Hồ Chí Minh là một nhà thơ, nhà văn vĩ đại của dân tộc. Bài thơ Cảnh khuya của Chủ tịch Hồ Chí Minh được giới thiệu và nghiên cứu trong chương trình Ngữ văn lớp 8.
Mytour sẽ cung cấp Bài viết mẫu lớp 8: Phân tích bài thơ Cảnh khuya, bao gồm dàn ý và 15 bài văn mẫu. Hãy cùng đón xem ngay dưới đây để có thêm ý tưởng cho bài văn của bạn.
Phân tích bài thơ Cảnh khuya
- Dàn ý phân tích bài thơ Cảnh khuya
- Phân tích bài thơ Cảnh khuya ngắn gọn
- Phân tích bài thơ Cảnh khuya - Mẫu 1
- Phân tích bài thơ Cảnh khuya - Mẫu 2
- Phân tích bài thơ Cảnh khuya - Mẫu 3
- Phân tích bài thơ Cảnh khuya - Mẫu 4
- Phân tích bài thơ Cảnh khuya - Mẫu 5
- Phân tích bài thơ Cảnh khuya - Mẫu 6
- Phân tích bài thơ Cảnh khuya - Mẫu 7
- Phân tích bài thơ Cảnh khuya - Mẫu 8
- Phân tích bài thơ Cảnh khuya - Mẫu 9
- Phân tích bài thơ Cảnh khuya - Mẫu 10
Dàn ý phân tích bài thơ Cảnh khuya
I. Giới thiệu
Tổng quan về tác giả Hồ Chí Minh và bài thơ Cảnh khuya.
II. Phần thân bài
1. Hai dòng đầu: Phác họa cảnh thiên nhiên tại chiến khu Việt Bắc trong đêm tối
- Dòng thơ 1: “Tiếng suối trong như giọng hát xa”
- Trong không gian yên bình của núi rừng Việt Bắc, tiếng suối chảy như một giọng hát xa vang vọng.
- Âm thanh của suối được so sánh với một giọng hát xa: nó trở nên mềm mại và đầy cảm xúc.
- Dòng thơ 2: “Trăng lung linh qua lớp cỏ rậm màu hoa” có hai ý nghĩa:
- Ánh trăng lấp lánh trên mặt đất, chiếu qua từng cành cây, rồi soi sáng những bông hoa rừng. Khung cảnh thiên nhiên được bao phủ bởi ánh trăng sáng.
- Ánh trăng toả sáng xuống mặt đất, đi qua từng cành cây cổ thụ, khiến cho ánh sáng phản chiếu tạo ra hình ảnh giống như những bông hoa.
Dù hiểu theo cách nào, cũng thể hiện được vẻ đẹp lãng mạn của thiên nhiên ở núi rừng Việt Bắc.
=> Hai dòng thơ đầu tiên đã mô tả hình ảnh thơ mộng của thiên nhiên núi rừng Việt Bắc.
2. Hai dòng sau: Tâm trạng của nhà thơ trong đêm tối tại chiến khu Việt Bắc
- Dòng thơ 3: “Cảnh đêm như vẽ bức tranh người chưa ngủ” có hai cách hiểu
- Hình ảnh “cảnh khuya như bức tranh” gợi lên một cảnh vật thiên nhiên tuyệt đẹp như một tác phẩm nghệ thuật.
- Bác ngồi đó, mê mải ngắm nhìn cảnh đêm khuya, sự hòa quyện của thiên nhiên và con người tạo nên một bức tranh sống động.
- Câu thơ 4: “Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà” làm rõ hai lý do Bác Hồ không ngủ
- Vì cảnh thiên nhiên quá đẹp khiến tâm hồn người nghệ sĩ say mê và chìm đắm.
- Vì lo “nỗi nước nhà” - lo cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc, lo cho cuộc sống của nhân dân. Đó chính là lý do quan trọng khiến Bác Hồ không ngủ được.
=> Qua hai câu thơ trên, đọc giả thấy được tâm trạng của người thi sĩ đa cảm và lòng kiên trung của người lãnh đạo Bác Hồ.
III. Kết bài
Tổng quan về giá trị về nội dung và nghệ thuật của bài thơ.
Phân tích bài thơ Cảnh khuya một cách súc tích
Cảnh khuya là một trong những tác phẩm xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bắt đầu bài thơ, ông đã mô tả vẻ đẹp của thiên nhiên. Khi đêm buông xuống, ánh trăng trở nên rạng ngời và lan tỏa khắp nơi. Nhà thơ cảm nhận tiếng suối chảy róc rách. Bằng cách so sánh “tiếng suối như tiếng hát xa,” ông đã tạo ra sự vang vọng của tiếng suối. Tiếp theo, ông mô tả vẻ đẹp của ánh trăng: “Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa.” Câu thơ đêm đến có hai cách hiểu. Một là ánh trăng chiếu xuống mặt đất xuyên qua từng tán cây, chiếu xuống cả những bông hoa rừng. Không gian núi rừng Việt Bắc rực sáng dưới ánh trăng. Hai là ánh trăng sáng chiếu qua từng tán cây cổ thụ, khi phản chiếu xuống mặt đất tạo ra hình dáng như những bông hoa. Dù hiểu theo cách nào, chúng ta đều cảm nhận được vẻ đẹp thơ mộng của bức tranh thiên nhiên ở núi rừng Việt Bắc. Trước vẻ đẹp của thiên nhiên, Bác đã gửi gắm tâm tư, tình cảm. Con người hiện lên trong trạng thái “chưa ngủ.” Có thể là vì khung cảnh thiên nhiên quá đẹp đẽ khiến cho tâm hồn người nghệ sĩ say mê. Hoặc “chưa ngủ” cũng có thể do lo lắng cho nhân dân, cho sự nghiệp cách mạng của đất nước. Bác đã sử dụng biện pháp tu từ điệp ngữ - cụm từ “chưa ngủ” được lặp lại hai lần, nhấn mạnh tâm trạng lo âu, sự trăn trở của nhà thơ đối với cuộc sống nhân dân, sự nghiệp cách mạng của đất nước trong hoàn cảnh đất nước ta đang bị xâm lược bởi thực dân Pháp. Có thể khẳng định, bài thơ “Cảnh khuya” đã thể hiện được tình yêu thiên nhiên cũng như quê hương, đất nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Phân tích bài thơ Cảnh khuya - Mẫu 1
Hồ Chí Minh không chỉ được biết đến với vai trò một nhà cách mạng vĩ đại, mà còn là một nhà thơ, nhà văn lớn của dân tộc. Một trong những bài thơ nổi tiếng của ông là “Cảnh khuya”. Bài thơ này không chỉ mô tả cảnh ánh trăng ở chiến khu Việt Bắc mà còn thể hiện tình yêu thiên nhiên, lòng yêu nước của nhà thơ.
