Hãy tưởng tượng và kể lại cảnh con trai Lão Hạc quay trở về làng và đến thăm mộ cha với 9 bài văn mẫu, bao gồm 3 dàn ý chi tiết. Đây là cơ hội để các em sáng tạo và viết tiếp câu chuyện về Lão Hạc.
Trong câu chuyện ngắn về Lão Hạc, ta cảm nhận được nỗi khổ sở, cảnh đau đớn của ông vì muốn bảo vệ mảnh đất cho con trai. Hãy dùng trí tưởng tượng để kể lại cảnh con trai Lão Hạc quay về làng thăm mộ cha nhé!
Dàn ý: Kể lại cảnh con trai Lão Hạc trở về làng
Dàn bài số 1
1. Bắt đầu câu chuyện:
- Do không có tiền để cưới vợ, con trai của Lão Hạc rời làng đi làm việc ở Nam Kỳ.
- Sau nhiều năm xa cách, anh ta mới quay trở lại làng quê.
2. Nội dung chính:
* Các ngày con trai Lão Hạc trở về làng:
- Bầu không khí cách mạng trong làng đang rất sôi nổi. Tiếng trống, tiếng mõ vang khắp xóm thôn. Dân làng tụ tập lại để phá kho thóc của Người Nhật, ủng hộ Việt Minh giành lại quyền lực từ tay thực dân Pháp.
- Anh cảm thấy xót xa khi nhìn thấy căn nhà và mảnh vườn cũ đã hoang tàn.
- Anh đến thăm ông giáo hàng xóm để hỏi về cha mình.
- Ông giáo kể lại những câu chuyện và dẫn anh đến thắp hương trên mộ cha.
- Anh chia sẻ với người cha đã khuất rằng trong thời gian làm phu cao su ở Nam Kỳ, anh đã có được sự giác ngộ về cách mạng.
- Sau khi thu xếp việc nhà và cảm ơn bà con xóm đã giúp đỡ cha mình trong những ngày cuối đời, anh chuẩn bị ra đi.
3. Kết bài:
- Ông giáo tiễn anh ra khỏi.
- Từ phía sân ga, tiếng còi xe lại vang lên, thúc anh lên đường.
Dàn ý 2
1. Bắt đầu câu chuyện
- Khái quát
2. Thân bài
- Sau một thời gian làm việc ở đồn điền cao su, tôi đã quyết định trở về làng
- Làng tôi đã thay đổi rất nhiều, khi tôi về đến nhà, không còn nhận ra nổi, cây cối mọc um tùm, không thấy cha tôi ở đâu
- Tôi tìm ông giáo để hỏi
- Ông giáo kể về cái chết của Lão Hạc
- Ông giáo dẫn tôi đi viếng mộ Lão Hạc
- Trước mộ cha, tôi khóc và hối hận vì không ở bên chăm sóc cha
3. Kết bài
- Tổng kết lại và hứa sẽ làm việc chăm chỉ để bảo vệ tài sản mà cha để lại
Dàn ý 3
1. Mở bài
Giới thiệu tình huống của câu chuyện (trong vai con trai Lão Hạc kể chuyện): Đồn điền cao su đã không còn việc làm, bị khai thác quá mức, không đủ sức làm việc và bị bạn lừa tiền nên quyết định trở về quê sống gắn bó với ruộng đất và chăm sóc cha.
2. Thân bài
a. Ngày trở về
- Khung cảnh quê làng: không có sự thay đổi nhiều, mọi thứ vẫn nguyên vẹn; khi bước vào nhà thấy nhà cửa vẫn giữ nguyên nhưng lại trống vắng, lạnh lẽo, buồn bã.
- Dạo chơi khắp sân vườn tìm kiếm nhưng không gặp bố đâu, không thấy cả Cậu Vàng, nhiều vật dụng trong nhà bị bụi bẩn, mạng nhện trên khắp nhà. → Cảm thấy lo lắng, bất an.
- Sắp xếp đồ đạc gọn gàng rồi đi mua thêm đồ về nấu ăn. Bữa cơm sẵn sàng mà vẫn không thấy bố trở về, dấy lên lo lắng và quyết định đến nhà ông giáo - người bạn thân của bố để hỏi thăm.
b. Khi đến nhà ông giáo
- Ông giáo rất ngạc nhiên và thấy buồn bã khi nhìn thấy tôi.
- Tôi hỏi ông giáo rằng có biết bố mình đi đâu không, ông giáo ngập ngừng. Tôi cảm thấy có điều gì không ổn.
- Ông giáo mời tôi vào nhà nói chuyện, sau khi tôi ngồi xuống và uống nước, ông giáo từ từ kể lại những chuyện đã xảy ra với cha tôi. Tôi choáng váng, như cả thế giới sụp đổ trong một khoảnh khắc, không thể tin rằng bố mình đã ra đi mãi mãi. Tôi khóc nức nở khi ông giáo kể về cái chết đầy thương tâm của bố tôi.
- Tôi cảm thấy hối tiếc vì đã rời bỏ công việc ở đồn điền cao su, không ở bên quan tâm chăm sóc bố, thậm chí không biết rằng bố đã phải chịu đựng như thế nào trong những ngày cuối đời. Tôi trách mình vô cùng.
- Ông giáo khuyên tôi không nên quá buồn bã mà hãy sống tốt để bố dưới nghĩa trang được yên lòng.
c. Sau khi rời khỏi nhà ông giáo
- Tôi rất buồn bã, đau lòng. Giữ nỗi đau trong lòng, tôi sắp xếp nhà cửa gọn gàng. Ngày hôm sau nhờ ông giáo dẫn đến mộ bố, thắp nhang cho bố, hứa với bố sẽ sống thật tốt.
