ xung quanh.
Ngoài ra, người bố là người tốt bụng, giàu tình yêu thương. Một lần, khi cả nhà đang ăn cơm, nghe thấy tiếng la hét lớn, 'tôi' nhận ra hướng của tiếng hét đến từ bờ sông. Bố quăng chén cơm, chạy ra và cứu thằng Tí. Khi Tí đem trái ổi tặng bố, dù ít khi ăn ổi nhưng vì đó là món quà của Tý, bố đã thưởng thức với niềm vui. Điều đó khiến 'tôi' thắc mắc và người bố giải thích về giá trị của những món quà. Nhân vật người bố giống như một tấm gương để 'tôi' noi theo, cũng là để mỗi người đọc tự soi chiếu lại bản thân.
Nhân vật người bố trong tác phẩm mang những phẩm chất tốt đẹp, giúp đứa con học được nhiều bài học quý giá.
Bài văn mẫu số 3
“Vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ” của nhà văn Nguyễn Ngọc Thuần là một câu chuyện đơn giản nhưng đầy ý nghĩa về cuộc sống. Trong tác phẩm, nhân vật người bố là điểm nổi bật.
Nhân vật này được mô tả chủ yếu qua ngôn ngữ, hành động để bộc lộ tính cách. Người bố là người giàu tình yêu thiên nhiên, chăm sóc khu vườn rất kỹ càng. Mỗi mùa, vườn nhà đều rực rỡ muôn loài hoa. Ngoài ra, người bố kiên nhẫn và cẩn thận. Dù làm việc mệt mỏi, bố vẫn dành thời gian trò chuyện và chia sẻ với con. Bố nghĩ ra những trò chơi thú vị để dạy con cảm nhận thiên nhiên. Bố dạy con chạm và ngửi hoa, từ đó con nhận ra bài học về yêu thương và biết ơn. Sau đó, bố nghĩ ra trò chơi khác để con thực hành. Khi con thuần thục, bố khen con là người có chiếc mũi tuyệt nhất. Đây là cách bố dạy con yêu thương, quan tâm dù chỉ với hoa lá.
Bố cũng là người giàu tình yêu thương. Một lần, khi cả nhà đang ăn cơm, nghe thấy tiếng hét, 'tôi' đoán được hướng tiếng hét, mẹ nói đó là từ bờ sông. Bố bỏ chén cơm chạy ra cứu thằng Tí. Từ đó, Tí thường đem trái ổi to tặng bố. Dù ít khi ăn ổi, nhưng bố vẫn nhận và vui vẻ ăn. Khi 'tôi' hỏi về điều đó, người bố giải thích ý nghĩa của món quà, giúp 'tôi' nhận ra bài học giá trị của những món quà.
Nhân vật người bố là tấm gương đáng để học tập. Em rất yêu thích và kính trọng nhân vật này.
Phân tích đặc điểm nhân vật Mon trong truyện Bầy chim chìa vôi
Bài văn mẫu số 1
Nguyễn Quang Thiều là một nhà văn nổi tiếng, với nhiều tác phẩm tiêu biểu. Trong đó có truyện ngắn Bầy chim chìa vôi. Trong truyện, nhân vật Mon được mô tả là một cậu bé giàu lòng yêu thương.
Bầy chim chìa vôi kể về cuộc trò chuyện của hai anh em Mon và Mên. Lúc gần hai giờ sáng, Mon thức dậy lo lắng cho bầy chim chìa vôi làm tổ ngoài bãi sông. Sau khi nói chuyện, Mon đề nghị với Mên ra sông vào giữa đêm để cứu bầy chim non. Khi đến, cả hai thấy những con chim bé bỏng bật khỏi dòng nước, gây ra cảm xúc rất đặc biệt, cảm động trong lòng hai người.
Nhân vật Mon là một cậu bé tốt bụng. Lo cho bầy chim, cậu không thể ngủ ngon. Mon thức dậy lúc hai giờ sáng, đánh thức anh trai Mên. Cậu liên tục hỏi Mên về tình hình mưa lớn và nước sông lên. Mon lo lắng và nói với Mên: “Em sợ những con chim chìa vôi non sẽ chết đuối”. Mon còn hỏi tại sao chim làm tổ trên bãi cát trong mưa bão, không chọn nơi an toàn, khô ráo hơn.
