Hy vọng tài liệu này sẽ giúp các bạn học sinh nâng cao kỹ năng viết văn của mình. Dưới đây là một số bài mẫu về chủ đề Tả cảnh công viên vào buổi sáng. Mời các bạn tham khảo.
Phân tích đoạn trích Sau phút chia li - Mẫu 1
Trong văn chương của Việt Nam, Chinh phụ ngâm khúc tỏa sáng như một viên ngọc quý lấp lánh màu sắc. Cả bản gốc tiếng Hán của Đặng Trần Côn và bản diễn nôm của Đoàn Thị Điểm đều là những tác phẩm nghệ thuật vĩ đại.
Chinh phụ ngâm khúc xuất hiện vào đầu thế kỷ XVIII, thời kỳ chiến tranh kéo dài khiến nhiều người phải chịu đựng nỗi đau chia li bi thương:
Chàng đi xa trong cõi mưa gió
Thiếp trở về buồng cũ, dựa chăn
Đoái trông theo, màn mây nắng rơi
Và ngàn núi xanh biếc trải dài
..........
Ngàn dâu xanh tươi tỏa sắc màu
Chàng và thiếp ai buồn nhiều hơn?
(Trích từ Sau phút chia li - Chinh phụ ngâm khúc)
Mười hai câu thơ với hình thức song thất lục bát, mang giai điệu u sầu, vừa khắc sâu nỗi đau trong lòng, vừa thấm đẫm tình cảm nhớ nhung, khiến người đọc mãi không quên. Đôi vợ chồng trẻ đang hạnh phúc bỗng chốc bị cuốn vào vòng xoáy của đau khổ:
Chàng đi xa trong cõi mưa gió
Thiếp trở về buồng cũ, dựa chăn
Chàng đi - Thiếp trở về, hai hình ảnh tưởng chừng đối lập nhưng đầy sâu thẳm, như biểu tượng cho sự xa cách không thể gượng ép. Dường như người vợ cũng chịu đựng nỗi đau đó. Và nỗi buồn lan tỏa khắp không gian:
Mây màu biếc, phủ lên ngàn núi xanh
Dù ngàn núi xanh đã chia cắt họ, nhưng tình cảm nhớ thương vẫn hiện hữu, gợi lại nỗi đau lòng khi xa cách:
Ở Hàm Dương, chàng vẫn quay đầu nhìn lại
Ở Tiêu Tương, thiếp hãy ngó sang
Từ Hàm Dương đến Tiêu Tương, và từ khói Tiêu Tương đến cây Hàm Dương, sự xa cách đã trở nên vô cùng xa xôi, cũng như nỗi buồn sâu thẳm trong lòng người phụ nữ:
Khói Tiêu Tương bay xa Hàm Dương
Cây Hàm Dương xa Tiêu Tương hàng trăm dặm
Khi dõi theo chồng, hy vọng gặp lại trở nên vô vọng. Bóng dáng người chồng yêu quý ở đâu? Chỉ còn thấy những cánh đồng dâu xanh trải dài tới chân trời như một bi kịch vô vọng không biết kết thúc khi nào:
Chúng ta cùng đợi chờ nhưng lại không gặp nhau
Nhìn thấy những cánh đồng dâu xanh tươi
Đồng dâu xanh mướt trải dài bao la
Trong lòng anh và trong lòng em, ai đau đớn hơn?
Trong lòng anh và em, ai đau đớn hơn? Câu hỏi như một điểm nhấn làm nổi bật nỗi đau trong lòng người phụ nữ, khiến tâm trạng người vợ trẻ càng lúc càng nặng nề hơn. Nỗi đau nặng nề ấy càng lấn át tâm can của người đọc. Câu thơ dường như chứa đựng tiếng khóc cảm xúc của người vợ, với sự uất ức và nỗi khổ của một trái tim gian khổ. Nguyên nhân gì đã dẫn đến tình huống bi đắng, đau buồn này? Tại sao phụ nữ phải chịu đựng việc chồng phải xa cõi vĩnh viễn, trong khi họ phải quay về buồng cũ, cô đơn? Chiến tranh là một bi kịch thật sự.
Nhà thơ không chỉ nhìn thấy mà còn nghe thấu tiếng trái tim sâu lắng của người vợ trẻ và thể hiện nó một cách chân thực qua tài nghệ sáng tạo đầy tài năng. Chưa từng có trong văn học Việt Nam, nỗi buồn của sự chia ly và tiếng lòng của người phụ nữ được thể hiện một cách sâu sắc như vậy.