Đầu tiên, hai câu thơ đầu tiên đã miêu tả cảnh đêm khuya ở núi rừng Việt Bắc một cách sống động:
“Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa”
Khi đêm buông xuống, ánh trăng tỏa sáng và lan tỏa khắp mọi nơi. Trong cảnh rừng yên bình, nhân vật trữ tình nghe thấy tiếng suối róc rách càng rõ. Tiếng suối trong đêm khuya như tiếng hát xa êm đềm vang vọng như giai điệu của tiếng hát sâu lắng. Bác đã sử dụng nghệ thuật động tả tĩnh để mô tả tiếng suối.
Không chỉ dừng lại ở đó, Bác cũng mô tả một cách sinh động về ánh trăng ở chiến khu:
“Trong tù không rượu cũng không hoa
Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ
Người ngắm trăng soi qua cửa sổ
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”
(Ngắm trăng)
Trong bài thơ “Cảnh khuya”, Bác đã miêu tả ánh trăng qua câu thơ “Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa” với hai cách hiểu khác nhau. Đầu tiên là ánh trăng chiếu xuống mặt đất, đi qua từng tán cây, chiếu sáng cả những bông hoa rừng, làm cho không gian núi rừng Việt Bắc trở nên rạng ngời dưới ánh trăng. Cách hiểu thứ hai là ánh trăng chiếu qua từng tán cây cổ thụ, khiến cho ánh sáng phản chiếu xuống mặt đất tạo nên hình dáng giống như những bông hoa. Cả hai cách hiểu đều thể hiện vẻ đẹp của ánh trăng. Ánh trăng đã trở thành người bạn thân thiết của nhà thơ, thậm chí cả ở nơi núi rừng hoang sơ. Bức tranh thiên nhiên núi rừng Việt Bắc hiện ra trước mắt như một tác phẩm thơ mộng, đầy hoang sơ.
Không chỉ miêu tả thiên nhiên dưới ánh trăng, Bác còn thể hiện tâm trạng của mình:
“Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ
Chưa ngủ vì nỗi lo nước nhà”
Trước vẻ đẹp của thiên nhiên, Bác đã phải thốt lên đây là một cảnh hiếm có, giống như một bức tranh của một nghệ sĩ tài ba. Nhưng trong bức tranh thơ mộng ấy, con người hiện ra với những nỗi lo lắng. Người “chưa ngủ” có thể là vì cảnh thiên nhiên quá đẹp đẽ. Điều này khiến cho nhà thơ đắm chìm trong vẻ đẹp đó mà quên luôn cả thời gian. Hoặc có thể là vì lo sợ cho nước nhà? Có thể thấy rằng, trong mọi tình huống, Bác vẫn mang một tâm trạng lo lắng cho đất nước và nhân dân. Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, đất nước phải tự do, nhân dân phải hạnh phúc.
Do đó, bài thơ “Cảnh khuya” là một minh chứng rõ ràng cho phong cách văn học và nghệ thuật của Hồ Chí Minh.
Phân tích bài thơ Cảnh khuya - Mẫu 2
“Cảnh khuya” được sáng tác bởi Bác Hồ khi ông còn ở chiến khu Việt Bắc, vào những năm đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1946 - 1954). Bài thơ này thể hiện sự yêu thiên nhiên cùng lòng yêu nước sâu sắc của nhà thơ.
“Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa”
Trong bài thơ “Côn Sơn ca”, Nguyễn Trãi cũng đã so sánh tiếng suối một cách độc đáo:
“Dòng suối trên Côn Sơn chảy rì rầm
Tiếng suối nghe như là tiếng đàn cầm bên tai”
Trong bài thơ “Cảnh khuya”, Hồ Chí Minh đã so sánh tiếng suối với tiếng hát xa, khiến cho âm thanh của suối trở nên sống động. Âm thanh của suối trong trẻo, vang vọng tựa như tiếng hát xa vang lại. Cùng với tiếng suối, vẻ đẹp của thiên nhiên còn được mô tả qua ánh trăng. Trong thơ của Bác, ánh trăng luôn gợi lên hình ảnh đặc biệt. Mỗi bài thơ, ánh trăng đều được mô tả một cách độc đáo. Câu thơ “Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa” gợi lên hai cách hiểu khác nhau. Ánh sáng của trăng chiếu xuống những bông hoa rừng tạo ra bóng hoa in xuống mặt đất. Hoặc ánh trăng sáng chiếu xuyên qua từng tán cây cổ thụ, phản chiếu xuống mặt đất tạo ra hình thù như những bông hoa. Mỗi cách hiểu đều mang sự độc đáo riêng nhưng đều thể hiện vẻ đẹp thơ mộng của thiên nhiên đêm trăng ở chiến khu Việt Bắc.
