Hồ Chí Minh - một nhân vật vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Cuộc đời của Người gắn liền với lịch sử đất nước. Mytour sẽ cung cấp tài liệu Bài văn mẫu lớp 7: Viết bài văn tường thuật về sự kiện liên quan đến Bác Hồ.
Tài liệu bao gồm dàn ý và 7 bài văn mẫu lớp 7. Hãy cùng theo dõi nội dung chi tiết được đăng tải ngay sau đây.
Dàn ý viết bài văn kể về một sự kiện liên quan đến Bác Hồ
(1). Khởi đầu
Giới thiệu về nhân vật và sự kiện có liên quan: Bác Hồ.
(2). Nội dung chính
- Tóm tắt lại quá trình diễn ra của sự kiện theo thứ tự (thời gian, địa điểm…).
- Liên kết sự kiện với nhân vật lịch sử, sử dụng cả phần kể chuyện và mô tả.
- Ý nghĩa của sự kiện được nêu rõ: Những bài học quý giá mà Bác Hồ muốn truyền đạt…
(3). Đóng điệu
Tổng kết ý nghĩa của sự việc, chia sẻ cảm nhận của tác giả về nhân vật: Bác Hồ.
Viết bài văn kể lại một sự kiện gắn liền với Bác Hồ - Mẫu 1
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một biểu tượng về phẩm hạnh. Nhiều câu chuyện về cuộc đời của Người truyền đạt những thông điệp quý báu.
Khi sống ở Việt Bắc, mỗi lần đi công tác, Bác luôn có hai đồng chí đi kèm. Người ta muốn giúp Bác mang ba lô nhưng Bác từ chối. Ngài nói:
- Đi qua rừng, leo núi ai cũng mệt mỏi, nhưng khi chia sẻ gánh nặng, mỗi người lại cảm thấy nhẹ nhõm hơn. Họ chia đều đồ đạc cho ba người.
Hai đồng chí phải làm theo lời Bác, phân chia đồ đạc vào ba chiếc ba lô. Bác hỏi lại:
- Các bạn đã chia đồ đều chưa?
Hai đồng chí trả lời:
- Dạ, chúng tôi đã chia đều rồi ạ!
Sau đó, cả ba bắt đầu hành trình. Sau một đoạn đường, khi nghỉ ngơi, Bác đến gần các đồng chí và nâng chiếc ba lô lên. Ngài hỏi:
- Tại sao ba lô của các bạn nặng mà của Bác lại nhẹ?
Bác mở ra và thấy bên trong ba lô chỉ có chăn màn.
Bác không đồng ý và nói:
- Chỉ có lao động thực sự mới mang lại hạnh phúc cho con người.
Bác yêu cầu hai đồng chí phải chia đều đồ đạc vào ba chiếc ba lô.
Câu chuyện này thể hiện rõ sự công bằng của Bác Hồ. Ngài cũng đặc biệt tôn trọng lao động, tin rằng chỉ có lao động mới mang lại hạnh phúc cho con người. Chúng ta hãy học tập tích cực và làm theo tấm gương của Bác.
Viết bài văn kể về một sự kiện có liên quan đến Bác Hồ - Mẫu 2
Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 đánh dấu một cột mốc quan trọng trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Đây là tuyên bố được viết bởi Chủ tịch Hồ Chí Minh - người lãnh đạo được mến mộ của dân tộc.
Cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, tại quảng trường Ba Đình (Hà Nội), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, đánh dấu sự ra đời của nước Việt Nam mới.
Sự xuất hiện của bản Tuyên ngôn Độc lập có tầm quan trọng không thể phủ nhận. Một trong những khoảnh khắc đầu tiên đáng chú ý là vào ngày 4 tháng 5 năm 1945, Bác Hồ rời Pác Bó để đến Tân Trào. Vào giữa tháng 5, Người liên hệ với trung úy Giôn, đại diện của OSS (Tổ chức Dịch vụ Chiến lược Mỹ), yêu cầu gửi một máy bay thả dù để lấy bản Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ.