Mười hai câu thơ chữ nôm trở thành tiếng nói chung của mọi cặp vợ chồng (Hoàng Xuân Hãn), để lại dấu ấn sâu trong tâm trí của những ai yêu thơ cổ điển Việt Nam.
Phân tích đoạn trích Sau phút chia li - Mẫu 2
Trong xã hội phong kiến, phụ nữ phải chịu rất nhiều khổ cực và bất hạnh. Họ thiếu công nhận và quyền tự quyết định cuộc sống, phụ thuộc vào người chồng và người cha. Đoạn trích từ 'Chinh phụ ngâm khúc' thể hiện sâu sắc điều này.
Đoạn trích thể hiện nỗi nhớ nhung, mong mỏi sâu sắc của người vợ về chồng ra trận. Thơ cổ 'Sau phút chia li' là biểu tượng của tình yêu đôi lứa, đặc biệt là của người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
'Chồng đi xứ xa, gió mưa ngập trời
Vợ trở lại căn phòng cũ, ánh sáng từ chiếc chăn cũ
Mắt nhìn về phía xa, cách biệt xa xôi
Trời xanh mây trắng, núi non xanh biếc rợp mình'
Sau đó:
'Cùng chờ đợi, nhưng vẫn không thấy
Chỉ thấy cánh đồng dâu xanh mơn mởn
Cảm giác ngàn dâu xanh biếc bao la
Trong lòng anh và em, ai buồn thêm?'
Tác giả đã tài tình sử dụng nghệ thuật so sánh và từ ngữ tinh tế để lên án chiến tranh, đặc biệt là mạnh mẽ khao khát hòa bình và tình yêu thương của phụ nữ thời phong kiến.
'Chồng đi xứ xa, gió mưa ngập trời
Vợ trở lại căn phòng cũ, ánh sáng từ chiếc chăn cũ.
Vì tình hình chiến tranh, người chồng phải rời xa người vợ trẻ yêu dấu để tham gia trận đánh. Đó là thời điểm buồn bã và cô đơn của cả hai. Trên 'đất xa mưa gió' của chồng, ẩn chứa nguy hiểm và gian nan của cuộc sống trên chiến trường. Trong 'buồng cũ chiếu chăn' của vợ, lại chứa đựng nỗi đau đớn và sự cô đơn. Hai từ 'Chồng' và 'Vợ' mang theo nhiều nỗi buồn và mệt mỏi. Khi nghĩ về nhau, họ chỉ biết rằng:
'Mắt nhìn về phía xa, cách biệt xa xôi
Trời xanh mây trắng, núi non xanh biếc rợp mình'.
Sau khi tiễn chồng ra trận, người vợ quay về nhà và chôn giấu nỗi buồn trong lòng. 'Mắt nhìn về phía xa' có ý nghĩa là quay lại, nhưng từ 'mắt nhìn' còn ám chỉ sự đau đớn và mệt mỏi của tâm trạng người vợ. Nhưng mỗi lần quay nhìn chỉ khiến cảm giác xa cách trở nên rõ ràng hơn, giữa họ đã có 'cách biệt xa xôi' về tâm trạng. Nỗi buồn của người phụ nữ đã dần lan tỏa vào cảnh vật thiên nhiên. Đoạn thơ này của Đoàn Thị Điểm sử dụng cảnh vật thiên nhiên để diễn đạt tâm trạng của người phụ nữ khi xa chồng:
'Chồn Hàm Dương còn nhìn lại
Bến Tiêu Tương hãy nhìn sang
Chồn Hàm Dương cách Bến Tiêu Tương
Cây Bến Tiêu Tương cách Chồn Hàm Dương mấy trùng
Cùng nhìn nhau mà không gặp
Chỉ thấy đồng dâu xanh thẳm
Ngàn dâu xanh một màu'.
Trong phần tiếp theo của bài thơ, tình cảm chia li và nhớ nhung không muốn rời xa của đôi vợ chồng trẻ được diễn đạt thông qua các hình tượng cổ điển và các kỹ thuật văn chương đặc biệt.