- Sau khi thăm mộ bố và trở về, tôi cố gắng sống tốt hơn, làm việc chăm chỉ, sống hòa hợp với hàng xóm, tiếp tục cuộc sống ý nghĩa thay cho bố.
3. Kết bài
Đó là kí ức đau đớn nhất trong cuộc đời tôi, đồng thời là bài học quý giá giúp tôi trân trọng cuộc sống hơn.
Tường thuật về việc con trai Lão Hạc trở về làng - Mẫu 1
Nếu có cơ hội lựa chọn, ai muốn phải rời xa quê hương để đi làm ăn kiếm sống, đến một nơi xa lạ để kiếm tiền, rồi sau này quay về nhưng không còn cha mẹ già để chăm sóc, thậm chí cả khi có tiền cũng không thể báo hiếu được cha mẹ nữa.
Sau nhiều năm làm việc ở đồn điền cao su, tôi quyết định quay về quê nhà. Vì sống xa quê, một thời gian dài tôi không nhận được tiền công, không biết làm cách nào để về nhà. Thỉnh thoảng tôi gửi thư về cho cha để ông yên tâm. Đã sáu năm trôi qua, tôi chưa về nhà và quyết định sẽ về vào năm nay mà không gửi thư. Tuy nhiên, khi tôi trở về, cha đã ra đi mất. Mất hai ngày để về làng, khi tôi đến làng, cảm thấy như đang đến một nơi khác. Mọi người nhìn tôi với ánh mắt lạ lẫm, không ai chào hỏi vì họ có vẻ thấy tôi lạ quá. Với ít tiền kiếm được từ công việc, tôi cũng đã có quần áo để mặc đàng hoàng. Về nhà, không khí im lặng, bất thường. Trong đầu tôi nảy sinh ý nghĩ đáng sợ, nhưng tôi cố gắng đẩy nó đi và đi tìm cha khắp nơi xung quanh nhà. Tôi hét lớn tên cha trong hi vọng ông sẽ nghe thấy, nhưng mãi vẫn không thấy ai trả lời.
Sau một lúc, tôi nghe tiếng bước chân và mừng rỡ nghĩ rằng cha đã trở về. Nhưng không phải, đó là ông giáo. Ông sang thắp hương và nói: 'Lão Hạc ơi, con trai ông đã về đây rồi, ông về đi nhé'. Tôi nghe xong, lòng sụp đổ, biết rằng suy nghĩ đáng sợ của mình là sự thật. Tôi ngồi xuống, thấp thỏm với cảm xúc. Tôi không còn cơ hội hối tiếc về quyết định bỏ cha đi làm ăn xa. Ông giáo dẫn tôi đến thăm mộ cha và kể về cái chết của cha. Tôi nghe mà lòng đau đớn, chưa bao giờ tôi thấy mình đau đến như thế.
Nhìn vườn trước mặt, tôi nhớ cha và trách mình vô cùng. Giá như cha không giữ vườn vì tôi, mà bán để sống, có lẽ cha vẫn ở bên tôi. Tất cả là do tôi, giờ tôi sẽ chăm chỉ, chăm sóc vườn này vì cha.
Tường thuật về việc con trai Lão Hạc trở về làng - Mẫu 2
Vì không đủ tiền để cưới vợ, tôi phải đi làm đồn điền cao su ở Nam. Sau sáu năm, có ít vốn riêng, tôi quyết định trở về quê để làm ăn và gắn bó với cha già cùng thầy tôi.
Sau khi rời xa quê hương đi làm đồn điền cao su đã lâu, nhưng không có gì thay đổi. Khi bước vào cổng nhà, tôi ngạc nhiên thấy ngôi nhà vắng vẻ, vườn cỏ mọc um tùm. Trước mắt là một bàn thờ, tôi linh cảm rằng thầy tôi đã mất. Tôi vội chạy ra sau nhà và gọi thầy ơi! Thầy ơi! Rồi tôi đến nhà ông giáo, ông nói:
- Cháu về rồi à.
Tôi vội hỏi.
- Thầy con đâu ạ?
- Con về muộn rồi, vào đây tôi nói chuyện với cháu.
Ông dẫn tôi vào nhà, cho tôi ngồi xuống và đưa một bát nước uống trước khi kể lại những sự kiện gần đây:
- Kể từ khi con xa quê, thầy chỉ còn một mình, có mỗi con Vàng làm bạn. Ban đầu, thầy sống qua ngày với 3 sào vườn, nhưng sau đó mọi thứ khó khăn hơn. Thầy ốm nặng và thiếu thu nhập, sợ tiêu hao số tiền mà ông để lại cho con. Khi nghe thầy kể, tôi không kìm được nước mắt. Sao thầy lại phải chịu khổ như vậy? Tôi ân hận vô cùng.
Nghe xong, tôi tiếp tục bật khóc. Thầy ôm tôi và nói:
- Sau đó, cuộc sống của thầy ngày càng khó khăn hơn. Thầy đã làm việc chăm chỉ để nuôi sống con Vàng và để lại cho con một khoản tiền đủ để lấy vợ và làm ăn. Thật đáng tiếc thầy đã phải bán con Vàng. Một ngày, tôi tình cờ nhìn thấy thầy đang vật vã trên giường. Thầy chết vì ăn bã chó - mà chính thầy đã đi xin. Tôi hiểu thầy cậu đã hy sinh quá nhiều cho con.