Trong bức tranh thiên nhiên đó, con người đã hiện diện với tâm trạng suy tư:
“Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà”
Nếu trong thơ cổ, con người giữa thiên nhiên chỉ là một chấm buồn nhỏ bé:
“Dưới chân núi, một vài nhà tiều tụy
Lom khom ven sông, vài gian hàng chợ”
(Đoạn từ bài thơ Qua Đèo Ngang, của Bà Huyện Thanh Quan)
Trong thơ của Bác, con người là trung tâm của bức tranh thiên nhiên. Nhân vật trữ tình trong “Cảnh khuya” hiện lên với trạng thái “chưa ngủ”. Có lẽ vì thiên nhiên quá đẹp mê hoặc? Hay vì những lo âu khác? Câu thơ cuối cùng đã giải thích lý do - “vì lo nỗi nước nhà”. Bác lo lắng cho nhân dân, cho sự nghiệp cách mạng của đất nước. Cụm từ “chưa ngủ” được lặp lại hai lần để nhấn mạnh nỗi lo âu, trăn trở của Bác. Từ đó, hình ảnh của Hồ Chí Minh hiện ra với vẻ đẹp, vị trí cao quý - một người luôn dành tâm huyết cho đất nước, cho nhân dân.
“Cảnh khuya” mô tả cảnh ánh trăng ở chiến khu Việt Bắc và thể hiện tình yêu thiên nhiên, lòng yêu nước của nhà thơ. Bài thơ này là ví dụ tiêu biểu cho phong cách sáng tác của Hồ Chí Minh.
Phân tích bài thơ Cảnh khuya - Mẫu 3
Hồ Chí Minh không chỉ là một lãnh tụ đáng kính của nhân dân mà còn là một nhà thơ uyên bác và tình nguyện. Không thể không ngưỡng mộ Người với khối lượng thơ văn ấn tượng và ảnh hưởng sâu rộng mà Người để lại. Trong số các tác phẩm của Người, không thể không nhắc đến bài thơ “Cảnh Khuya”, một sáng tác nổi bật được viết trong bối cảnh của cuộc chiến chống lại thực dân Pháp tại chiến khu Việt Bắc. Bài thơ thể hiện sự thư thái và lạc quan của Người, dành thời gian để thong thả hòa mình vào thiên nhiên và cảnh vật, làm cho chúng ta ngưỡng mộ tâm hồn cao cả của Người.
Ở nơi đây, giữa cảnh vật của núi rừng hoang sơ, điều đầu tiên mà Bác cảm nhận là “Tiếng suối trong như tiếng hát xa”. Bác sử dụng lối so sánh tài tình trong việc miêu tả. Tiếng suối được cảm nhận thông qua thính giác, nhưng đặc biệt ở đây là suối đó lại trong như tiếng hát. Có lẽ vì không nhìn thấy hoặc nếm được, người ta cảm nhận được sự trong trẻo và ngọt ngào của dòng suối. Điều này có thể được coi là một món quà ý nghĩa của thiên nhiên cho vùng đất hoang sơ mang tên Việt Bắc. Trong rừng núi hoang sơ, Bác vẫn nghe thấy tiếng hát của người. Tiếng hát được so sánh với âm thanh trong trẻo của suối, lối so sánh của nhà thơ tạo ra một sự tài tình đặc biệt. Âm thanh của tiếng người hát không rõ nguồn gốc, có thể là một tưởng tượng của tác giả để làm cho suối trở nên trong trẻo.
Lối so sánh tài tình đó biến suối từ một âm thanh lặng lẽ thành một bức tranh sôi động và tươi trẻ, làm cho cảnh rừng yên bình trở nên sôi động. Câu thơ cho thấy rằng trong thơ của Bác, cảnh vật luôn được liên kết với con người và không thể tách rời. Trong cõi đêm thanh vắng, khi mọi người bận rộn với công việc, Bác vẫn cảm nhận được âm thanh trong trẻo của suối, và cảnh rừng Việt Bắc lại khiến Bác say mê. Bác nhìn lên ánh trăng và thấy một cảnh tượng tuyệt vời: “Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa”.
Từ “lồng” đã tạo ra nhiều ý tưởng cho chúng ta. Từ này gợi nhớ đến hai vật thể được lồng vào nhau để tạo thành một thể thống nhất. Ở đây, ánh trăng soi sáng lên bóng cây cổ thụ trước cửa phòng của Bác, sau đó bóng cây đó lại phủ lên những bông hoa. Đối với Bác, hình ảnh này đã tạo ra một thể thống nhất tự nhiên. Cảnh vật lúc này hòa quyện vào nhau, làm cho con người xúc động, các sự vật kết hợp vào nhau tạo ra một bức tranh chỉ có hai màu sắc, sáng và tối, cao và thấp, huyền bí và tươi sáng, sống động và ấm áp.
Trăng - cây cổ thụ - hoa, ba vật thể khác nhau về hình dáng, kích thước và chiều cao, nhưng lại liên kết và tôn lên vẻ đẹp của nhau, tạo ra một bức tranh sống động và đầy hồn. Sự lặp lại của từ “lồng” bởi tác giả đã tạo ra âm hưởng ngọt ngào cho câu thơ. Cảnh này, với ánh sáng và âm thanh trên nền cảnh núi rừng Việt Bắc vắng vẻ và huyền ảo, là một bức tranh phong cảnh tuyệt vời, sâu sắc. Câu thơ của Bác đã tạo nên một bức tranh ba chiều với hai màu sắc, đan xen vào nhau. Có lẽ vì tâm hồn Bác đã quen với quan hệ giữa tự nhiên và biện chứng nên Bác mới có thể phát hiện ra những vẻ đẹp tự nhiên đặc biệt đó mà nhiều người khác không nhận ra.
Nếu trong hai dòng thơ đầu tiên Bác chỉ miêu tả về thiên nhiên, thì đến hai dòng thơ cuối cùng ta thấy hình ảnh của một vị lãnh tụ trăn trở không thể ngủ:
“Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà”
Hai dòng thơ này làm rõ hơn về tâm hồn yêu thiên nhiên của Bác, nhưng cũng là thiên nhiên khiến tâm hồn ấy trăn trở không thể ngủ được vì lo cho đất nước ngày càng cao, khiến cho vị lãnh tụ không thể chợp mắt. Giữa cảnh khuya trong trẻo, có một người đang thao thức không yên, hòa mình vào thiên nhiên để sáng tác thơ ca, nhưng tâm hồn thực sự của người đó đang ở một chân trời khác.
“Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà” như một lời báo thức, thiên nhiên chính là người bạn giúp Bác giảm bớt gánh nặng của những suy tư vất vả hàng giờ hàng ngày. Từ đây, ta thấy Bác là người biết hòa hợp giữa công việc và tình yêu thiên nhiên, và tình yêu đó càng cao thì trách nhiệm với công việc càng lớn.
Bài thơ được viết trong những năm đầu của cuộc chiến chống Pháp khốc liệt, nhưng trong thơ vẫn thấy một tâm hồn trữ tình, yêu thiên nhiên và vẫn làm việc mà không hề chan chứa với cảnh trăng thơ mộng của núi rừng. Người lo lắng cho đất nước nhưng vẫn dành ưu ái cho thiên nhiên, điều này thể hiện phẩm chất lạc quan và thái độ ung dung của Bác.
Bài thơ này thể hiện tinh thần nhạy cảm và trách nhiệm cao của Bác - một vị lãnh tụ của dân tộc Việt Nam, là minh chứng cho tài năng của người nghệ sĩ-chiến sĩ Hồ Chí Minh.
Phân tích bài thơ Cảnh khuya - Mẫu 4
Là một chủ tịch giàu lòng thơ, Bác thường sử dụng bút để ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên và thể hiện tình yêu nước của mình. “Cảnh khuya” là một ví dụ điển hình, được viết năm 1947 tại Chiến khu Việt Bắc - căn cứ của cuộc kháng chiến chống Pháp.
Việt Bắc không chỉ là trung tâm chiến lược của cuộc kháng chiến, mà còn là một vùng đất thiên nhiên tươi đẹp. Trong cảnh khuya, Bác đã mô tả một Việt Bắc như một bức tranh sống động:
“Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa”
Trong đêm tĩnh lặng của rừng Việt Bắc, tiếng suối róc rách, rì rào... Tiếng suối vang lên trong trẻo, chiếm lĩnh không gian yên bình của đêm rừng. Câu đầu tiên trong 'Cảnh khuya' như mang âm thanh bổng trầm của tiếng suối. Đối với Bác, tiếng suối trong đêm như 'tiếng hát xa'. Trong tiếng suối, trong tiếng hát của rừng núi, sự sống mãnh liệt, lạc quan của những chiến sĩ càng trở nên rõ ràng...
“Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà”
Câu thứ ba của bài thơ là một bước chuyển tiếp mới giữa những ý thơ uyển chuyển. 'Cảnh khuya như vẽ...' - Bác muốn nói về gì? Cảnh vật như được vẽ ra hay muốn vẽ ra cái gì khác nữa? Chúng ta có nhiều cách hiểu về ý thơ 'gợi mở' của Bác. Điều quan trọng là câu thơ chuyển từ tả cảnh sang tả tình. 'Người chưa ngủ' trong một cảnh khuya tuyệt vời phải chăng chỉ để sống với thiên nhiên? 'Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà'. Trong lòng Bác, vẻ đẹp của núi rừng kết hợp với nỗi thao thức về tương lai của đất nước...
Tấm lòng của Bác dành cho đất nước là vô cùng lớn lao. Trong 'Cảnh khuya', Bác muốn nói rằng vẻ đẹp của thiên nhiên làm cho nỗi thao thức của người lớn lên. Bác luôn hòa hợp giữa tình yêu với tổ quốc và tình yêu với thiên nhiên.
'Cảnh khuya' là một trong những bài thơ hay nhất về Việt Bắc và là một trong những bài thể hiện tâm tư của Bác rõ ràng nhất. Truyền thống và hiện đại hòa quyện trong bài thơ, tạo nên phong cách thơ Hồ Chí Minh đặc trưng.
Có lẽ, ai đã từng ghé qua Việt Bắc sẽ hiểu được bài thơ hơn, nhưng cho dù không đặt chân đến đó, 'Cảnh khuya' vẫn giúp chúng ta tưởng tượng được cảnh vật Việt Bắc và hiểu rõ tấm lòng yêu nước của Bác trong những năm kháng chiến gian khó. Bài thơ là một thành công to lớn về mặt nghệ thuật và nội dung, sẽ ghi dấu sâu trong lòng mỗi người về cái đẹp của thiên nhiên Việt Bắc và tấm lòng cao cả của vị lãnh tụ dân tộc.
Phân tích bài thơ Cảnh khuya - Mẫu 5
Sau 'Nhật kí trong tù', những năm lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Pháp ở chiến khu Việt Bắc là thời kỳ Hồ Chí Minh viết nhiều thơ nhất. Từ những bài thơ kháng chiến của Người hiện lên tình yêu thiết tha đối với thiên nhiên quê hương, tinh thần trách nhiệm lớn lao của vị lãnh tụ dẫn đường cho cuộc chiến, thể hiện phong thái ung dung, lạc quan của một con người luôn tin tưởng vào tương lai.
“Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa
Cảnh khuya chưa vẽ người chưa ngủ
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà”
Cảnh khuya được sáng tác vào năm 1947 – năm đầu tiên Chủ tịch Hồ Chí Minh đồng đội chỉ huy cuộc kháng chiến tại chiến khu Việt Bắc. Là nơi hội tụ của nhiều vẻ đẹp khác nhau, Cảnh khuya thể hiện rõ quan điểm thẩm mỹ, nhân sinh cao đẹp, phong cách nghệ thuật độc đáo của một chiến sĩ cách mạng vĩ đại đồng thời là một nhà thơ lớn.
Vẻ đẹp đậm dân dã nhưng trang nghiêm cổ kính từ những câu chữ bình dị nhưng sâu lắng. Cảnh này tồn tại với hình vật, ánh sáng và âm thanh. Trên nền núi rừng Việt Bắc yên bình, bí ẩn với ánh trăng lồng cổ thụ, tiếng suối trong như âm nhạc êm dịu, vang mãi không ngừng. Câu thơ của Bác Hồ gợi nhớ đến Côn Sơn ca của Nguyễn Trãi:
“Côn Sơn suối chảy rì rầm
Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai”
Nguyễn Trãi so sánh tiếng suối với tiếng đàn, Bác liên kết tiếng suối với tiếng hát. Nguyễn Trãi mô tả nước suối trong, trong khi Bác nghe tiếng suối. Người nhận biết âm thanh thay vì mô tả cảnh vật, màu sắc. Trong đêm thanh vắng giữa rừng núi, dễ nghe tiếng hát trong trẻo của tiếng suối xa. Ngay từ câu mở đầu, Cảnh khuya mang đến thế giới thiên nhiên hiền hòa với cảm giác gắn bó.