Các địa danh Tiêu Tương và Hàm Dương mà tác giả sử dụng được lấy cảm hứng từ truyền thuyết Trung Quốc, mang lại cảm giác của sự cách biệt và chia lìa: 'cách... mấy trùng'. Sự đối lập này không chỉ thể hiện tình cảm sâu sắc của đôi vợ chồng, mà còn phản ánh sự xa cách giữa họ từng giây từng phút: 'Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại' - 'Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang', 'Bến Tiêu Tương cách Hàm Dương' - 'Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương'. Đặc biệt, các phép đối lập khiến cho các từ ngữ như muốn kết nối vào nhau và không muốn rời xa: Tiêu Tương - Tiêu Tương, Hàm Dương - Hàm Dương, thấy - thấy, xanh xanh - xanh, ngàn dâu - ngàn dâu. Điều này đã thành công thể hiện tình cảm lưu luyến không muốn rời xa của hai vợ chồng. Hình thức thơ song thất lục bát đã giúp diễn đạt tâm trạng u sầu nhớ nhung trong lòng người chinh phụ, mặc dầu thì, thế gian đang đẩy họ xa nhau hơn. Trong hai dòng thơ:
'Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một màu'
Tác giả đã sử dụng thành ngữ 'Thương hải tang điền' - biển rộng đã trở thành ruộng dâu bát ngát, ám chỉ những gì luyến tiếc trong cuộc đời. Không chỉ thế, các sắc thái của màu xanh được sử dụng trong hai dòng thơ này cũng giúp diễn đạt sâu sắc tâm trạng của người chinh phụ. 'Xanh xanh' là màu xanh nhạt, nhẹ nhàng. 'Xanh ngắt' lại là màu xanh sâu, đậm. Từ 'xanh xanh' đến 'xanh ngắt' là sự leo thang, màu xanh thể hiện sự chia ly, xa cách; sự leo thang này như làm cho nỗi buồn càng trở nên sâu sắc hơn, càng đậm đà và cay đắng hơn.
Đoạn thơ đã sử dụng thể thơ song thất lục bát ngắn gọn cùng với nhiều kỹ thuật văn học được áp dụng thành công, tác giả đã thể hiện sâu sắc tâm trạng của người vợ 'sau phút chia li' khi tiễn chồng ra trận. Đó là nỗi buồn sâu sắc, nỗi nhớ mong tràn đầy, sự lưu luyến không biến mất... Và như vậy, văn bản 'Sau phút chia li' (trích từ 'Chinh phụ ngâm' của Đặng Trần Côn - Đoàn Thị Điểm) đã diễn đạt tinh thần nhân đạo rất nhân bản, nhân văn.
Những người phụ nữ trong xã hội cổ xưa phải chịu đựng nhiều gian khổ và đắng cay, chỉ có người chồng là nguồn an ủi tinh thần, nhưng cuối cùng họ cũng phải xa nhau, không biết khi nào mới gặp lại. Sự tàn ác của chiến tranh làm cho nỗi nhớ chồng của người phụ nữ trở nên sâu sắc hơn, bởi giữa cái sông và cái chết trong hoàn cảnh đó là một mong manh.
Phân tích đoạn trích Sau phút chia li - Mẫu 3
Hàng ngàn năm qua, thi nhân Nguyễn Du đã từng thốt lên trong đau đớn:
'Đau đớn thay phận đàn bà
Lời nói bạc mệnh là điều chung.'
Những người phụ nữ với số phận khốn khổ, hàng ngàn năm qua, vẫn còn là chủ đề mà thi hào Nguyễn Du đã đau đớn nói lên. Phận đàn bà với mọi loại đau thương, với số phận bạc mệnh, đều là những điều chung chung đã vang vọng qua bao thế hệ. Thơ ca là biểu hiện của sự giải thoát, sự đồng cảm, là giọng nói của sự đồng ý, đồng chí, để tìm thấy những tâm hồn đồng điệu, những người cùng chịu đựng nỗi đau khổ và tạo ra những bài thơ làm rung động trái tim của mọi người về số phận của phụ nữ. Và trên con đường đó, ta gặp 'Sau phút chia li' của Đặng Trần Côn - Đoàn Thị Điểm.
Thơ là tiếng nói của những cảm xúc mãnh liệt, từ cô đơn đến đau thương, tội nghiệp của người phụ nữ có chồng ra trận. 'Sau phút chia ly' trích từ 'Chinh phụ ngâm khúc' của Đặng Trần Côn là khúc ngâm sâu sắc, là lời kết án đanh thép về chiến tranh phi nghĩa. Đoạn trích này lột tả tình cảnh thê lương của các cặp vợ chồng trẻ trong thời chiến tranh ác liệt.