Nghe những lời kể, tôi nhận ra sai lầm của mình. Tôi đau lòng vì mất đi người cha chăm sóc tận tình. Tôi không nên bỏ rơi thầy đi như vậy. Tôi đau lòng quá!
Tôi cảm thấy thương xót cho thầy tôi và những người nông dân bị đẩy vào hoàn cảnh khốn khó. Xã hội này đã khiến họ sống trong đau đớn và bước vào bước đường cùng. Tôi căm ghét xã hội này. Tôi quyết định theo đuổi lý tưởng của cụ Hồ, tham gia kháng chiến, lật đổ chế độ cũ, để mang lại hạnh phúc, ấm no cho những người nghèo khổ.
Kể lại cảnh con trai Lão Hạc trở về làng - Mẫu 3
Tôi là con trai của Lão Hạc. Sau tám năm làm việc ở đồn điền cao su, tôi cuối cùng cũng có cơ hội trở về quê hương, thăm cha già và cậu Vàng.
Như nhiều người khác, tôi hồi hộp và xúc động khi trở về quê nhà, gặp lại người cha sau nhiều năm xa cách.
Suốt nhiều năm, tôi không viết thư cho cha nên không biết cha đã qua đời ra sao. Tôi đã dành tiền để biếu cha và để tổ chức đám cưới khi trở về quê. Quê hương vẫn thân quen như ngày nào, nhưng nó dường như đã phai nhạt, xơ xác hơn so với lúc tôi ra đi. Bước chân đến mảnh vườn của cha, tôi thấy cảnh vật khô héo, hoang vắng. Ngôi nhà của cha gần như sập đổ. Tôi lo lắng không thấy cha đâu.
Tôi gọi lớn: “Cha ơi, cha ơi con đã về rồi đây cha ơi, cha ơi!...” nhưng không có tiếng đáp lại. Tôi lo lắng khi một người hàng xóm đi ngang nhận ra tôi là con trai Lão Hạc, nói rằng cha tôi đã mất năm năm trước và mảnh vườn đã được bán cho ông giáo. Tôi hoảng hốt và quên cả cảm ơn bác hàng xóm, chạy vội tới nhà ông giáo.
Khi tới nhà, ông giáo nhận ra tôi ngay, gọi tôi vào nhà. Tôi liền hỏi ông:
- Ông giáo ơi, xin ông cho biết về cha tôi và chuyện mảnh vườn được bán cho ông như thế nào?
- Cậu từ từ ngồi lại đi, chuyện này dài lắm. Trước tiên, tôi sẽ dẫn cậu đến mộ của cha cậu đã. Ông giáo đáp.
Tới mộ cha, ông giáo và tôi thắp nén hương, ông giáo nghẹn ngào nói:
Nghe đến đây, tôi vô cùng xót xa và ân hận nói:
- Cha ơi, con thật là đứa con bất hiếu phải không, trong lúc cha cần một bờ vai để nương tựa nhất, con lại không ở bên. Con chỉ lo kiếm tiền để hai cha con sống đủ đầy hơn sau này, con thật có lỗi quá.
- Tôi tự dằn vặt bản thân mình.
Tôi vừa dứt lời thì ông giáo vỗ vai an ủi rồi cả hai cùng trở về nhà ông giáo để tiếp tục nói chuyện. Ông giáo rót nước cho tôi uống rồi kể lại toàn bộ câu chuyện. Từ lúc mùa màng đói kém, cha tôi đã suy nghĩ đến việc bán con chó và sau đó ân hận khi đã phải tự giải thoát bằng cách ăn bả chó để giữ lại mảnh vườn cho tôi. Cha tôi nhờ ông giáo viết văn tự để bán vườn khi tôi trở về.
Nghe ông giáo kể, tôi không kiềm được nước mắt. Tôi thương cha vô cùng, thực sự ân hận. Tôi nghĩ cha đã phải chịu đựng quá nhiều vì tôi. Trái tim tôi đầy ân hận, tôi thương cha lắm.
Ông giáo liền cho tôi xem văn tự mảnh vườn và nói: “Bây giờ, văn tự này không còn ý nghĩa gì nữa” sau đó ông giáo xé nó đi và trả lại cho tôi tiền mà cha tôi nhờ ông giáo giữ. Trước khi ra về, tôi cố cho ông giáo vài đồng bạc nhưng ông giáo từ chối, nói không có lý do gì để nhận số tiền ấy.
Kể lại cảnh con trai Lão Hạc trở về làng - Mẫu 4
Vì không có tiền để cưới người con gái yêu, anh con trai Lão Hạc quyết định rời làng đi làm phu ở đồn điền cao su ở Nam Kì. Sau nhiều năm, anh tích cóp được ít tiền và mới trở về quê.
Về đầu làng, anh thấy xóm làng vẫn còn xơ xác sau trận đói kinh hoàng vừa qua, nhưng tinh thần cách mạng của bà con nông dân rất cao. Tiếng trống, tiếng mõ vang rền khắp nơi. Các kho thóc của phát xít Nhật bị phá tung, cán bộ Việt Minh chia thóc cho dân chúng. Đoàn người kéo nhau đi rầm rập trên con đê, miệng hô to những khẩu hiệu đả đảo Pháp, Nhật, ủng hộ chính quyền cách mạng. Đầu đoàn là lá cờ đỏ sao vàng phấp phới.
Thật là một cảnh tượng mới mẻ đối với tôi. Tim tôi rộn lên khi bước vào rặng tre ở đầu ngõ. Khu vườn quen thuộc xuất hiện ngay trước mắt! Ba gian nhà tranh xiêu vẹo, cũ kĩ, đứng im lìm giữa vườn cây xơ xác. Lối vào và miếng sân đất um tùm cỏ dại.