Vào ngày 22 tháng 8 năm 1945, Bác Hồ rời Tân Trào để trở về Hà Nội. Tối ngày 25 tháng 8 năm 1945, Người về quê hương và ở tại tầng 2 của căn nhà số 48 Hàng Ngang. Vào sáng ngày 26 tháng 8 năm 1945, Bác tổ chức một cuộc họp Thường vụ Trung ương Đảng, nơi Người và các lãnh đạo bàn thảo về các vấn đề bao gồm chủ trương nội và ngoại trạng mới; công bố danh sách các thành viên của Chính phủ lâm thời; và chuẩn bị cho việc đọc bản Tuyên ngôn Độc lập cũng như tổ chức một cuộc biểu tình lớn tại Hà Nội để giới thiệu Chính phủ lâm thời với toàn dân.
Vào ngày 27 tháng 8 năm 1945, Bác Hồ tiếp các bộ trưởng mới của Chính phủ và đề xuất rằng Chính phủ nên tổ chức một sự kiện ra mắt quốc gia để đọc Tuyên ngôn Độc lập. Bác Hồ cũng đề xuất bản thảo của mình và yêu cầu các thành viên tham gia xem xét kĩ lưỡng, vì không chỉ là việc đọc cho toàn dân nghe, mà còn là việc truyền đạt cho Chính phủ Pháp và nhân dân Pháp cũng như các quốc gia đồng minh.
Trong hai ngày 28 và 29 tháng 8 năm 1945, Bác Hồ làm việc tại 12 Ngô Quyền (trụ sở chính của Chính phủ lâm thời) và dành thời gian lớn để soạn thảo bản Tuyên ngôn Độc lập. Buổi tối tại căn nhà số 48 Hàng Ngang, Bác Hồ tự mình gõ máy bản Tuyên ngôn Độc lập trên một chiếc bàn tròn.
Vào ngày 30 tháng 8 năm 1945, Bác Hồ mời các đồng chí đến để trao đổi ý kiến và đóng góp cho bản Tuyên ngôn Độc lập. Người đọc bản thảo và lắng nghe ý kiến từ mọi người. Đến ngày 31 tháng 8, Bác Hồ đã thêm một số ý kiến vào bản Tuyên ngôn. Cuối cùng, bản Tuyên ngôn Độc lập đã được hoàn thiện và công bố chính thức.
Vào lúc 14 giờ chính xác ngày 2 tháng 9 năm 1945, tại quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, đánh dấu sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Tuyên ngôn Độc lập được xem là một tài liệu lịch sử quan trọng, thông báo với dân tộc và thế giới về việc kết thúc chế độ thực dân, phong kiến ở Việt Nam và bắt đầu kỷ nguyên độc lập và tự do của đất nước. Quá trình viết Tuyên ngôn Độc lập là minh chứng cho sự chuẩn bị cẩn thận cũng như trí tuệ và tầm nhìn của một lãnh tụ vĩ đại - Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Viết bài văn kể một sự kiện có liên quan đến Bác Hồ - Mẫu 3
Chủ tịch Hồ Chí Minh là biểu tượng yêu quý của dân tộc Việt Nam. Cuộc đời của Người là một hành trình dành cho tổ quốc và nhân dân. Nhiều sự kiện liên quan đến Bác đã được ghi chép lại.
Câu chuyện dưới đây diễn ra trước khi Bác Hồ bước ra khỏi Sài Gòn để khởi nghĩa. Tại đó, Bác Hồ có một người bạn tên là Lê. Một ngày nọ, Bác Hồ hỏi ông Lê:
- Anh yêu nước không?
Bác Lê đáp:
- Dĩ nhiên!
- Anh có thể giữ bí mật không?
- Dĩ nhiên!
- Tôi muốn ra nước ngoài để tìm hiểu Pháp và các quốc gia khác xem họ thực hiện như thế nào. Sau đó, tôi sẽ trở về và giúp đỡ đồng bào chúng ta. Nhưng đi một mình thì quá mạo hiểm. Anh có muốn đi cùng tôi không?
Bác Lê bất ngờ:
- Nhưng chúng ta có tiền để đi không?
- Đây này, tiền đây!
Bác Hồ nói xong, ông giơ hai tay lên và tiếp tục:
- Chúng ta sẽ làm mọi điều để sống và tiến lên. Anh sẽ đi cùng tôi phải không?