Nỗi đau đớn dâng trào ngay từ những câu thơ mở đầu:
'Chàng thì đi cõi xa mưa gió
Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn
Đoái trông theo đã cách ngăn
Tuôn màu mây biếc trải ngàn núi xanh'
Không gian đối lập giữa người chinh phụ và chinh phụ cõi xa mưa gió tan tác đao binh chưa biết ngày trở về. Thiếp ở buồng cũ cô đơn, trong khi chàng đối mặt với hiểm nguy ở chiến trường. Sự đối lập này được tác giả biểu hiện một cách tinh tế. Tình yêu của họ bị ngăn cách, chia xa. Người vợ trẻ 'đoái trông theo' nhưng không thấy gì ngoài sự cách biệt. Từ 'đoái' mang nặng nề và đau đớn khi chứng kiến cảnh biệt ly. Ở câu thơ cuối, từ 'tuôn' nhấn mạnh chiều dài và rộng lớn của sự chia xa. Màu xanh của đất trời khiến lòng người thêm nặng nề và u sầu hơn.
Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại
Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang
Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương
Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng.
Đặc biệt ở khổ thơ cuối thì nỗi đau càng trở nên quặn thắt và não nề hơn:
Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một màu
Lòng chẳng ý thiếp ai sầu hơn ai?
Điệp từ 'cùng' cho thấy tâm trạng luyến tiếc, xót xa và sự đấu tranh ghê gớm trong tư tưởng của người chinh phụ, khi càng cố gắng trông lại để níu giữ, để khắc ghi thì người yêu thương càng xa hình khuất bóng. Điệp từ xanh điệp đi điệp lại liên tiếp gợi cảm giác mênh mông, heo hút, rợn ngợp của không gian. Nhà thơ dường như muốn mượn cái trống trải của không gian để nói cái trống vắng của lòng người. Cấp độ của màu xanh tăng tiến dần, giống như nỗi đau xót của người chinh phụ càng thêm da diết quặn thắt. Màu xanh ấy đâu chỉ gợi không gian mà dường như còn ám gợi đến sự chia phôi mãi mãi, giống như mùi doa xuyên thấu trái tim nàng bởi màu xanh vốn là màu của hi vọng nhưng trong câu thơ này nó lại là màu của li biệt, của đau thương, của những chuyện chẳng lành. Câu hỏi tu từ ở cuối đoạn trích như dao cứa 'Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?' Hỏi người nhưng cũng là tự hỏi bản thân mình. Hỏi người có sầu hơn không nhưng câu thơ lại không có ý so sánh ai sầu hơn ai. Dường như nó chỉ muốn nhấn mạnh rằng nỗi sầu thương đã rơi vào bế tắc đến cùng cực mà thôi. Và như thế người chinh phụ đã đến cực điểm của đau đớn, của khắc khoải và sọ hãi. Nỗi sợ cô đơn, sợ chia li, sợ không thể tương phùng. Qua đây nhà thơ như muốn đòi quyền sống hạnh phúc cho người phụ nữ nhằm tố cáo chiến tranh phi nghĩa đã cướp đi cuộc sống hôn nhân hạnh phúc gia đình của biết bao cặp vợ chồng trẻ.
Người phụ nữ luôn là tâm điểm của văn chương muôn đời, những đau đớn bất công mà họ phải trải qua đã khơi nguồn cho mạch nguồn nhân đạo của văn học, để từ đó nói lên một cách đầy đủ, sâu sắc nhất số phận người phụ nữ trong xã hội xưa. Bằn tấm lòng nhân đạo và tài năng nghệ thuật trong việc khắc họa diễn biến tâm lí nhân vật, tác giả của 'Sau phút chia li' đã thực sự chinh phục trái tim bạn đọc mà gửi tiếng thơ kêu gói sự tri âm đồng cảm muôn đời cho thân phận người phụ nữ.
Phân tích đoạn trích Sau phút chia li - Mẫu 4
'Chinh phụ ngâm khúc' của Đặng Trần Côn là một tác phẩm văn vần vô cùng có ý nghĩa, phản ánh nỗi mất mát, đau khổ của người chinh phụ có chồng ra chiến trận trong bối cảnh rối ren của thời đại nói riêng và nỗi đau thương mất mát của con người thời chiến nói chung. Đoạn trích: 'Sau phút chia li' trích trong khúc ngâm diễn tả nỗi nhớ da diết của người chinh phụ sau khi tiễn chồng ra lên đường ra 'nơi binh đao loạn lạc'. Đọc đoạn trích, ta xót xa biết bao trước những ám ảnh cảm xúc mà con người phải gánh chịu bởi chiến tranh.