Tôi gọi cha, nhưng không được đáp lại. Mở cửa ra, tôi nhìn vào:
Nhà chật cứng với mạng nhện bao phủ; ánh nắng lóe lên qua những lỗ trên mái rạ, in những vệt sáng không đều trên mặt đất gồ ghề. Không khí lạnh lẽo và mùi ẩm mốc khiến tôi rùng mình. Tôi đến nhà ông giáo Tri, người hàng xóm thân thiết để tìm hiểu về người cha già yếu của mình.
Ông giáo Tri mời tôi uống nước rồi kể về những ngày cuối đời của người cha tôi:
- Từ khi con đi, ông cụ buồn lắm! Buổi sáng chiều chỉ có con chó Vàng ở bên ông cụ. Cả tổng đói, cả làng đói. Ông cụ thiếu thốn, thỉnh thoảng đến chơi với tôi và tự trách mình vì nghèo không thể cưới vợ cho con, để con phải đi xa kiếm sống. Một buổi chiều, ông cụ nhờ tôi trông coi mảnh vườn ba sào để sau này con về có đất để làm ăn. Ông cụ còn gửi tôi giữ ba mươi đồng bạc từ hoa lợi và tiền bán chó Vàng. Ông cụ cảm thấy ân hận vì phải bán nó vì không thể nuôi nổi nữa. Ông cụ thốt lên rằng thà chết còn hơn bán mảnh vườn của mẹ con để lại cho con.
Tôi không ngờ rằng ông cụ lại chọn cách kết thúc cuộc đời bằng cách xin Binh Tư một ít bả chó. Khi tôi đến, ông cụ đang gặp nạn và không thể cứu vãn được nữa! Số tiền ông cụ gửi, tôi chỉ dùng một ít để lo mai táng ông cụ; số còn lại, tôi giữ đây để đợi anh trở về. Sắp tới, tôi sẽ dẫn anh đến thăm mộ ông cụ. Ôi Chao! Trên đời này, hiếm có người cha nào thương con như thế!
Anh con trai lão Hạc ngồi im lặng, hai hàng nước mắt lăn dài trên má. Ông giáo lấy văn tự nhà đất cùng túi tiền cất ở trên bàn thờ xuống, đưa cho anh. Anh run rẩy đưa tay ra nhận lấy và nghẹn ngào thốt lên hai tiếng: “Cha ơi!”.
Thắp mấy nén nhang trên nấm mộ chưa mọc cỏ, anh thổn thức tâm sự với người cha mà anh luôn yêu quý và thương nhớ: “Cha ơi! Con là đứa con bất hiếu, không làm được gì cho cha lúc cha già yếu! Con mong cha tha thứ cho con! Con đã ngu ngốc nghĩ rằng bỏ làng đi sẽ dễ kiếm tiền, nhưng ở đâu cũng khó khăn, cha ạ! Trong những ngày làm phu cạo mủ cao su ở đồn điền của lũ chủ Tây ở Đồng Nai, con đã được cán bộ cách mạng giác ngộ, chỉ cho con đường đúng để theo đuổi. Về làng lần này, con mong được gặp lại cha, để cha mừng cho con đã trưởng thành. Nhưng buổi chia tay cũng là lời chia tạm biệt vĩnh viễn!”.
Anh con trai lão Hạc chỉ ở nhà được vài ngày. Anh dọn dẹp nhà cửa, vườn tược gọn gàng rồi nhờ ông giáo tiếp tục trông nom. Trước khi ra đi, anh chào tạm biệt và cảm ơn bà con hàng xóm đã giúp đỡ cha anh trong thời gian anh vắng nhà. Ông giáo tiễn anh ra đầu làng, vắt chiếc tay nải đựng quần áo lên vai, anh bước nhanh về phía nhà ga. Mặt trời đã lên cao, tiếng còi tàu vang lên trong lành gió.
Tưởng tượng rồi kể lại cảnh con trai Lão Hạc trở về làng và thăm mộ cha
Tôi đã rời xa quê hương được nhiều năm, nay mới có dịp trở lại làng quê thân thương để thăm người cha cô đơn của mình và gặp lại chú chó Vàng cùng con cháu của chú. Khi tôi đi, chú chó Vàng vẫn còn nhỏ lắm, không biết giờ này nó có còn sống và đợi tôi về hay không?
Khi vừa đặt chân đến đầu làng, tôi nhìn thấy cây đa và bến nước con đò quen thuộc, lòng tôi trào dâng niềm xúc động. Hai tiếng quê hương nghẹn ngào ứ đọng trong cuống họng tôi, không thể thốt ra lời. Quê hương của tôi sao lại tàn lụi đến vậy? Ngày xưa khi tôi ra đi, những người dân hiền lành ở làng tôi thường ngồi bán rau, chơi cờ tướng và uống trà tại quán của bà Tư béo ở đầu làng. Nhưng bây giờ không còn thấy ai. Chiếc quán lá cũ trơ trọi, những bức tường đất phủ đầy bụi tro, có lẽ đã bị đốt cháy.
Tôi nghe tiếng còi reo, tiếng chó sủa rền vang, và tiếng bước chân vội vã. Tôi quay lại và nhìn thấy mấy lính tay sai của quân Pháp đang truy tìm những người lính cách mạng.
Khi tôi về nhà, thấy căn nhà tiêu điều với cửa đóng kín bằng một chiếc khóa cùi bắp, xung quanh nhà cỏ dại mọc um tùm như nhà bị bỏ hoang từ lâu. Tôi lấy một cục gạch đập vào khóa và mở cửa ra.