Mặc dù Mon đã nằm xuống cố gắng ngủ, nhưng cậu vẫn không thể ngủ được. Cậu thu hút anh trai, gọi “Anh ơi…” và quyết định “Chúng ta phải đưa chúng vào bờ, anh ơi”. Đây là một quyết định mạnh mẽ của Mon, thể hiện sự quyết đoán của cậu bé để không bỏ rơi tổ chim chìa vôi trong đêm mưa lớn. Quyết định cứu chim non đến từ Mon chứ không phải từ anh trai Mên.
Từ nhân vật Mon, tác giả gửi gắm thông điệp sâu sắc về tình yêu và sự trân trọng đối với động vật.
Bài văn mẫu số 2
Nguyễn Quang Thiều là một nhà văn viết cho thiếu nhi nổi tiếng, trong đó có truyện ngắn “Bầy chim chìa vôi”. Trong truyện, Mon là một nhân vật tốt bụng được nhấn mạnh.
“Bầy chim chìa vôi” kể về Mon và Mên. Lúc gần hai giờ sáng, Mon tỉnh dậy lo cho bầy chim chìa vôi làm tổ ngoài bãi sông. Mưa lớn làm tổ chim trên cát bị ngập. Sau khi nói chuyện, cả hai quyết định đưa bầy chim vào bờ. Nước dâng nhanh từ chiều. Chim bố và chim mẹ dẫn bầy con tránh nước lên cao. Đến sáng, bầy chim bước khỏi nước bay lên. Cảnh tượng ấn tượng khiến Mon và Mên cảm thấy hạnh phúc.
Mặc dù còn là đứa trẻ nhỏ, nhưng Mon đã suy nghĩ và lo lắng cho bầy chim chìa vôi làm tổ ngoài sông. Cậu lo lắng rằng những con chim có thể bị cuốn trôi bởi dòng nước sông. Cậu liên tục hỏi anh trai: “Anh nói mưa có to không?”, “Nước sông lên có cao không?”, “Bãi cát giữa sông đã ngập chưa, bầy chim còn ở đó không?”. Dù cậu nghĩ đến những điều vui vẻ khác, nhưng vẫn lo lắng cho bầy chim: “Những con chim chìa vôi non có thể chết đuối mất.”
Vì thế, Mon đề nghị với anh trai: “Chúng ta có nên đưa chúng vào bờ không?” và sau đó quyết định: “Chúng ta phải đưa chúng vào bờ, anh ơi.” Mon và Mên cùng nhau ra ngoài bờ sông. Khi nhìn thấy bầy chim đã an toàn, Mon rơi lệ vì hạnh phúc và niềm vui. Mon là một cậu bé nhân hậu, giàu tình yêu thương động vật.
Với nhân vật Mon, tác giả đã truyền tải bài học về lòng nhân hậu và tình yêu thiên nhiên cho người đọc.
Bài văn mẫu số 3
“Bầy chim chìa vôi” là một tác phẩm của nhà văn Nguyễn Quang Thiều. Mon là nhân vật chính, là một cậu bé nhân hậu và giàu tình yêu thương.
Nội dung của truyện kể về Mon tỉnh giấc, sau đó gọi Mên. Mon lo lắng cho bầy chim chìa vôi làm tổ ngoài bờ sông. Mưa lớn khiến tổ chim chìa vôi ở dải cát giữa sông bị nhấn chìm. Sau một lúc trò chuyện, cả hai quyết định ra bờ sông để đưa những chú chim vào bờ. Nước dâng lên nhanh hơn từ chiều qua. Chim bố và chim mẹ dẫn bầy con tránh nước đến phần cao nhất của dải cát. Đến sáng, bầy chim đã bứt khỏi dòng nước, bay lên cao. Mon và Mên đều cảm thấy hạnh phúc, sung sướng khi chứng kiến cảnh này.