Câu thứ hai của bài thơ tạo nên một hình ảnh phong cảnh đẹp mắt, phong phú như một bức tranh ba chiều. Nhìn lên: vầng trăng cao lồng cổ thụ – nét họa trang nghiêm, cổ điển. Nhìn xuống: bóng trăng và bóng cây cổ thụ lồng vào nhau, trong những cây lá ở dưới – nét vẽ nhỏ, tinh tế. Câu thơ tạo ra một không gian ba chiều với các tầng màu đen trắng lồng vào nhau. Với tinh thần tinh tế và giàu chất thơ, mắt Bác quen thuộc với các sự vật, hiện tượng tự nhiên, biện chứng của chúng, Bác nhìn ra những vẻ đẹp độc đáo của thiên nhiên. Trong thơ, Bác không tả nhiều nhưng cảnh vật hiện ra rất cụ thể, sinh động và phong phú. Đặc biệt, không chỉ trong trường hợp này, một câu thơ của Bác thường bao hàm nhiều sự vật trong mối quan hệ chặt chẽ.
'Vân ủng trùng sơn, sơn ủng vân'
(Núi ấp mây, mây ôm núi)
(Núi Thiên Sơn)
Ví dụ, mối quan hệ liên tục theo dạng chuyển động:
“Xuân giang và xuân thủy kế tiếp mùa xuân thiên nhiên”
(Đêm trăng tháng giêng)
Quay trở lại với Cảnh khuya. Hai dòng đầu đã đưa người đọc vào một thế giới tự nhiên ảo diệu, trong lành. Truyền thống về hình thức và âm nhạc trong thơ Đông Á, với vẻ đẹp cổ điển của thơ Đường, được thể hiện qua trí tưởng tượng độc đáo của một tâm hồn nghệ sĩ vĩ đại.
Sau hai câu khơi cảnh, tạo âm hưởng, câu thứ ba như vừa làm nổi bật, tổng kết phần trên, vừa làm mở ra phần kết: “Cảnh khuya tựa như bức tranh, người chưa ngủ”. Cảnh đẹp như thế, làm sao có thể không ghi lại! Người thao thức vì cảnh đẹp, vì sao người không thể ngủ được? Điều bất ngờ, Cảnh khuya kết thúc: “ Không ngủ vì lo nỗi nước nhà”.
Như vậy, nguyên nhân chính khiến “người không ngủ” không phải là “cảnh khuya tựa như bức tranh” – câu thứ ba chưa phải là nút thắt quan trọng nhất – mà là “nỗi nước nhà”. Câu chuyện này được chia thành hai phần: “Cảnh khuya tựa như bức tranh” là tổng kết cho phần trước, trong khi “người không ngủ” là điểm nối giữa hai phần của bài thơ, là kết quả từ hai phía của nguyên nhân. Ba từ đó mô tả hiện thực được sử dụng để mở rộng sâu hơn vào tâm trạng hiện thực.
Trong thể loại thơ tứ tuyệt, hiếm có bài nào kết thúc một cách rõ ràng, giải thích mạch lạc, dễ hiểu như vậy. Có lẽ đó cũng là điểm độc đáo của Bác – điểm độc đáo của nghệ thuật xuất phát từ tâm hồn cao quý. Nghệ thuật đó vô cùng chân thực, giản dị, đi thẳng vào trái tim người đọc nên cũng là nghệ thuật cao quý, tinh tế nhất. Nghệ thuật đó không tự giới hạn trong các kỹ thuật văn chương, không phụ thuộc vào thủ pháp mà thể hiện bộc bạch tự nhiên tâm trạng của bản thân nên cũng gợi cảm xúc mạnh mẽ trong người đọc. Đang miêu tả cảnh vật tự nhiên, câu thứ tư rơi vào việc thể hiện chiều sâu tâm trạng. Bài thơ kết thúc một cách bất ngờ nhưng vô cùng tự nhiên, hoàn chỉnh.
Bất ngờ nhưng hoàn toàn tự nhiên, hoàn chỉnh vì Bác Hồ luôn chịu một nỗi lo lớn vì đất nước, bởi vì ông hiếm khi có giấc ngủ yên bình khi đất nước chưa độc lập, tự do. Trong tù, ông không thể ngủ được “Đêm trắng băn khoăn giấc không thành”. “Đêm vắng” vì nỗi nhớ “Hà Nội xa vắng hồn cũ”… Và lúc này, khi cả non sông đều đối mặt với sự xâm lược của kẻ thù và cuộc chiến mới đang bắt đầu với những ngày đầu gian khổ, vị Tổng tư lệnh Hồ Chí Minh cũng ít khi có đêm nghỉ ngơi yên bình. Hải Như từng viết “Cả cuộc đời Bác ngủ có yên đâu”. Chúng ta càng hiểu được điều này khi nhớ rằng bài Cảnh khuya được sáng tác vào năm 1947 – thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến đầy thách thức. Trong bóng đêm trăng rực rỡ, vì lo cho đất nước, ông đã nhìn thấy vẻ đẹp mê hoặc của thiên nhiên quê hương; ngược lại, nỗi lo cho đất nước không làm mất đi sự hưởng thụ vẻ đẹp của cảnh vật tự nhiên, lắng nghe tiếng rừng, tiếng suối của mình. Cảnh khuya đã thể hiện một mô hình về sự thống nhất hoàn hảo giữa tình yêu thiên nhiên và trách nhiệm lịch sử - xã hội, một tuyệt tác độc đáo của tinh thần cách mạng trong thời đại mới.
