Bài văn mẫu lớp 8: Cảm nhận về các nhà lãnh đạo qua bài Chiếu dời đô và Hịch tướng sĩ là tài liệu được chúng tôi sưu tầm và chia sẻ tại đây.
Trong lịch sử Việt Nam, có nhiều nhà lãnh đạo đã đóng góp sức lực để xây dựng đất nước. Dưới đây là một số bài văn mẫu lớp 8: Cảm nhận về các nhà lãnh đạo qua bài Chiếu dời đô và Hịch tướng sĩ, mời thầy cô và các bạn tham khảo.
Những nhân vật lãnh đạo trong Chiếu dời đô và Hịch tướng sĩ - Mẫu 1
Lí Công Uẩn và Trần Quốc Tuấn đều là những nhà lãnh đạo tài ba, hiểu biết sâu rộng về tình hình quốc gia. Đối với một quốc gia, nhớ đến các nhà lãnh đạo là nhớ đến những người đứng đầu của các bộ máy chính trị, quân sự, văn hoá...
Đứng ở vị trí của một nhà lãnh đạo, trước hết họ phải là những người có tầm nhìn xa, hiểu rõ về tình hình quốc gia, từ đó đặt ra nhiệm vụ phù hợp với cả dân tộc.
Lí Công Uẩn và Trần Quốc Tuấn đều là những nhà lãnh đạo tài ba, hiểu biết sâu rộng về tình hình quốc gia. Vua đầu tiên của triều Lý đã kể về việc di dời đô của vua Bàn Canh của nhà Thương, nhà Chu. Trần Quốc Tuấn lại lấy ví dụ về các anh hùng như Do Vu, Dự Nhượng, Kỉ Tín,..., thể hiện tinh thần 'kiêng cố' để 'cải tiến' là một trong những phẩm chất quan trọng của một nhà lãnh đạo. Từ việc 'nhớ những sự kiện cũ', những nhà lãnh đạo tài ba đã biểu lộ khả năng 'nhìn nhận vấn đề mới, tình hình hiện nay' rất thông minh.
Nhà Đinh, Lê 'không lặp lại sai lầm của triều Thương, Chu' giữ nguyên vị thế của kinh đô tại Hoa Lư mà Hoa Lư chỉ là nơi núi rừng nguy hiểm, khắc nghiệt. Điều đó gây khó khăn cho sự phát triển của đất nước. Lịch sử đã chứng minh điều này, hai triều Đinh, Lê có thời kỳ triều vận ngắn ngủi, nhân dân gặp nhiều khó khăn... Có thể nói, việc phê phán hai triều Đinh, Lê một phần lớn đã thể hiện tầm nhìn lãnh đạo của Lí Công Uẩn. Ông đã nhận ra một sự thật quan trọng: đất nước đang tiến vào thời kỳ bình yên, Hoa Lư không còn phù hợp với vị thế của kinh đô nữa!
Trần Quốc Tuấn cũng như vậy. Từ việc giặc Nguyên Mông xâm lược lần một và tư duy của chúng hiện nay, ông đã nhận biết rõ nguy cơ của một cuộc chiến chống lại sự xâm lược. Ở nước ta, quân Nguyên Mông 'đặt nhiều bẫy để chỉ trích triều đình, dùng những phương tiện tàn ác để bắt nạt nhân dân', 'di chuyển tự do', ép dân ta đóng thuế tài nguyên, vàng bạc... Do đó, rõ ràng, chúng vẫn chưa học từ bài học của thất bại của cuộc xâm lược lần trước và đang âm mưu một cuộc chiến tranh cướp bóc lần hai.
Giặc như vậy còn sức mạnh quân sự của chúng ta thì sao? Nguyên soái cảm thấy đau lòng khi nhìn thấy binh sĩ dưới quyền mất cảnh giác trước nguy cơ mất nước. Họ 'thích chơi gà, hoặc mê tiếng hát', chơi cờ... Ông chỉ trích rằng khi giặc đến những sở thích ấy chỉ trở thành tai họa, không thể làm tổn thương địch, không thể làm cho giặc điếc, 'mẹo đánh cờ không thể sử dụng làm chiến lược quân sự'...
Từ việc hiểu biết rõ tình hình của đất nước, các nhà lãnh đạo thông minh đều xác định nhiệm vụ của quân đội và dân. Quan trọng là họ có những quyết định chính xác và hành động dũng cảm để đưa đất nước đến với sự bình yên và phát triển.
Lí Thái Tổ quyết định dời đô khỏi Hoa Lư và hướng đến thành Đại La. Ông nhận thức được vị thế của thành Đại La trong việc phát triển đất nước và đưa ra quyết định đúng đắn là chọn thành Đại La làm trung tâm quốc gia.