…
Và sau đó, vào ngày 5 tháng 6 năm 1911, từ Bến Nhà Rồng, chỉ có một người thanh niên tên là Nguyễn Tất Thành (sau này là Văn Ba) lên đường sang Pháp. Bác đã xin làm việc như một phụ bếp trên con tàu buôn Đô đốc Latouche-Tréville.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là biểu tượng của sự kiên trì và dũng cảm. Bác đã nảy ra ý tưởng và quyết tâm thực hiện, điều đó cũng bắt nguồn từ tình yêu quê hương và lòng nhân ái sâu sắc.
Do đó, Bác Hồ là nguồn cảm hứng sáng ngời để mọi người học tập. Mỗi câu chuyện về Bác đều mang ý nghĩa và đáng quý trọng.
Viết bài văn kể về sự việc liên quan đến Bác Hồ - Mẫu 4
Hồ Chí Minh (19.5.1890 - 2.9.1969) là một nhà lãnh đạo vĩ đại của dân tộc và cách mạng Việt Nam.
Có nhiều câu chuyện về Bác được kể. Qua mỗi câu chuyện, người đọc, người nghe có thể thấy những phẩm chất tốt đẹp của Bác. Một trong số đó là câu chuyện kể về một đồng chí cán bộ trong Trung đoàn thường hay la mắng chiến sĩ trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Đồng chí này cũng là người đã bảo vệ và giúp đỡ Bác Hồ khi Người đi ra nước ngoài trước Cách mạng tháng Tám.
Nghe những phản ảnh từ nhân dân về đồng chí này, một ngày nào đó, Bác đã gọi lên Việt Bắc. Bác dặn trạm đón tiếp, dù đồng chí này có đến sớm, cũng phải chờ tới trưa mới được vào gặp Bác. Trong một ngày nắng chang chang của mùa hè, đồng chí Trung đoàn đi bộ đúng giờ và vã cả mồ hôi. Khi đến nơi, Bác đã sẵn lòng đợi. Trên bàn có hai cốc nước, một cốc nước sôi nhưng vừa mới rót, bốc hơi nghi ngút, và một cốc nước lạnh.
Sau khi chào hỏi, Bác chỉ vào cốc nước nóng và nói:
- Uống đi cháu.
Đồng chí cán bộ lên tiếng:
- Ôi trời! Nắng như thế này mà Bác lại cho nước nóng, cháu không thể uống được đâu.
Bác mỉm cười và nói:
- Vậy à. Cháu thích uống nước lạnh, mát phải không?
- Vâng ạ!
Bác mặt nghiêm nói:
- Nước nóng không phải ai cũng uống được, cả chú và tôi đều thế. Khi quá nóng, không chỉ chú mà cả đồng đội của chú và tôi cũng không tiếp thu được. Sự nhẹ nhàng, điềm đạm cũng giống như cốc nước lạnh, dễ uống và dễ tiếp thu hơn.
Đồng chí cán bộ nghe xong, hiểu được ý Bác và hứa sẽ điều chỉnh.
Câu chuyện này chứa đựng bài học về cách ứng xử. Có thể thấy, Bác Hồ là tấm gương sáng để mỗi người noi theo.
Viết bài văn kể lại sự việc liên quan đến Bác Hồ - Mẫu 5
Bác Hồ là người lãnh đạo được mọi người yêu quý của dân tộc Việt Nam. Ngài không chỉ chỉ dẫn đường cho cuộc cách mạng mà còn dẫn dắt nhân dân chiến đấu để giành lại độc lập cho quê hương.
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công rực rỡ. Vào ngày 2 tháng 9 năm 1945, tại quảng trường Ba Đình (Hà Nội), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đại diện cho Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam mới.
Sự ra đời của bản Tuyên ngôn Độc lập có ý nghĩa to lớn. Mốc thời gian quan trọng nhất là vào ngày 4 tháng 5 năm 1945, khi Bác Hồ rời Pác Bó về Tân Trào. Trong tháng đó, Ngài yêu cầu trung úy Giôn, một người làm việc cho OSS (Cơ quan phục vụ chiến lược của Mỹ) tới Côn Minh, và đề nghị họ thả dù cho Ngài mang theo Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ.
Vào ngày 22 tháng 8 năm 1945, Bác rời Tân Trào và trở về Hà Nội. Vào tối ngày 25 tháng 8 năm 1945, Ngài vào nội thành và ở tại tầng 2 của căn nhà số 48 Hàng Ngang. Sáng ngày 26 tháng 8 năm 1945, Bác triệu tập cuộc họp Thường vụ Trung ương Đảng để thảo luận về các vấn đề như chủ trương nội, ngoại trong tình hình mới; công bố danh sách các thành viên Chính phủ lâm thời; chuẩn bị ra Tuyên ngôn Độc lập, và tổ chức mít tinh lớn ở Hà Nội để giới thiệu Chính phủ lâm thời với toàn bộ nhân dân.