Với Bác, yêu thiên nhiên cũng chính là yêu nước vì ánh trăng lung linh, cây cỏ kia, núi sông này đều là một phần không thể thiếu của thiên nhiên quê hương. Tình yêu quê hương bao la, tinh thần chiến đấu vì dân, cho Tổ quốc khiến ông nhìn thấy thiên nhiên quê hương mình phong phú và tinh tế hơn; ngược lại, tình yêu thiên nhiên đất nước là động lực để ông lo lắng cho “nỗi nước nhà”. Từ đó, dẫn đến sự thống nhất tự nhiên giữa tình yêu với thiên nhiên và trách nhiệm lịch sử - xã hội, một vẻ đẹp độc đáo của tinh thần cách mạng trong thời đại mới.
Bài thơ mang tên Cảnh khuya nhưng lại đậm “nỗi nước nhà”, rất sâu sắc tình cảm. Điều đó làm tăng thêm không khí u tối, nồng nàn của cảnh vật và tạo ra sức mạnh vĩ đại mặc cho lời thơ đã dứt. Ta hiểu rõ hơn vì sao ngay từ đầu Cảnh khuya không miêu tả cảnh vật, mà tập trung vào âm nhạc – “Tiếng suối trong như tiếng hát xa” vang lên như giai điệu mở đầu. Trong đêm tĩnh lặng ở núi rừng Việt Bắc, điều dễ làm cho “người chưa ngủ” cảm nhận và xúc động nhất là tiếng suối - âm thanh duy nhất trong không gian huyền ảo. Tiếng kêu của “nỗi nước nhà” luôn làm nao lòng Người khi gặp tiếng suối trong như tiếng hát của rừng núi thiên nhiên và hai âm thanh đó kết hợp, vang vọng, âm vực suốt cả bài thơ.
Rõ ràng là quan điểm nhân sinh cách mạng đã làm cho tình yêu của người chiến sĩ trở nên cao đẹp hơn. Cảnh khuya không chỉ là về cảnh vật mà còn là về con người. Bài thơ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về đặc điểm của thiên nhiên trong thơ của Hồ Chí Minh. Thiên nhiên đó là biểu hiện đặc biệt của một tầm nhìn, một triết lý, một cuộc sống tiên tiến và những cảm xúc thẩm mỹ cao đẹp.
Phân tích bài thơ Cảnh khuya - Mẫu 6
Hồ Chí Minh không chỉ là một lãnh tụ cách mạng tài ba của dân tộc mà còn là một nhà thơ vĩ đại khuynh đảo cả phương Đông lẫn phương Tây. Trong những năm đấu tranh chống lại sự áp bức của Pháp, bên cạnh các chiến lược tài tình, ông cũng tạo ra những bài thơ đầy xúc động. “Cảnh khuya” chính là một trong số đó:
“Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa
Cảnh khuya chưa vẽ người chưa ngủ
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà”
Bài thơ xuất hiện vào thời điểm cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc đang đối diện với những thách thức nặng nề, quyết liệt: năm 1947. Trên chiến khu Việt Bắc, sau những giờ phút mệt mỏi, trong cảnh đêm của núi rừng, Bác cảm thấy xúc động trước cảnh đêm khuya êm đềm. Điều đầu tiên Bác nhận thấy ở thiên nhiên hoang sơ là tiếng suối róc rách tuôn trôi: Tiếng suối trong như tiếng hát xa.
Lối so sánh của Bác thật độc đáo! Tiếng suối thường được cảm nhận thông qua thính giác nhưng khi nghe tiếng suối, Bác cảm nhận được độ “trong” của dòng nước. Dòng suối đó chắc chắn rất ngọt ngào, trong mát, có lẽ cũng là món quà đặc biệt mà thiên nhiên ban tặng cho những người chiến sĩ trên đường hành quân mệt mỏi xa xôi. Hơn nữa, tiếng suối trong như “tiếng hát xa”.
“Tiếng hát xa” là một âm thanh đặc biệt. Đó phải là tiếng hát cao để có thể lan tỏa mạnh mẽ, để từ xa, con người vẫn có thể cảm nhận được. Đó cũng là tiếng hát vươn lên trong những khoảnh khắc yên lặng vì nếu không, nó sẽ bị phủ lấp bởi những âm thanh phức tạp của cuộc sống, liệu từ xa, con người có còn cảm nhận được không? Điều thú vị trong câu thơ của Bác Hồ là một âm thanh tự nhiên được so sánh với tiếng hát của con người. Điều đó thể hiện sự nhân văn sâu sắc trong những dòng thơ của Bác.
Cảnh đêm khuya chắc chắn tĩnh lặng, trong trẻo đến mức chỉ có Bác mới có thể nghe được tiếng suối long lanh đó. Điều này không khó hiểu vì không gian núi rừng thường phát ra nhiều âm thanh khác nhau: tiếng chim hót, tiếng gió thổi, tiếng cây rợp, tiếng động vật kêu gọi bầy... Trong bài thơ “Cảnh rừng Việt Bắc”, Bác đã viết:
“Cảnh rừng Việt Bắc thật tuyệt vời
Vượn rên chim hót rộn cả ngày”.
Điều này có lẽ là hiếm hoi trong cảnh khuya của núi rừng. Thiên nhiên yên bình cũng làm cho tâm hồn con người trở nên yên tĩnh, thanh thản khi hòa mình vào vẻ đẹp của tự nhiên. Đó là khoảnh khắc thiên nhiên thật đặc biệt: Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa.
Sự xuất hiện của từ 'lồng' trong một câu thơ tạo ra một ấn tượng đặc biệt. 'Lồng' ở đây là động từ mô tả việc các vật nằm gọn gàng vào nhau để tạo thành một hình ảnh hài hòa. Câu thơ như một bức tranh duyên dáng: ánh trăng lớn sáng bao phủ lên cây cổ thụ, bóng cây cổ thụ nhẹ nhàng bao phủ như một lớp áo trên những bông hoa.