Tôi lặng lẽ bước vào nhà, và hình ảnh đầu tiên chọc thẳng vào mắt tôi là bức ảnh của cha trên bàn thờ. Ông đã ra đi rồi, nhưng tôi không biết làm sao và khi nào. Nước mắt tôi rơi không ngớt. Tôi ôm lấy bức ảnh của cha mình và khóc nức nở: “Cha ơi! Con về muộn quá rồi, con thật bất hiếu”
Sau khi khóc lâu, tôi đứng dậy và đi ra vườn nhìn lại khung cảnh cũ, tim tôi đầy buồn rầu. Tôi quyết định sang nhà thầy giáo Thứ, người có học và có mối quan hệ thân thiết với cha tôi, để tìm hiểu về nguyên nhân cái chết của cha và nơi an táng của ông. Tôi cài then cửa và bước vội sang nhà anh.
Trong căn nhà đó, tôi thấy anh giáo ngồi bên bàn viết gì đó rất chăm chú. Tôi gọi lớn từ ngoài cổng: “Anh giáo ở nhà không ạ?” Tiếng anh giáo vọng từ trong nhà. Tôi đây. Ai đó tìm tôi ạ? Anh bước ra, áo đông xuân cũ kỹ, khuôn mặt vẻ bề ngoài già nua hơn so với lần cuối gặp. Anh khựng một lúc rồi lao vào ôm tôi. “Ôi Sơn, cậu đã về rồi à. Tôi mong cậu mãi”
Anh kéo tôi vào nhà và rót nước mời tôi. Sau đó, anh mở khóa tủ lấy ra một chiếc hộp nhỏ đưa cho tôi và nói: “Đây là những gì cụ Hạc gửi tôi, bảo khi nào anh về thì đưa lại cho cậu. Tôi giữ nó rất nhiều năm, mong cậu về mà không thấy. May mắn là hôm nay cậu đã trở về, coi như tôi đã hoàn thành nhiệm vụ với người đã khuất”
Tôi mở chiếc hộp ra và thấy đó là giấy tờ nhà cửa của tôi và một ít tiền mà cha tôi để lại. Tôi nhìn anh giáo và hỏi run run: “Cha tôi mất thế nào vậy anh?”
Anh giáo lau nước mắt, nói khó khăn: “Cha cậu mất vì rất đau lòng. Ông tự tử để giữ lại mảnh đất để cậu có thể lấy vợ và có chốn nương thân”. Tôi không kiềm chế được cảm xúc khi nghe điều đó. Máu trong người dâng lên, nước mắt nhòa đi. Tôi tiếp tục hỏi: “Ai là người đã làm cho cha tôi phải chết như thế, anh?”
Anh giáo nghiêm nghị nói với giọng chua chát: “Vì thằng Bá Kiến muốn cướp mảnh vườn của nhà em nên ông cụ đã chọn cách ra đi để không mất mảnh đất quý giá này, để lại ít tiền cho em phòng thân.”
Tôi bỗng nhiên chết lặng, căm hận sự tàn ác của những kẻ ác ôn, thương cha già nghèo cô đơn phải đối mặt với những kẻ xấu xa, vì yêu thương con cái mà phải đối diện với cái chết. “Cha ơi! Con rất có tội với cha ạ!
Buổi đó, tôi và anh giáo đã trò chuyện rất nhiều về cha tôi. Anh giáo dẫn tôi đi viếng mộ cha. Sau đó, chúng tôi quay về nhà anh và tiếp tục trò chuyện về phong trào cách mạng, về những người dân khổ cực trong quê tôi đang cố gắng giành lấy sự sống.
Anh giáo hỏi tôi: “Giờ cậu định làm gì? Có cô gái nào cậu thích chưa? Có dự định lấy vợ và quay về làng không?”. Tôi lắng nghe và buồn bã đáp: “Em chưa lấy vợ anh ạ. Em đã quyết định ra đi lần nữa, nhưng lần này không phải làm công ở đồn điền cao su nữa, mà là đi theo Việt Minh. Em quyết tâm tham gia vào phong trào cách mạng để báo thù cho quê hương, báo thù cho cha em anh ạ.”
Anh giáo nhìn tôi đầy xúc động và nói: “Cậu làm rất tốt. Cậu rất giống cha của mình, kiên định dù có chết vẫn không khuất phục những kẻ tàn bạo. Thực ra, tôi cũng đã hoạt động lâu rồi, nhưng chỉ làm trong bóng tối vì gia đình tôi vẫn còn có mẹ già và con nhỏ. Tôi không thể bỏ hẳn hoạt động được.”
Tôi nhìn thấy anh giáo và cảm thấy như đang trở về với quê hương của mình mà không uổng công. Sáng sớm hôm sau, khi con gà gáy ba tiếng, tôi đã tỉnh dậy và anh giáo đang chờ tôi ở đầu làng để tiễn đưa tôi. Anh ta đưa tôi một lá thư và nói, 'Cứ đến địa chỉ này, bạn sẽ được đồng chí tôi đưa ra chiến trường.' Chúng tôi ôm nhau chào tạm biệt.
Tôi nhìn lại quê hương lần cuối, lòng tự nhủ rằng tôi sẽ trở về khi đất nước này không còn bóng dáng kẻ thù, khi những kẻ hung ác sẽ bị trừng phạt. Hẹn gặp lại quê hương của tôi nhé!