Vào ngày 27 tháng 8 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp nhận các bộ trưởng mới tham gia Chính phủ và đưa ra đề nghị Chính phủ ra mắt toàn dân, đọc bản Tuyên ngôn Độc lập mà Ngài đã chuẩn bị. Bác Hồ trình bày bản thảo và yêu cầu các thành viên phải xem xét kỹ lưỡng vì không chỉ dành cho người dân Việt Nam nghe mà còn dành cho Chính phủ Pháp và nhân dân Pháp, cũng như các nước đồng minh nghe.
Trong hai ngày 28 và 29 tháng 8 năm 1945, Bác Hồ đến làm việc tại 12 Ngô Quyền (trụ sở chính của Chính phủ lâm thời) và dành phần lớn thời gian để soạn thảo bản Tuyên ngôn Độc lập. Buổi tối tại căn nhà số 48 Hàng Ngang, Chủ tịch đã tự mình đánh máy bản Tuyên ngôn Độc lập trên một cái bàn tròn.
Vào ngày 30 tháng 8 năm 1945, Bác Hồ mời các đồng chí đến để trao đổi, đóng góp ý kiến cho bản Tuyên ngôn độc lập. Ngài đọc cho mọi người nghe, hỏi ý kiến của từng người. Đến ngày 31 tháng 8, Bác Hồ đã bổ sung một số ý vào bản Tuyên ngôn. Bản Tuyên ngôn Độc lập chính thức được hoàn thiện.
Đúng 14 giờ ngày mùng 2 tháng 9 năm 1945, tại quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Có thể khẳng định rằng, Tuyên ngôn Độc lập là văn kiện lịch sử tuyên bố trước quốc dân và thế giới về việc chấm dứt chế độ thực dân, phong kiến ở nước ta, đánh dấu kỷ nguyên độc lập, tự do của nước Việt Nam mới. Quá trình viết Tuyên ngôn Độc lập đã thể hiện sự chuẩn bị kỹ lưỡng cũng như trí tuệ và tầm nhìn của một vị lãnh đạo - Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Viết bài văn kể về sự kiện liên quan đến Bác Hồ - Mẫu 6
Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ được lòng mọi người dân Việt Nam. Cuộc đời của Người là một tấm gương sáng rọi mà mỗi người Việt có thể học hỏi. Những câu chuyện về Người luôn dành lại cho chúng ta những bài học ý nghĩa.
Trong những năm tháng sống ở Việt Bắc, mỗi khi đi công tác, Bác luôn có hai đồng chí đi kèm. Lo lắng cho sức khỏe của Bác, hai đồng chí muốn chia sẻ việc mang ba lô giúp Bác. Tuy nhiên, Bác từ chối và nói:
- Đi qua đường rừng, leo núi ai cũng mệt, nếu phân phối đồ đạc cho một người mang thì họ sẽ càng mệt hơn. Hãy chia đều ra cho cả ba người.
Hai đồng chí phải tuân theo lời Bác, phân chia vật dụng vào ba chiếc ba lô. Bác hỏi lại:
- Các chú đã phân chia đồ đạc đều chưa?
Hai đồng chí trả lời:
- Dạ, đã xong ạ!
Sau đó, cả ba cùng bắt đầu hành trình. Khi nghỉ ngơi, Bác đến gần và nhấc chiếc ba lô lên. Bác hỏi:
- Tại sao ba lô của các chú nặng mà của Bác lại nhẹ thế này?
Bác mở ba lô ra và phát hiện chỉ có chăn màn bên trong.
Bác tỏ ra không hài lòng và nói:
- Chỉ có lao động thực sự mới mang lại hạnh phúc cho con người.
Sau đó, Bác yêu cầu hai đồng chí phải chia đồ đạc đều vào ba chiếc ba lô mới có thể tiếp tục hành trình.