Bác sử dụng từ 'lồng' rất tinh tế, nó trở thành từ khóa của câu thơ. Chỉ với một từ đó, cảnh vật trở nên hòa quyện, tương hợp nhau một cách dễ thương và duyên dáng. Ánh mắt của người chiến sĩ cách mạng Hồ Chí Minh thật ôn hòa và nhân từ.
Cảnh khuya sống động, đầy hấp dẫn là minh chứng cho việc người thưởng cảnh đã thức dậy từ giấc ngủ bình thường của họ. Vì thế: Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ.
Cảnh khuya trong trẻo, yên bình làm nổi bật hình ảnh của Bác Hồ thức dậy trong đêm tĩnh lặng. Người chìm đắm trong thiên nhiên để ca ngợi vẻ đẹp của núi rừng nhưng trong lòng, họ vẫn lo lắng về quê hương: Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà.
Câu thơ vươn lên như một lời kêu gọi tỉnh thức cho người đọc. Ta có thể tưởng tượng Bác Hồ đang thư thả thưởng trăng nhưng trong lòng vẫn lo âu cho quê hương. Bác 'chưa ngủ' vì một lẽ rất đặc biệt: “vì lo nước nhà”. Điều đó bởi vì Bác đã trải qua nhiều đêm không ngủ, nhiều đêm trăn trở vì cuộc chiến của dân tộc:
“Một canh, hai canh, rồi ba canh
Trằn trọc với những giấc mơ đen
Canh bốn, canh năm, mắt chợp mở
Sao vàng năm cánh mơ màng hồn”.
Vậy nên, dù có nhìn những cảnh vật xung quanh (một lời chia sẻ với bạn thân của thi nhân cổ điển) nhưng tâm hồn Bác vẫn dành cho non sông, dân tộc. Như thơ sĩ Minh Huệ từng nói:
“Đêm nay Bác ngồi đây
Đêm nay Bác chẳng ngủ
Vì một lý do đặc biệt
Bác Hồ là Hồ Chí Minh”
Bài thơ kết thúc với những dư âm rộng lớn. Chúng ta đã từng xúc động trước lòng cao quý và lòng nhân ái của Bác Hồ nhưng mỗi khi đọc lại “Cảnh khuya” chúng ta lại cảm nhận sâu sắc tâm hồn của một người chưa bao giờ có giấc ngủ yên bình, chưa bao giờ được nghỉ ngơi.
Phân tích về bài thơ Cảnh khuya - Mẫu 7
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một con người có tâm hồn nghệ sĩ, mang trong mình tình yêu sâu đậm với thiên nhiên và vẻ đẹp của vạn vật. Ngay cả khi ở trong tù, dù bị giam giữ, nhưng khi đối diện với vẻ đẹp của thiên nhiên, Bác vẫn có những trải nghiệm cảm xúc mãnh liệt, từ đó tạo ra những tác phẩm thơ ca tuyệt vời. Thậm chí trong những ngày khó khăn, gian khổ ở chiến khu Việt Bắc, tâm hồn của Bác vẫn hướng về cái đẹp và hòa mình vào thế giới xung quanh. Bài thơ Cảnh khuya chính là minh chứng cho sự rung động đó.
Bài thơ Cảnh khuya được viết bằng chữ quốc ngữ, mang tính hiện đại mạnh mẽ. Mặc dù vẫn là cảnh thiên nhiên của núi rừng Việt Bắc, nhưng lại được thể hiện qua góc nhìn không gian mới mẻ. Bài thơ bắt đầu bằng âm thanh vang vọng của núi rừng:
“Tiếng suối trong như tiếng hát xa”
Đó là tiếng suối hay tiếng của con người? Có thể là cả hai âm thanh này đã kết hợp vào nhau phải không? Trí tưởng tượng và sự so sánh của Bác tạo ra một hình ảnh sống động, làm cho cảnh thiên nhiên núi rừng Việt Bắc trở nên sinh động hơn bao giờ hết. Đọc câu thơ này, ta không thể không nhớ đến những dòng thơ của Nguyễn Trãi:
“Suối Côn Sơn chảy rì rầm
Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai.”
Trong hai dòng thơ của Nguyễn Trãi, thiên nhiên là phép màu tạo nên cái đẹp, sự hoàn mỹ. Tuy nhiên, trong thơ của Bác, con người trở thành tiêu chuẩn của cái đẹp. Bằng cách so sánh tinh tế, Bác làm cho tiếng suối trở nên gần gũi, thân thuộc hơn bằng cách so sánh với tiếng hát.
Dòng thơ tiếp theo phản ánh sự hòa hợp, giao hòa của cảnh vật: Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa. Thiên nhiên hiện lên với vẻ đẹp mơ mộng, huyền ảo, nhưng vẫn hòa nhập vào nhau để tôn vinh sự tuyệt vời của mỗi thứ. Bức tranh về đêm trở nên sôi động và đầy sức sống, không tăm tối mà đầy màu sắc và sự sống.
Trong bức tranh thiên nhiên tuyệt vời đó, con người xuất hiện và trở thành tâm điểm. Nhà thơ không chỉ ngưỡng mộ vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn cảm nhận sâu sắc. Dòng thơ cuối cùng mở ra một chiều sâu mới trong tâm hồn: Chưa ngủ vì lo lắng cho quê hương. Bác không chỉ thưởng thức vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn lo lắng cho sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Từ “chưa ngủ” được đặt ở cuối câu thứ ba và đầu câu thứ tư, như một sự liên kết hai khía cạnh của con người: sự thưởng thức vẻ đẹp và lo lắng cho quê hương. Hai khía cạnh này không mâu thuẫn mà hòa quyện trong tâm hồn Bác, tạo nên hình ảnh lãnh đạo cao quý lo lắng cho đất nước.
Bài thơ kết hợp linh hoạt các kỹ thuật nghệ thuật như so sánh, điệp từ (lồng, chưa ngủ) để thể hiện sâu sắc tâm hồn cao quý của Bác. Ngôn ngữ thơ hiện đại, giản dị nhưng tinh tế, sâu sắc.