Trần Quốc Tuấn trong vai trò Tổng chỉ huy cuộc kháng chiến chống lại quân Nguyên Mông đã khẳng định ý chí chiến đấu của toàn dân tộc và khuyến khích tinh thần chiến đấu của binh sĩ. Ông khuyên binh sĩ phải 'kiềng cản những lúc nóng mà suy nghĩ khi đầu óc lạnh lùng', phải rèn luyện để sẵn sàng chiến đấu. Không chỉ thế, ông còn soạn thảo 'Binh thư yếu lược' để hướng dẫn binh sĩ tập luyện, rèn quân.
Những người lãnh đạo qua Chiếu dời đô và Hịch tướng sĩ - Mẫu 2
Thời kỳ nào cũng cần có người lãnh đạo, từ phong kiến đến dân chủ, họ đều có vai trò quan trọng trong việc dẫn dắt và giáo dục những người khác, giúp họ làm những điều tốt cho đất nước và xã hội. Ngày xưa, nhà nước phong kiến với hệ thống quan lại và vua, đặc biệt là vị vua, có ảnh hưởng lớn đối với quốc gia. Thông qua việc tìm hiểu về hai văn bản “Chiếu dời đô” của Lý Công Uẩn và “Hịch tướng sĩ” của Trần Hưng Đạo, ta sẽ hiểu rõ hơn về vấn đề này.
“Quan nhất thời, dân vạn đại”, tức là vị vua không chỉ đơn thuần là người lãnh đạo, mà còn có nguồn gốc từ nhân dân. Cả hai vị vua – Lý Công Uẩn và Trần Quốc Tuấn đều hiểu điều này. Trong bài chiếu “Chiếu dời đô”, Lý Công Uẩn nhấn mạnh vào sự thấu hiểu về lợi ích của việc dời đô đến Đại La và muốn nghe ý kiến của quần thần, dân chúng: “… các khanh thấy thế nào?”. Bài “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn lại tập trung vào thời kỳ loạn lạc, nơi quân dân cần đoàn kết để chống lại giặc, với thông điệp mộc mạc nhưng sâu sắc, chạm vào lòng yêu nước của hàng vạn người dân.
Dân là nền tảng của quốc gia, và người lãnh đạo phải nâng đỡ nền tảng đó. Quan trọng nhất là phải được lòng dân, đối đãi với họ một cách công bằng để đất nước phát triển và tồn tại. Lý Công Uẩn và Trần Quốc Tuấn đều là những người lãnh đạo hiểu rõ điều này. Thông qua việc lựa chọn kinh đô ở Đại La, Lý Công Uẩn đã thể hiện tầm nhìn và sự quan tâm đến hạnh phúc của nhân dân.
Trần Quốc Tuấn cũng có phương pháp lãnh đạo đầy uyên bác, với sự đồng lòng và nghiêm túc. Ông hiểu rằng sự đoàn kết với dân là chìa khóa cho sự thành công trong kháng chiến. Thông qua bài “Hịch tướng sĩ”, ông đã thể hiện sự thấu hiểu về tâm trạng và tình hình của dân, giúp họ đạt được chiến thắng.
Dân chúng là nền tảng của quốc gia, và người lãnh đạo sẽ nâng đỡ nền tảng đó. Quan trọng nhất là phải được lòng dân, đối đãi với họ một cách công bằng để đất nước phát triển và tồn tại. Lý Công Uẩn và Trần Quốc Tuấn đều là những người lãnh đạo hiểu rõ điều này. Thông qua việc lựa chọn kinh đô ở Đại La, Lý Công Uẩn đã thể hiện tầm nhìn và sự quan tâm đến hạnh phúc của nhân dân.
Ngoài những vị tướng lĩnh mạnh mẽ, luôn tồn tại những vị vua, vị tướng chỉ biết yếu đuối, vô trách nhiệm: Lê Ngọa Triều lên thiết triều chỉ để nằm, không ngồi; Mạc Đăng Dung tự trói mình rồi chạy sang Trung Quốc, nhượng đất nước cho Bắc quốc;… Những người đó, đã gây ra sự chao đảo cho quốc gia, thậm chí bán nước chỉ để cứu sống và bảo vệ tài sản của họ. Lúc đó, luôn có một vị lãnh đạo mạnh mẽ sẽ nổi lên, như một quy luật: thịnh vượng rồi suy tàn, suy tàn rồi thịnh vượng của quốc gia.
Trong thời đại hiện đại, vai trò của nhà lãnh đạo không còn như thời phong kiến. Tuy nhiên, vẫn có Đảng và Chính phủ đang nỗ lực không ngừng giúp đỡ đất nước, giống như những vị anh minh ngày xưa. Tôi sẽ cố gắng học tập từ họ để trở thành một người có ích, đưa Việt Nam phát triển và vươn xa trên trường quốc tế.