Kể lại cảnh con trai Lão Hạc trở về làng - Mẫu 6
Chỉ mới vài năm trôi qua kể từ khi tôi quyết định rời quê đi phu đồn ở Phú Riềng. Suốt những năm tháng đó, tôi phải trải qua cuộc sống cay đắng, lao động vất vả để kiếm từng đồng. Tương lai của tôi vốn mờ mịt, và tôi không nghĩ rằng mình sẽ bao giờ có cơ hội trở về quê hương. Cuộc cách mạng tháng Tám đã nổ ra, và tôi cùng những người nông dân tham gia Việt Minh để đánh bại chủ đồn ở đây và các thực dân để giải phóng dân tộc, cũng như bản thân. Và hôm nay, tôi đã có thể quay trở lại quê nhà để gặp người cha già yêu dấu sau bao năm xa cách.
Trên đường trở về quê hương, tôi chăm chú ngắm nhìn từng khung cảnh. Làng quê vẫn còn nghèo nàn với những vườn cây với những mái nhà tạm, những cánh đồng cằn cỗi nhưng vẫn thấy được sự cách mạng trong gương mặt hân hoan của mọi người. Tôi bồi hồi nghĩ về thầy, không biết giờ này thầy đã ra sao, mắt đã mờ đi, chân đã chậm lại chưa? Tôi cảm thấy có lỗi với người cha già yếu mà tôi đã bỏ lại khi đi. Bất giác, tôi ước mình có đôi cánh để về ngôi làng bé nhỏ, thân thuộc đó, nơi có một người thân yêu đang chờ đợi tôi về.
Lạc vào suy nghĩ, tôi ngạc nhiên khi nhận ra mình đã quay về làng cũ. Cây đa vẫn đứng đó, bến nước, sân đình,... Tất cả vẫn quen thuộc, gần gũi lắm! Những kí ức, những ngày tháng sống khổ cực với rau, củ riềng, củ ráy nhưng hương vị quê hương ấm áp lại ùa về trong tôi. Tôi vội vã bước về căn nhà tranh, bờ rào râm bụt đỏ quen thuộc, trong lòng vọng lên tiếng gọi tha thiết: 'Thầy ơi! Con đã về rồi!'
Nhưng thay vì được đón chào, tôi chỉ thấy một cảnh vắng lặng của khu vườn rộng lớn, cỏ um tùm, căn nhà trống trơn, không thấy thầy, không thấy Cậu Vàng chạy ra đón... Sự ngạc nhiên và lo lắng cùng lúc bùng lên trong tôi. Tôi nhẹ nhàng đẩy cửa. Ôi trời ơi! Một cảnh tượng đau lòng khiến tôi ngã gục. Trên bàn thờ cũ có thêm một bát hương mới. 'Có lẽ cha tôi đã...'. Tôi không dám nghĩ tiếp, vội vã chạy đến nhà ông giáo, người mà trước đây thầy tôi thường tâm sự, chia sẻ.
Ông giáo đón tôi với vẻ mặt buồn bã, rồi ông kể cho tôi nghe những ngày cuối cùng của thầy trước khi ông ra đi. Thì ra, suốt những năm tháng qua, thầy sống khổ cực, chăm chỉ, cố gắng tích cóp để dành dụm cho tôi. Ông trời lại trêu chọc khiến thầy gặp phải căn bệnh nan y, tiền bạc tiết kiệm suốt bao nhiêu năm cũng phải dùng hết. Mọi sự cay đắng càng khiến cuộc sống của thầy trở nên khó khăn.
Cuối cùng thầy đã bán con Vàng - niềm vui tuổi già của thầy - và chọn cái chết đau đớn để giải thoát khỏi cuộc sống đau khổ, để lại cho tôi ít tài sản cuối cùng. Tai tôi ù đi, lòng tôi tê liệt khi nghe ông giáo nói: 'Đây là mảnh vườn mà cha đã cố để lại cho anh trọn vẹn. Cha thà chết còn hơn là bán đi một phần nào đó'.
Cầm tờ văn tự trong tay, tôi như người mộng du theo ông giáo ra bãi táng cuối làng. Khung cảnh nghĩa địa u ám dưới ánh chiều tà. Trên mộ thầy tôi, cỏ mọc um tùm như được chăm sóc thường xuyên. Liệu có phải ông trời thương xót thầy mà ban cho thầy một sự giải thoát?
“Đốt nén hương thơm lừng lòng người. Con đã về đây thầy ơi!”. Tôi xúc động gọi thầy trong lòng. Thầy ơi! Đứa con vô hiếu đã trở về bên thầy đây. Con vô cùng hối hận vì đã phẫn chí rời quê đi, bỏ lại thầy một mình, già yếu, cô đơn không có ai để dựa dẫm. Thầy đã chịu đựng nhiều lúc ốm đau, bão táp mà không trách móc con. Thầy ơi! Con hiểu công ơn, tình thương vô bờ mà thầy dành cho con suốt bao năm. Thầy luôn nhớ con, lo lắng, mong ngóng con trở về. Mọi suy nghĩ, hành động của thầy đều dành cho con. Thầy sống chất phác, cần cù, làm việc vất vả, chịu đựng nắng mưa để nuôi con. Thầy hy sinh cả tinh thần, niềm vui của tuổi già, thậm chí mạng sống của mình cũng vì hạnh phúc của con. Con cũng hiểu và tức giận với xã hội thực dân tối tăm, bất công, đã đẩy thầy và những người tốt bụng vào cảnh nghèo đói, bế tắc, phải chọn cái chết thảm.