Câu chuyện nhỏ nhưng chứa đựng bài học lớn. Bác là một người yêu công việc. Suốt đời Người làm việc, từ những công việc lớn như cứu nước đến những công việc nhỏ như trồng cây trong vườn. Bác tự làm mọi việc có thể tự mình hoàn thành. Cách sống của Bác giúp mọi người nhận ra giá trị của lao động và có ý thức tự giác học tập và làm việc.
Thực sự, những câu chuyện về cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh mang ý nghĩa sâu sắc. Từ đó, chúng ta luôn rút ra được nhiều bài học quý báu cho bản thân.
Viết bài văn kể lại sự việc liên quan đến Bác Hồ - Mẫu 7
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người lãnh đạo được người dân yêu mến của Việt Nam. Có nhiều câu chuyện về cuộc đời của Người, từ đó ta thấy những phẩm chất tốt đẹp của Người.
Vào giữa mùa thu năm 1954, Bác tham dự Hội nghị về cải cách ruộng đất ở Hà Bắc. Tại đây, khi biết có lệnh rút bớt cán bộ để đi học, mọi người đều mong muốn được đi, đặc biệt là những người quê ở Hà Nội. Bác đặt câu hỏi về chức năng của từng bộ phận của một chiếc đồng hồ để làm sáng tỏ vấn đề.
Trong bầu không khí nóng nực của mùa thu, mồ hôi ướt đẫm hai bên áo nâu của Bác. Bác bắt đầu bằng việc thảo luận về tình hình thời sự và sau đó, Bác rút ra một chiếc đồng hồ từ túi áo và hỏi về chức năng của từng bộ phận của nó trước khi đặt ra câu hỏi cho các đồng chí.
- Trong chiếc đồng hồ, phần nào quan trọng nhất?
Mọi người im lặng, không ai đáp:
- Trong chiếc đồng hồ, có được bỏ một phần không?
- Thưa, không thể ạ!- Các cán bộ đồng thanh trả lời.
Nghe mọi người trả lời, Bác giơ cao chiếc đồng hồ và kết luận:
- Các ông ạ, các phần của một chiếc đồng hồ giống như các cơ quan của một Nhà nước, như những nhiệm vụ của cách mạng. Nhiệm vụ cách mạng nào cũng quan trọng, cần phải thực hiện. Các ông thử nghĩ xem: Trong một chiếc đồng hồ, kim đòi làm số, máy lại muốn ra ngoài làm mặt đồng hồ… Cứ tranh nhau vị trí như vậy thì chiếc đồng hồ còn có thể hoạt động được không?
Nghe xong, toàn bộ hội trường lặng thinh. Mỗi người đều có những suy nghĩ riêng về lời nói của Bác.
Vào cuối năm 1954, Bác đến thăm một đơn vị pháo binh tại Bạch Mai đang luyện tập để chuẩn bị cho cuộc diễu binh kỷ niệm chiến thắng Điện Biên Phủ. Sau khi thăm quan nơi ăn ở, nơi nghỉ ngơi của các chiến sĩ, Bác đã trò chuyện cùng họ. Bác lấy ra một chiếc đồng hồ quả quýt từ túi và chỉ vào từng chi tiết, hỏi các em về chức năng của từng phần. Mọi người đều trả lời đúng. Nhưng chưa ai hiểu tại sao Bác nói như vậy?
Bác tươi cười nói tiếp:
- Đã bao năm, kim đồng hồ vẫn quay để chỉ ra giờ, số trên mặt vẫn ở yên một chỗ, bộ máy vẫn hoạt động đều đặn bên trong. Tất cả đều làm việc theo sự phân công. Nếu đảo ngược vị trí của từng bộ phận, liệu chiếc đồng hồ còn hoạt động được không? Sau câu chuyện của Bác, mọi người hiểu ý Bác muốn nói: Việc gì cách mạng giao cho phải tự tin hoàn thành.
Ngoài ra, chiếc đồng hồ quả quýt còn là biểu tượng quý báu của lòng biết ơn quốc tế dành cho Bác. Đây là món quà do Tổ chức Quốc tế 'Cứu Tế đỏ' trao tặng, Bác luôn giữ nó bên mình, từ những thời kỳ giam cầm đau khổ đến khi Việt Nam giành được độc lập.
Câu chuyện về chiếc đồng hồ đã phản ánh rõ những phẩm chất tốt đẹp của Bác Hồ, cùng với bài học sâu sắc mà Người muốn truyền đạt cho các cán bộ, chiến sĩ của mình.