Dù còn nhỏ tuổi nhưng Mon đã có khả năng suy nghĩ và lo lắng cho đàn chim chìa vôi làm tổ ở ngoài bờ sông. Mon lo lắng rằng những con chim có thể bị cuốn trôi bởi dòng nước sông. Câu hỏi của Mon cho anh trai đã thể hiện điều này: “Anh nghĩ mưa có to không?”, “Nước sông lên có cao không?”, “Bãi cát giữa sông đã ngập chưa, bầy chim còn ở đó không?”. Dù cậu đã nghĩ đến những điều vui vẻ khác nhưng vẫn suy nghĩ về bầy chim: “Những con chim chìa vôi non có thể chết đuối mất.”
Điều này cũng bắt nguồn từ tình yêu thương các loài động vật của Mon. Cậu đã đề nghị với anh trai Mên: “Mình có nên đưa chúng vào bờ không?” và sau đó quyết định: “Chúng ta phải đưa chúng vào bờ, anh ạ.” Mon và Mên cùng nhau ra ngoài bờ sông. Khi nhìn thấy bầy chim đã an toàn, Mon đã khóc vì hạnh phúc và niềm vui khi thấy chúng có thể cất cánh bay lên.
Tác giả đã sử dụng lời nói và hành động cụ thể để nổi bật nét đặc điểm và tình cách của nhân vật Mon. Ngôn từ trong sáng, hình ảnh gần gũi, quen thuộc cũng giúp miêu tả cậu bé một cách chân thực, sinh động.
Nhân vật Mon đã gửi gắm thông điệp ý nghĩa và giá trị đến người đọc qua tình yêu thương và sự trân trọng thiên nhiên.
Phân tích nhân vật thầy Đuy-sen trong tác phẩm Người thầy đầu tiên
Bài văn mẫu số 1
Người thầy đầu tiên là một tác phẩm nổi tiếng của Ai-tơ-ma-tốp. Trong đó, nhân vật thầy Đuy-sen được tác giả khắc họa sinh động và chân thực.
Nhân vật “tôi” nhận được lời mời về dự lễ khánh thành ngôi trường mới từ dân làng. Trong số những người tham dự là bà viện sĩ Xu-lai-ma-nô-va. Sau khi trở về Mát-xcơ-va, nhân vật tôi nhận được thư từ bà viện sĩ kể về tuổi thơ bất hạnh và người thầy đầu tiên của cô. An-tư-nai mồ côi cha mẹ từ nhỏ và phải sống với chú thím. Thầy Đuy-sen đã giúp đỡ An-tư-nai có thể đi học.
Trong kí ức của An-tư-nai, thầy Đuy-sen là một người có tấm lòng nhân hậu, bao dung và giàu tình yêu thương. Thầy đã khơi dậy khao khát học hành của các em học sinh: “Các em đến đây là tốt lắm, các em sẽ học gì ở đây? Còn trường của các em đã hoàn thành chưa?”; Thầy còn an ủi khi biết hoàn cảnh của An-tư-nai: “Tên của em đẹp quá, em chắc là nghe lời lắm phải không?”. Khi thấy học sinh phải lội suối vào mùa đông, thầy đã bế hoặc cõng các em qua suối. Học sinh trong làng đều rất yêu mến thầy Đuy-sen. Riêng An-tư-nai lại ước có một người anh trai như thầy. Câu chuyện của bà viện sĩ Xu-lai-ma-nô-va đã thúc đẩy nhân vật tôi vẽ tranh về “Người thầy đầu tiên”.
Dưới góc nhìn của nhân vật “tôi”, thầy Đuy-sen hiện lên là một người thầy hết lòng với học trò. Khi thấy học trò phải mang bao ki-giắc, thầy đã động viên, an ủi. Những lời quan tâm đó như làm tan đi bao mệt mỏi và lạnh giá của trời đông. Trước hành động của bọn nhà giàu sống trên núi, thầy không tỏ ra tức giận, mà lại “nghĩ ra một câu chuyện vui nào đó khiến chúng tôi phá lên cười, quên hết mọi sự”. Sau mỗi buổi học, thầy còn cố gắng kiếm đủ gỗ để làm một chiếc cầu bắc qua dòng suối dưới chân đồi. Nhận ra phương án này không khả thi, thầy lại tiếp tục lấy đá cùng những tảng đất cỏ đắp thành các ụ nhỏ trên lòng suối, giúp học trò đi lại không bị ướt chân. Thầy làm tất cả với hy vọng học trò sẽ luôn an toàn trên con đường đến trường. Có thể thấy, những lời nói, hành động đã minh chứng cho tấm lòng nhân hậu, trái tim cao cả của thầy Đuy-sen.