Hai câu đầu đoạn trích như một lời kể của nhân vật về việc tiễn chồng ra chiến trận:
Chàng thì đi cõi xa mưa gió
Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn
'Chàng' và 'thiếp' rõ ràng là đôi phu thê mặn nồng tình ái nhưng không thể như lẽ thường tình, được bên nhau vui vầy mà mỗi người một nơi. Người chinh phu thì cất bước ra đi đến nơi biên ải xa xôi, ở nơi đó không biết có bao 'mưa gió mịt mùng' mà chẳng ai biết sẽ đợi chờ. Còn người chinh phụ thì về nơi xưa chốn cũ, căn buồng của đôi trẻ chờ ngày tái ngộ. Hai từ đối lập 'đi'- 'về' trong hai câu tạo nên sự ngăn cách, đôi người đôi ngả cho đôi lứa yêu nhau. Mới ở đó mà ta đã thấy thoáng vị chia phôi.
Người chinh phụ giống như phần nào nhận ra sự cách trở giữa đôi bên khi mà:
Đoái chờ mong, đôi mắt theo dõi đã bị cách trở
Mây trôi nhẹ, bao phủ núi non xanh mướt.
Sự ngăn cách giữa đôi phu thê không phải là một bức tường cao vút hay một thôn làng xa xôi tận chân trời, mà chỉ có thể được mô tả bằng vẻ hùng vĩ rộng lớn của thiên nhiên bao la. Khi nhìn theo hướng người chồng ra đi, người vợ chỉ thấy những đám mây trôi, nhìn thấy dãy núi xanh mướt, như là biểu tượng cho sự xa cách vô tận, một khoảng cách không thể đong đếm được.
Ở nơi Hàm Dương, chàng còn quay lại
Ở bến Tiều Dương, thiếp mong chờ đón nhận
Khói Hàm Dương cách xa nơi Tiều Dương
Cây Hàm Dương và Tiều Tương cách nhau vô hạn.
Trong những câu thơ tiếp theo, những địa danh cụ thể được nhắc đến, Hàm Dương là nơi người chồng đi và bến Tiều Dương là quê nhà của người vợ đang chờ đợi. Sự xa cách giữa khói Hàm Dương và khói Tiều Dương, giữa cây Hàm Dương và cây Tiều Dương có thể là biểu hiện của sự chia xa giữa con người. Mặc dù họ đang ở xa nhau, nhưng họ vẫn nhìn về hướng của nhau, luôn cố gắng tìm kiếm cơ hội để gặp nhau trong không gian xa xôi, dù biết rằng điều đó có thể là vô ích. Trong tận sâu thẳm của tâm hồn, cả hai đều có một niềm khao khát để có thể ở bên nhau trong tình yêu đôi lứa. Nhưng hiện thực lại là nghiệt ngã khi mà cả hai:
Cùng nhìn về phía trước, nhưng không gặp được nhau
Nhìn thấy những đám mây xanh biếc trải dài
Vì khoảng cách vật lý quá xa, dù họ cùng nhìn về phía trước, cố gắng tìm kiếm bóng dáng người thương, họ chỉ có thể ngước nhìn vào một màu xanh xanh trải dài, một màu xanh nhạt nhòa, vô vị nhưng bao phủ cả không gian, hạn chế tầm nhìn và khóa kín hy vọng về sự xa cách.
Và vì vậy, một câu hỏi tự nhiên hiện lên từ tận đáy lòng:
Ngàn dâu xanh mướt một màu
Lòng ai sầu hơn ai?
Người phụ nữ này đang thể hiện nỗi buồn của mình hay lo lắng cho tình yêu của người chồng? Dù hiểu theo cách nào, câu hỏi này vẫn làm xoi lòng độc giả, phản ánh nỗi buồn sầu, lo lắng của người phụ nữ. Không còn niềm vui phấn khởi mong chờ ngày chồng trở về, mà chỉ thấy nỗi buồn thẫn thờ.
Có lẽ điều chung nhất trong nỗi đau của con người là sự chia lìa. Sự chia lìa là nguồn gốc của nhiều nỗi buồn của con người, đặc biệt trong tình yêu đôi lứa. Đặng Trần Côn đã nhìn ra nỗi mất mát lớn này và thể hiện sự đồng cảm với số phận đau buồn trong cảnh chia lìa.