Nếu có thể quay lại, con sẽ không bao giờ rời bỏ thầy lúc thầy cô đơn, hiu quạnh. Nhưng giờ này, mọi sự hối hận đều đã quá muộn, con xin thầy tha thứ và ở bên suối vàng, xin thầy hãy bình an yên nghỉ! Thầy hãy yên tâm về con nhé! Con sẽ sống đúng, trung thực, ngay thẳng như thầy đã từng. Mảnh vườn thầy đã giữ lại bằng cả cuộc đời, con sẽ chăm sóc, bồi dưỡng để cho ra hoa thơm, trái ngọt dâng thầy.
Kể lại cảnh con trai Lão Hạc trở về làng - Mẫu 7
Vì không có tiền cưới vợ, thấy người con gái mình yêu lấy người khác, tôi quyết tâm rời quê vào Nam Kỳ làm nông ở đồn điền cao su. Lâu ngày bị chia cách, tích cóp được ít tiền, giờ tôi đã trở về để chăm sóc người cha già của mình.
Về đầu làng, cảnh vật không thay đổi nhiều, dù có phần buồn tẻ hơn trước. Có lẽ là do cách mạng đến, người dân cũng sống nhiều hơn. Tiếng trống, tiếng mõ vang vọng.
Trong chốc lát, khu vườn quen thuộc xuất hiện trước mắt, nhưng lạ thay, toàn bộ vườn đều mọc cỏ dại, ngôi nhà tranh cũ kỹ, xiêu vẹo, im lìm. Tôi gọi cha, không thấy đáp lại. Mở cửa ra, tôi nhìn vào: mạng nhện phủ khắp; ánh nắng chiếu qua lỗ thủng trên mái. Không khí lạnh và mùi ẩm mốc khiến tôi rùng mình. Một cảm giác lo sợ tràn về. Tôi vội chạy sang nhà ông giáo để hỏi thăm tin về cha.
Ông giáo nhìn thấy tôi là nhận ra ngay, ông yêu cầu tôi ngồi xuống và từ từ kể về những ngày cuối đời của người cha tội nghiệp:
- Từ khi anh đi, ông cụ buồn lắm! Sớm tối chỉ có cậu Vàng ở bên cạnh. Cả tổng đói, cả làng đói. Ông cụ thường đói. Lúc thì kiếm được một ít ăn cho qua ngày. Thỉnh thoảng sang tôi chơi, ông cụ luôn tự trách mình vì nghèo mà không cưới được vợ cho con, để con phải lưu lạc xa nhà kiếm sống. Một chiều, ông cụ nhờ tôi trông coi hộ mảnh vườn ba sào để sau này anh về có đất để làm ăn. Ông cụ còn gửi tôi giữ giùm ba mươi đồng bạc từ việc bán hoa từ mảnh vườn suốt mấy năm qua và tiền bán cậu Vàng. Thương cảnh! Ông cụ khóc vì ân hận khi buộc lòng phải bán mảnh vườn của mẹ anh để lại cho anh.
Tôi không ngờ khi trở về lại nghe tin cha mất. Ông lại chọn cái chết đau đớn nhất, bi thảm nhất. Ông tự tay xin Binh Tư ít bả chó để kết thúc cuộc sống này, để giữ cho tôi mảnh vườn và ba mươi đồng bạc. Ông giáo còn nói rằng cha tôi chọn cái chết như vậy vì sự ân hận khi bán cậu Vàng luôn giày xéo trong tâm trí, ra đi như vậy ông mới thanh thản được.
Nghe xong câu chuyện, tôi lặng cả người, nước mắt rơi từ bao giờ không hay. Tôi run cầm tờ văn tự mà ông giáo đưa, vội nói:
- Ông ơi, hãy dẫn con đi thăm mộ cha với!
Thắp vài nén nhang trên nấm mộ chưa xanh tươi, tôi rưng rức tâm sự cùng người cha yêu dấu: “Cha ơi! Con là đứa con bất hiếu, con không nên vì một cơn phẫn nộ mà rời xa cha, lúc cha cần con nhất mà con không thể ở bên! Con xin cha tha thứ cho con! Con hối hận lắm! Con nghĩ rằng kiếm tiền làm gì, cho cha những ngày tuổi già trọn vẹn, giờ thì còn ý nghĩa gì nữa cha ơi!”.
Mất đi người cha thương yêu quá vội vàng khiến tôi không thể nào an lòng. Tôi hối hận lắm! Tôi quyết định lập nghiệp trên mảnh đất mà cha đã dành cả mạng sống để bảo vệ. Tôi tin rằng ở nơi nào đó, cha sẽ thấy được những gì tôi làm và sẽ được yên nghỉ.
Kể lại cảnh con trai Lão Hạc trở về làng - Mẫu 8
Tôi sinh ra và lớn lên trong một gia đình nghèo làm ruộng. Vài năm trước, vì không có tiền cưới vợ, tôi quyết định đi làm ở đồn điền cao su để kiếm thu nhập. Thế nhưng, do điều kiện làm việc quá khắc nghiệt, tôi đã quyết định quay về quê sống gắn bó với ruộng đất và chăm sóc cha già.