Tóm lại, nhân vật thầy giáo Đuy-sen hiện lên với những phẩm chất tốt đẹp của một người giáo viên. Điều này khiến mọi người yêu mến và cảm phục thầy hơn nữa.
Bài văn mẫu số 2
Ai-tơ-ma-tốp là một nhà văn người Cư-rơ-gư-dơ-xtan. Trong số các tác phẩm xuất sắc của ông có “Người thầy đầu tiên”. Trong câu chuyện, nhân vật thầy giáo Đuy-sen là điểm nhấn.
Thông qua lời kể của nhân vật “tôi”, thầy Đuy-sen hiện lên là một con người nhiệt huyết, trách nhiệm với công việc. Chính thầy Đuy-sen đã biến một vùng đất hoang tàn thành một ngôi trường. Khi An-tư-nai và các bạn nhỏ đến trường, họ tò mò “xem thử thầy giáo đang làm gì” thì thấy thầy “từ trong cửa bước ra, người bê đất”. Thầy Đuy-sen “mỉm cười, niềm nở” quét mồ hôi trên mặt, rồi nhẹ nhàng hỏi: “Các em đến đây xem là hay lắm, các em sẽ học gì ở đây? Còn trường của các em thì có thể nói là đã xong đến nơi rồi...?”
Thầy Đuy-sen là một người giàu tình yêu thương, luôn hiểu được trái tim của trẻ thơ. Lần đầu gặp gỡ, thầy đã thôi thúc trong các em nhỏ núi cao sự khao khát đi học. Khi biết về hoàn cảnh của An-tư-nai, thầy đã an ủi một cách chân thành: “An-tư-nai, tên hay quá, cô bé chắc là ngoan lắm phải không?”. Lời nói ấy cùng với nụ cười hiền hậu của Đuy-sen đã làm cho cô bé dân tộc thiểu số, bất hạnh “cảm thấy ấm lòng trở lại”. Chính thầy Đuy-sen cũng đã khơi dậy niềm khao khát học hành của An-tư-nai.
Không chỉ là người trực tiếp giảng dạy, thầy Đuy-sen còn luôn quan tâm đến cuộc sống của học sinh. Mỗi khi đi học, các em học sinh đều phải lội qua một dòng suối. Đến mùa đông, nước băng lạnh khiến các em không thể lội qua được nữa. Để giúp các em đến lớp, thầy Đuy-sen đã bế các em qua suối, cõng, vác để các em nhỏ có thể an toàn đến trường. Ngay cả khi bọn nhà giàu ngu xuẩn, thái độ vô lý lên mặt chế giễu, cười nhạo, thầy vẫn lạc quan kể chuyện vui để học sinh quên đi mọi sự. Những lúc rảnh rỗi, thầy còn dùng đá và những tảng đất cỏ làm thành những ụ nhỏ trên lòng suối, giúp bước qua không bị ướt chân. Khi An-tư-nai ngã ở suối, thầy đã đỡ An-tư-nai lên bờ, lót áo choàng cho An-tư-nai ngồi, còn mình vẫn tiếp tục công việc. Với An-tư-nai, thầy Đuy-sen như một người thân, thậm chí cô bé mong ước thầy trở thành anh trai của mình.
Nhân vật thầy Đuy-sen trong tác phẩm “Người thầy đầu tiên” là một con người đáng ngưỡng mộ và yêu quý.
Bài văn mẫu số 3
Người thầy đầu tiên là một trong những tác phẩm hay của Ai-tơ-ma-tốp. Trong đó, nhân vật thầy Đuy-sen được mô tả rất chân thực.