“Chiếu dời đô”, “Hịch tướng sĩ” cùng với các vị lãnh đạo như Lý Công Uẩn và Trần Quốc Tuấn đã gợi lên trong tôi nhiều suy tư. Tóm lại, những người lãnh đạo chính là những người định đoạt vận mệnh của đất nước, chính họ đã tạo nên Việt Nam ngày nay. Tôi rất biết ơn và tự hào về họ, về quốc gia Việt Nam.
Đánh giá về những nhà lãnh đạo qua Chiếu dời đô và Hịch tướng sĩ - Mẫu 3
Một vị tướng tài ba không chỉ cần có tài năng quân sự mà còn phải biết tôn trọng, chia sẻ và dạy bảo binh lính. Trần Quốc Tuấn đã thể hiện được điều đó. Ông luôn quan tâm và xem binh lính như những người anh em, dẫn dắt họ trong mỗi trận chiến và cả khi yên bình.
Lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam luôn liên kết với những tên tuổi anh hùng. Tài năng và đức độ cao cả của họ đã định đoạt đến vận mệnh của quốc gia. Đọc lại 'Chiếu dời đô' của Lí Công Uẩn và 'Hịch tướng sĩ' của Trần Quốc Tuấn, ta thấy rõ nhân cách và hành động vì dân vì nước của họ. Điều này giúp ta nhận ra vai trò quan trọng của những nhà lãnh đạo anh minh trong sự phát triển của dân tộc, dù đất nước đang lâm nguy hay trong thời kỳ thịnh vượng.
Khi đất nước đối diện nguy cơ bị xâm lược, cần có những vị tướng tài ba. Trần Quốc Tuấn đã ghi dấu sâu trong lịch sử và để lại dấu ấn về một nhà quân sự xuất sắc trong cuộc chiến chống giặc ngoại xâm. Ông là người gắn liền với những chiến thắng tại Bạch Đằng, Chương Dương, Hàm Tử, và đã dẹp tan ý đồ xâm lược của đế quốc Nguyên – Mông. Trần Quốc Tuấn luôn quan tâm đến vận mệnh của đất nước bằng trái tim và ý chí anh hùng.
Trước nguy cơ xâm lược từ quân Mông - Nguyên, Trần Quốc Tuấn đã viết 'Hịch tướng sĩ' để kêu gọi tất cả tướng sĩ đoàn kết chiến đấu. Ông thể hiện lòng lo lắng và lòng tự hào về dân tộc, và dành sự khinh bỉ cho kẻ thù. Ông sẵn lòng hy sinh bản thân để bảo vệ tự do và độc lập của quốc gia. Trần Quốc Tuấn là biểu tượng của sự yêu nước và tinh thần hy sinh vì dân tộc.
Một vị tướng tài ba không chỉ cần lòng yêu nước và tài năng quân sự mà còn phải biết dạy bảo binh sĩ. Trần Quốc Tuấn đã thể hiện được điều đó. Ông luôn quan tâm, chia sẻ, và xem binh sĩ như những người anh em trong mọi hoàn cảnh. Tình cảm của ông đã khơi dậy ngọn lửa yêu nước trong lòng họ. Ông cũng khắt khe phê phán những hành động thiếu trách nhiệm của binh sĩ, khuyến khích họ đoàn kết và học hỏi để bảo vệ tổ quốc.
Trong thời chiến, đất nước cần một vị vua anh minh biết lo cho dân. Lí Công Uẩn, người đầu tiên lập nên triều đại nhà Lí, là một trong những vị vua như vậy. Ông thông minh, nhân ái, có tầm nhìn lớn, và đã dẫn dắt dân tộc vượt qua thử thách bằng việc dời đô từ Hoa Lư sang Thăng Long. Hành động này đánh dấu sự trưởng thành của dân tộc và mang lại sự thịnh vượng cho quốc gia.
Người lãnh đạo qua Chiếu dời đô của Lí Công Uẩn và Hịch tướng sĩ của Trần Hưng Đạo góp phần quan trọng trong lịch sử dân tộc. Nhờ vào những quyết định và tinh thần hy sinh của họ, đất nước đã vượt qua thử thách và phát triển mạnh mẽ. Vai trò của họ được nhân dân tôn kính và gọi là Đức Thánh Trân.
Vào năm 1009, Lí Thái Tổ lên ngôi hoàng đế và năm 1010, ông đã dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long. Hành động này đánh dấu sự trưởng thành của dân tộc và khẳng định vị thế quốc gia. Trần Hưng Đạo, người đã để lại bài Hịch tướng sĩ và Binh thư yếu lược, là biểu tượng của sự anh minh và hy sinh vì dân tộc.