Sau khi sắp xếp xong công việc, tôi quay về quê sau nhiều năm xa cách. Quang cảnh làng xóm vẫn như cũ, không có gì thay đổi nhiều, mọi thứ vẫn giữ nguyên; vẫn là giếng nước cổ kính quen thuộc. Hít một hơi sâu để thưởng thức không khí quê nhà, tôi cảm thấy thật sảng khoái. Khi bước vào nhà, điều làm tôi ngạc nhiên là nhà không thay đổi nhiều nhưng trở nên xơ xác, trống vắng, đìu hiu. Tôi đi khắp sân vườn nhưng không thấy bố đâu, không thấy cả Cậu Vàng, nhiều đồ đạc trong nhà bị bụi phủ kín, mạng nhện dày đặc khắp nơi khiến tôi có chút lo lắng, bất an. Tôi gom đồ lại gọn gàng và đi mua thêm đồ để nấu ăn. Tối nay cơm nước thịnh soạn, nhưng vẫn không thấy bố; tôi lo lắng và quyết định sang nhà ông giáo - người bạn thân thiết của bố để hỏi thăm.
Ông giáo nhìn thấy tôi ngạc nhiên và buồn bã. Tôi hỏi ông biết bố tôi đi đâu không, ông ngập ngừng. Ông gọi tôi vào nhà và từ từ kể lại những gì đã xảy ra với cha tôi, cha đã sống khổ cực ra sao, đau đớn vì phải bán Cậu Vàng; nhưng đau nhất vẫn là cảnh bố tôi phải ăn bả chó để tự vẫn vì nghèo đói và muốn giữ lại ngôi nhà, mảnh đất cho tôi. Tôi sững sờ, những gì đã xảy ra đổ vào tôi như một cơn ác mộng, không tin vào sự thật rằng bố tôi đã ra đi mãi mãi. Tôi òa lên khóc nức nở khi ông giáo nói về cái chết thương tâm của bố. Tôi hối hận vì đã bỏ đi làm đồn điền cao su xa nhà, không ở bên chăm sóc bố, thậm chí không biết bố đã chịu đau khổ ra sao trong những ngày cuối đời. Tôi tự trách bản thân. Ông giáo khuyên tôi không nên quá buồn mà hãy sống tốt để bố dưới suối vàng được yên lòng. Sau khi ông giáo khuyên, tôi trở về nhà với tâm trạng rất đau khổ.
Nén nỗi đau trong lòng, tôi dọn dẹp nhà cửa gọn gàng. Ngày hôm sau, nhờ ông giáo dẫn tôi đến mộ bố, thắp nén nhang và hứa với bố sống tốt. Tôi đau lòng khi nhìn thấy mộ bố đã xanh tươi giữa cánh đồng lạnh lẽo. Nước mắt lã chã rơi trên má, tôi đứng chôn chân hồi lâu, muốn nói nhiều điều với bố nhưng tất cả nghẹn lại trong cuống họng. Tôi chỉ nhìn ngôi mộ đầy xót xa. Tôi nghe lời ông giáo, người đi rồi sẽ không trở lại, tôi phải sống tốt để bố dưới suối vàng được yên lòng. Sau khi thăm mộ bố trở về, tôi chăm chỉ làm việc, sống hòa thuận với làng xóm, thay bố tiếp tục cuộc đời còn lại một cách ý nghĩa.
Đó là kí ức đau lòng nhất trong cuộc đời tôi, là bài học quý giá giúp tôi trân trọng cuộc sống hơn. Cho đến bây giờ, khi nhớ lại những gì đã xảy ra, tôi vẫn có chút đau lòng nhưng đó là bài học mà tôi luôn ghi nhớ để sống tốt hơn từng ngày.
Kể lại cảnh con trai Lão Hạc trở về làng - Mẫu 9
Khi còn trẻ, tôi rời quê hương đi làm việc xa xứ, ước mong kiếm được nhiều tiền để giúp cha thoát nghèo, có vốn để quay về quê lập nghiệp. Nhưng chuyến đi đó đã khiến tôi đánh mất nhiều điều quý giá.
Từ khi tôi đòi hỏi cha cho phép lấy vợ nhưng vì gia đình quá nghèo không đủ tiền để cưới vợ, tôi buồn rầu lên thành phố đến cơ quan cảnh sát đưa thẻ làm đồn điền cao su. Sau 7 năm, tôi mới trở về quê. Lần này về, tôi mừng vì có thể giúp cha bớt khó khăn. Thấy làng thay đổi nhiều, vẫn còn những con đường nhỏ quen thuộc nhưng lại có nhiều nhà mới mọc lên, các em nhỏ cũng lớn nhanh như thổi.
Khi bước vào nhà, tôi gọi cha lớn tiếng nhưng không có âm thanh đáp lại, chỉ thấy sân vườn rậm rạp lá, ngôi nhà lạnh lẽo, vườn trông hoang tàn. Tôi chạy đến nhà ông giáo, ông vui mừng khi thấy tôi, ông nói 'Cuối cùng thì cậu đã trở về'. Tôi không cần ông trả lời, nhìn vào đôi mắt ông tôi hiểu rằng cha tôi không còn nữa. Cha đã ra đi vì lý do không ngờ và cảm xúc đau đớn đến nỗi tôi không thể tưởng tượng.
Tôi ngây người, đứng lặng lẽ trước sân nhà ông giáo, tôi chỉ còn một mình trên cõi đời này. Ông giáo dẫn tôi ra mộ cha, tôi quỳ xuống khóc như trẻ con, ôm mộ cha với nỗi đau sâu thẳm, chỉ biết hỏi tại sao cha lại ra đi như vậy. Tôi không cần mảnh vườn, không cần tiền bạc để ông phải chịu khổ đau như thế. Tôi thật tội nghiệp, hối hận vì đã không ở lại chăm sóc cha, giúp đỡ cha.
Sự dằn vặt này có lẽ sẽ đi cùng tôi suốt cuộc đời, nhưng tôi quyết định ở lại để giữ gìn và chăm sóc cái vườn mà cha đã hy sinh tính mạng để giữ lại.