Thầy Đuy-sen được miêu tả chủ yếu qua hành động và lời nói của mình. Thầy hiện lên là một người có tấm lòng nhân hậu, rộng lượng và giàu tình yêu thương. Thầy đã giúp các học sinh trong làng có một ngôi trường để đi học. Thầy đã khơi dậy khao khát học hành của các em: “Các em ghé vào đây xem là hay lắm, các em chả sẽ học tập ở đây là gì? Còn trường của các em thì có thể nói là đã xong đến nơi rồi...?”. Trong mùa đông lạnh giá, khi thấy học sinh phải lội qua suối, thầy đã bế hoặc cõng các em qua suối. Sau mỗi buổi học, thầy còn cố gắng kiếm đủ gỗ để làm một chiếc cầu bắc qua dòng suối dưới chân đồi. Nhận ra phương án này không khả thi, thầy Đuy-sen lại tiếp tục lấy đá cùng những tảng đất cỏ đắp thành các ụ nhỏ trên lòng suối, giúp học sinh đi lại không bị ướt chân.
Đặc biệt, thầy Đuy-sen được nhận biết qua con mắt của nhân vật An-tư-nai. Mồ côi cha mẹ, An-tư-nai sống với chú thím, thiếu thốn về vật chất lẫn tình cảm. Thầy Đuy-sen đã giúp đỡ để An-tư-nai có thể đi học. Trong kí ức của An-tư-nai, thầy Đuy-sen là một người có tấm lòng nhân hậu, rộng lượng và giàu tình yêu thương. Thầy đã an ủi khi biết được hoàn cảnh của An-tư-nai: “An-tư-nai, tên hay quá, cô bé chắc là ngoan lắm phải không?”. Khi An-tư-nai ngã ở suối, thầy đã đỡ cô bé lên bờ, lót áo choàng cho cô bé ngồi, còn mình thì vẫn tiếp tục công việc. Cũng nhờ có thầy Đuy-sen mà An-tư-nai đã cố gắng học hành và trở thành một viện sĩ.
Thầy Đuy-sen còn là tấm gương cho học trò về cách sống lạc quan, tự trọng. Trước hành động của bọn nhà giàu sống trên núi, thầy Đuy-sen không hề tỏ ra tức giận, mà thầy lại “nghĩ ra một câu chuyện vui nào đó khiến lũ chúng tôi phá lên cười, quên mất mọi sự”. Thầy tìm cách để thấu hiểu, giúp đỡ học sinh nhiều hơn. Có thể thấy, tất cả những lời nói, hành động đã minh chứng cho tấm lòng nhân hậu, trái tim cao cả của thầy Đuy-sen.
Như vậy, thầy Đuy-sen là một nhân vật có những phẩm chất tốt đẹp. Qua nhân vật này, tác giả cũng gửi gắm đến bạn đọc những bài học giá trị.
Phân tích đặc điểm nhân vật An trong Đi lấy mật
Bài văn mẫu số 1
Trong tiểu thuyết Đất rừng phương Nam của nhà văn Đoàn Giỏi, văn bản “Đi lấy mật” là một phần nổi bật. Nhân vật chính là cậu bé An để lại nhiều ấn tượng sâu sắc.
An là nhân vật chính và là người kể chuyện. Cậu đã được tác giả khắc họa qua nhiều khía cạnh. Trong hành trình đi lấy mật cùng tía nuôi và Cò, An trải qua nhiều trải nghiệm thú vị. An là một đứa trẻ hiếu động, nghịch ngợm, luôn ham tìm hiểu.
An vừa hồn nhiên vừa suy nghĩ sâu sắc, luôn nhớ lời má nuôi dạy về cách lấy mật, cách xem ong của Cò. An có ánh mắt quan sát tinh tế và sâu sắc, phát hiện ra vẻ đẹp của thiên nhiên.
Trong đoạn trích, tác giả sử dụng ngôn ngữ mộc mạc, chân thực, đậm chất Nam Bộ để tạo nên hình ảnh sinh động của nhân vật An.
Có thể thấy rằng, cậu bé An tỏ ra rất hồn nhiên, trong sáng và luôn ham học hỏi, tìm hiểu.
Bài văn mẫu số 2
Trích đoạn “Đi lấy mật” từ tiểu thuyết “Đất rừng phương Nam”. Trong đó, nhân vật An được khắc họa qua nhiều khía cạnh.