Dù là 'thiên tử' có quyền thay đổi mọi việc trên trời dưới đất, vua Lý Thái Tổ vẫn nhấn mạnh đến sự quan trọng của ý dân trong bài chiếu mở đầu. Ông viết: 'trên vâng mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu thuận tiện thì thay đổi'.
Theo Đại Việt sử kí toàn thư, vua Đinh Tiên Hoàng chọn Hoa Lư làm đô vì đất ở Đàm Thôn hẹp và thiếu hiểm trở. Mặc dù Hoa Lư chật hẹp và gặp nhiều nội loạn, nhưng không bị giặc xâm lược, điều này khiến vua Lý Thái Tổ buộc phải thay đổi.
Sau khi phân tích lý do muốn dời đô, vua Lý Thái Tổ cũng nhấn mạnh ưu điểm của vùng đất mới, Đại La. Đây là nơi trung tâm, địa thế rộng rãi, đất đai cao thoáng, giúp dân cư tránh khỏi cảnh khốn khổ ngập lụt.
Nhìn vào ưu điểm của Đại La, ta thấy vua Lý không chỉ muốn bảo vệ dân cư khỏi khó khăn mà còn muốn phát triển đất nước. Ông đánh giá cao địa thế và tầm nhìn xa lớn của nơi này.
Vua Lý Thái Tổ không chỉ quan tâm đến việc cải thiện đời sống dân cư mà còn ca ngợi những nhà lãnh đạo có tầm nhìn xa lớn. Ông nói: 'Các vua thời Tam Đại chuyển dời đô vì mục đích lâu dài, để tạo điều kiện cho con cháu phát triển'.
Dời đô lên Thăng Long, không chỉ mang lại lợi ích kinh tế mà còn làm cho việc bảo vệ quốc gia thuận tiện hơn. Khi kẻ xâm lược từ phương Bắc đến, mỗi con sông trở thành phòng thủ tự nhiên, và dân chúng trở thành lực lượng bảo vệ quê hương.
Dưới triều nhà Lý, chính quyền ổn định hơn hai trăm năm, với sự mở rộng vùng lãnh thổ và phát triển văn hóa giáo dục. Việc xây dựng Văn Miếu Quốc Tử Giám và tổ chức các kỳ thi tuyển talen từ năm 1070 đến năm 1075 là minh chứng rõ ràng cho sự phát triển đó.
Năm 1283, quân của vua Nguyên thất bại khi tấn công Chiến Thành. Năm sau, hoàng tử Thoát Hoan được phong làm Trấn Nam Vương để tiến công Đại Việt.
Tháng 12 năm 1284, tướng Nguyên là hoàng tử Thoát Hoan cùng quân đội tấn công Chi Lăng, buộc Vua Trần Nhân Tông phải rút lui. Trước sức mạnh địch, vua phải rời Đại La và mời Trần Hưng Đạo về Hải Dương để cứu vãn dân làm dân.
Khi đối diện với sự mạnh mẽ của quân địch, Trần Hưng Đạo đã đặt ra câu hỏi: 'Dân ta có nên chịu hàng để cứu lấy mọi người, hay phải chống lại đến cùng?'
'Lời nhân đức của bệ hạ có thể, nhưng nếu xã tắc không tuân thủ, hãy trừng phạt thần trước, sau đó mới xem xét hàng!'
Hịch tướng sĩ ra đời cùng với Binh thư yếu lược, đồng thời với việc đóng đô tại kinh đô nước Việt. Trần Quốc Tuấn viết Hịch tướng sĩ không chỉ là sự kêu gào của một văn nhân mà còn là tiếng gầm gừ của một đại tướng yêu nước kêu gọi quân đội đánh đuổi giặc.
Trần Quốc Tuấn viết Hịch tướng sĩ với tâm trạng căm hận sục sôi, gợi lên lòng dũng cảm của mọi người: 'Chúng ta lớn lên trong thời loạn lạc, chứng kiến sự xâm lược của kẻ giặc. Bây giờ, chúng ta không thể nhìn thời loạn này tiếp diễn mà không hành động!'
Trong khi Lý Thái Tổ ao ước non sông vĩnh cửu, Trần Quốc Tuấn hy sinh tất cả để phục hồi đất nước đã mất. Ông viết: 'Tôi không quan tâm đến việc ăn uống, ngủ ngày đêm. Tôi chỉ muốn thấy nước nhà được giải phóng!'
Trần Quốc Tuấn chỉ trích các tướng sĩ mê tiền, vui chơi hoặc lơ đãng việc quốc gia trong khi đất nước đang trong thời kỳ khó khăn: 'Họ thích chơi bạc, quên mất vai trò của mình là bảo vệ quốc gia!'
.............
Xin vui lòng tham khảo tài liệu chi tiết bên dưới!