Đoạn trích kể về hành trình lấy mật của An cùng tía nuôi và thằng Cò. An được miêu tả chủ yếu qua hành động, lời nói và cảm xúc, cũng như mối quan hệ với các nhân vật khác. An là một cậu bé nghịch ngợm, hiếu động, thích khám phá. An cũng chăm chú lắng nghe thằng Cò kể về cách xem ong, về sân chim, và luôn hỏi han nếu không hiểu.
Tuy vậy, An vẫn là một cậu bé biết suy nghĩ, luôn ham học hỏi. An chăm chú lắng nghe thằng Cò nói về cách xem ong, về sân chim. Khi nghe má nuôi dạy cách lấy mật, nếu không hiểu gì, An lại hỏi ngay: “Sao biết nó về cây này mà gác kèo”, “Kèo là gì, hở má?”, “Coi bộ cũng không khó lắm hở má?”, “Ủa, tại sao vậy má?”...
Cậu bé An không chỉ tinh nghịch và thích khám phá, mà còn có con mắt quan sát tinh tế và sâu sắc. Dưới cái nhìn của An, cảnh rừng U Minh hiện lên sống động và hoang sơ, trù phú: “Buổi sáng, đất rừng yên tĩnh”, còn “ánh sáng trong vắt, hơi gợn một chút óng ánh trên những đầu hoa tràm rung rung, khiến ta nhìn cái gì cũng giống như là nó bao qua một lớp thủy tinh”.
Các trạng thái, cảm xúc của nhân vật này cũng rất đa dạng. An mệt mỏi sau một chặng đường dài. Cậu vui vẻ và thích thú khi nhìn thấy đàn chim, tổ ong… An cảm thấy yêu mến và khâm phục tía nuôi, má nuôi; hay cãi nhau với Cò nhưng cũng rất yêu quý cậu… Nhân vật An được miêu tả qua hành động, lời nói cụ thể. Tác giả sử dụng ngôi kể thứ nhất, đoạn trích được kể qua chính lời của nhân vật An góp phần khắc họa tính cách nhân vật chân thực hơn. Đồng thời tác giả còn sử dụng ngôn ngữ mộc mạc, đậm chất Nam Bộ. Từ đó, nhân vật An hiện lên mang vẻ đẹp của con người Nam Bộ.
Nhân vật cậu bé An được thể hiện với những đặc điểm tính cách hồn nhiên, trong sáng và luôn ham học hỏi, tìm hiểu.
Bài văn mẫu số 3
Trích đoạn “Đi lấy mật” từ cuốn tiểu thuyết nổi tiếng Đất rừng phương Nam của nhà văn Đoàn Giỏi. Trong đoạn trích này, nhân vật An là điểm nổi bật.
Đoạn trích kể về trải nghiệm đi thu hoạch mật ong rừng của An cùng Cò và cha nuôi. Ban đầu, An là một cậu bé đam mê thiên nhiên và có những quan sát vô cùng tinh tế. Dưới ánh nhìn của An, rừng núi U Minh hiện ra với vẻ hoang sơ, kỳ vĩ nhưng cũng rất thơ mộng và trữ tình. Trong suốt hành trình, An luôn tập trung quan sát mọi khung cảnh xung quanh. Bức tranh thiên nhiên của rừng U Minh hiện lên qua đôi mắt trong sáng của An. An chăm chú ngắm nhìn bầu trời: “Ánh sáng trong vắt, hơi gợn một chút óng ánh trên những đầu hoa tràm rung rung, khiến ta nhìn gì cũng giống như nó được bao phủ bởi một lớp thủy tinh”. An tiếp tục cảm nhận thiên nhiên bằng khứu giác, xúc giác, thị giác: “...ăn xong, bấy giờ bóng nắng mới bắt đầu lên. Gió cũng bắt đầu thổi rao rao theo với ánh sáng vàng rực từ mặt trời. Một luồng hơi đất nhè nhẹ phủ lên, làm nhạt đi những bụi cây cúc áo, rồi tan dần theo hơi nóng của mặt trời”. Tất cả này cho thấy sự nhạy cảm trong tâm hồn của nhân vật An.
Bên cạnh đó, An là một cậu bé rất ham học hỏi, thích tìm hiểu về mọi thứ xung quanh. Trong lần đầu tiên được đi cùng tía nuôi vào rừng lấy mật, An luôn chú ý đến những điều mới lạ xung quanh. An cũng chăm chú lắng nghe Cò giải thích về cách phân biệt ong mật, đặt ra nhiều câu hỏi cho tía nuôi, tò mò về “sân chim”. An nhớ lại lời má nuôi kể về cách gác kèo ong. An cũng so sánh việc học trong sách với thực tiễn bên ngoài. Cuối cùng, An đã rút ra nhận thức về sự khác biệt trong cách “thuần hóa” ong rừng của người dân vùng U Minh so với những cách nuôi ong trên thế giới: “Không có nơi nào, xứ nào có kiểu tổ ong hình nhánh kèo như vùng U Minh này cả”.
Như vậy, với nhân vật An, tác giả đã thể hiện tình yêu thiên nhiên, sự sâu sắc của con người và ca ngợi tâm hồn trong sáng của tuổi thơ.
Nhân vật Dế Mèn trong bài học đường đời đầu tiên
“Bài học đường đời đầu tiên” là một đoạn trích thú vị từ truyện “Dế Mèn phiêu lưu ký”. Đoạn trích đã tả nhân vật Dế Mèn khỏe mạnh nhưng hống hách, coi thường người khác. Vì tính xấu ấy, nó đã gây ra cái chết của Dế Choắt. Cuối cùng, Dế Mèn đã học được một bài học đầu tiên rất quan trọng.
Đầu tiên, nhà văn đã mô tả Dế Mèn thông qua ngoại hình của nó. Đôi càng của Dế Mèn được miêu tả là “mẫm bóng” và có “những cái móng vuốt ở chân, ở khoeo cứ cứng dần và nhọn hoắt”. Da của Dế Mèn có màu “nâu bóng mỡ soi gương được và rất ưa nhìn”. Ngoài ra, đầu của Dế Mèn cũng “to ra và nổi từng tảng, rất bướng”. Hai cái răng của nó đen nhánh và “lúc nào cũng nhai ngoàm ngoạp như hai lưỡi liềm máy làm việc”, cùng với sợi râu “dài và uốn cong một cách rất hùng dũng”. Dế Mèn hiện lên với một thân hình cường tráng.
Về tính cách, Dế Mèn từ nhỏ đã sống rất độc lập và thích phiêu lưu khắp nơi. Dế Mèn gây sợ hãi cho các con vật nhỏ bé mỗi khi xuất hiện. Hàng xóm của nó là Dế Choắt, một chú dế gầy gò và ốm yếu. Vì vậy, Dế Mèn coi thường Dế Choắt. Nhưng chính vì thái độ này mà Dế Mèn nhận được một bài học quan trọng. Câu chuyện bắt đầu khi Dế Mèn coi khinh Dế Choắt và từ chối giúp đỡ khi Dế Choắt đề nghị đào ngách sang nhà Dế Mèn. Câu chuyện leo thang khi Dế Mèn trêu chọc chị Cốc ốc, khiến chị Cốc giận dữ. Ban đầu Dế Mèn kiêu ngạo, nhưng sau đó lại sợ hãi và trốn vào hang. Dế Mèn chứng kiến Dế Choắt bị chị Cốc tấn công mà vẫn không làm gì. Sau khi Cốc ra đi, Dế Choắt đã chết. Dế Mèn hối hận và nhận ra bài học của mình.
Dế Mèn ân hận về cách đối xử của mình với Dế Choắt và hối tiếc vì đã góp phần vào cái chết của Dế Choắt. Nó tự trách mình vì là một người mạnh mẽ nhưng lại chọn con đường trốn tránh. Sau khi chôn cất Dế Choắt, Dế Mèn suy nghĩ về cuộc sống của mình. Bài học này giúp Dế Mèn hiểu được sự quan trọng của sự hoà hợp với mọi người.
Tóm lại, nhân vật Dế Mèn được mô tả rất chân thực qua ngòi bút của nhà văn Tô Hoài. Đoạn trích “Bài học đường đời đầu tiên” là một tác phẩm đặc biệt.