Cảnh khuya thể hiện tâm hồn yêu thiên nhiên và lo lắng cho vận mệnh đất nước, dân tộc. Bài thơ kết hợp hài hòa giữa yếu tố cổ điển và hiện đại, tạo nên nét đặc sắc cho tác phẩm.
Phân tích bài thơ Cảnh khuya - Mẫu 8
Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ được kính yêu của dân tộc Việt Nam, không chỉ nổi tiếng trong cuộc cách mạng mà còn là một nhà thơ. Thơ của Người chủ yếu viết về cách mạng, những thời kỳ gian khổ nhưng hào hùng. Bài thơ 'Cảnh khuya' là một trong những tác phẩm tiêu biểu.
Bài thơ 'Cảnh khuya' ra đời trong bối cảnh cuộc chiến chống Pháp đang diễn ra, mặc dù gian khổ nhưng vẫn thấy phong thái lạc quan, ung dung. Bài thơ mở đầu bằng hình ảnh nhẹ nhàng và đầy sức sống:
'Tiếng suối róc rách tuôn theo dòng chảy như tiếng hát xa'. Bài thơ khai mạc với một hình ảnh đẹp, lối so sánh đầy hồn. Tiếng suối được so sánh với tiếng hát xa trong trẻo, tiếng suối được người cảm nhận bằng thính giác và người cảm nhận tiếng suối ấy 'trong'. Chỉ qua một câu thơ ngắn gọn nhưng đọc giả có thể cảm nhận vẻ đẹp của núi rừng, của thiên nhiên Việt Bắc.
Bác đã tài tình sử dụng biện pháp so sánh 'tiếng suối' giống với 'tiếng hát' của con người, khiến tiếng suối trở nên sống động và có hồn. Đây là lối so sánh thường thấy trong thơ của Bác, cảnh vật và con người luôn gắn bó không thể tách rời. Trong không gian yên bình ấy, nhìn lên bầu trời thấy một cảnh đẹp: 'Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa'.
Trong một câu thơ, Bác sử dụng hai từ 'lồng' tạo ra hiệu ứng đặc biệt, khiến hai vật khác nhau khớp lại với nhau để tạo thành một thể thống nhất. Ánh trăng soi sáng cây cổ thụ tạo bóng cây, rồi bóng cây lại lồng lên những khóm hoa. Đây là một bức tranh phức tạp với nhiều tầng bậc, hình khối, đường nét và khoảng sáng tối rõ ràng.
Trăng, cây cổ thụ và hoa, những vật hoàn toàn khác biệt, quấn quýt, hòa quyện, đan vào nhau tạo ra một bức tranh thiên nhiên sống động. Điệp từ 'lồng' làm cho câu thơ sống động hơn trong lòng người đọc. Núi rừng Việt Bắc trở nên tươi đẹp hơn với tiếng suối trong trẻo, ánh trăng huyền ảo. Hai câu thơ cuối thể hiện tâm trạng và lo lắng của Người:
'Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà'
Bài thơ ra đời vào giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, khi thiên nhiên tươi đẹp khiến Bác lo âu, không thể ngủ được, lo cho vận mệnh nước nhà. Với vai trò là lãnh đạo của dân tộc Việt Nam, Bác luôn lo lắng cho 'dân ta được hoàn toàn tự do, ai cũng có cơm áo, ai cũng được học hành'.
Thiên nhiên trở thành bạn tri âm, tri kỉ của Bác, giúp Người quên đi những lo âu, muộn phiền. Đắm mình vào thiên nhiên giúp Bác giảm bớt vất vả, lo toan. Bài thơ ẩn chứa niềm hy vọng của Bác về một đất nước hòa bình, ấm no để thảnh thơi ngắm trăng, ngắm núi non, ngắm con người.
Mặc dù ra đời trong thời kỳ đất nước đang chiến đấu chống Pháp, tâm hồn của Bác vẫn thảnh thơi, ung dung. Lo cho 'nước nhà' vẫn đi đôi với sự ưu ái đối với thiên nhiên, vì thiên nhiên là bạn tri âm của Người. Bài thơ thể hiện tâm hồn nhạy cảm và thơ mộng của Người.
Phân tích bài thơ Cảnh khuya - Mẫu 9
'Cảnh khuya' là một trong những bài thơ trữ tình nổi bật, viết trong bối cảnh cuộc kháng chiến chống Pháp đang diễn ra ác liệt, Bác Hồ đã sáng tác bài thơ trong thời kỳ đó.
“Tiếng suối như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa
Cảnh khuya vẫn chưa vẽ nỗi mộng mơ
Chưa ngủ vì lo âu nghĩ suốt về nước nhà”
Bài thơ mô tả cảnh khuya trong rừng núi dưới ánh trăng, thể hiện suy tư của Bác Hồ về tương lai của dân tộc. Hai câu đầu tạo nên bức tranh tự nhiên về suối rừng, trăng rằm ở Việt Bắc. Nhà thơ nghe tiếng suối chảy êm dịu từ sâu trong rừng, giống như tiếng hát xa: “Tiếng suối như tiếng hát xa”.
Suối là biểu tượng của vẻ đẹp tự nhiên ở rừng già Việt Bắc. Bác so sánh tiếng suối với tiếng hát, tạo nên bức tranh ấm áp về cảnh khuya chiến khu, khiến cho cuộc sống trở nên gần gũi hơn. Câu thơ gợi nhớ đến tiếng suối trong bài “Côn Sơn ca” của Ức Trai hơn 600 năm trước:
“Côn Sơn suối chảy rì rầm
Nghe như tiếng đàn cầm bên tai...”
Hai tác phẩm thơ gần gũi, thân thiết. Nguyễn Trãi đã đến Côn Sơn để tìm sự yên bình, lấy suối đá làm bạn đồng hành. Bác Hồ đến Việt Bắc, xây dựng chiến khu chống Pháp. Suối trở thành nguồn cảm hứng quan trọng cho tâm hồn của Bác trong những năm kháng chiến gian khổ.
Tả suối, nghệ thuật của Bác thật tinh tế: Sử dụng âm thanh của suối để mô tả sự yên bình của đêm tĩnh lặng, đồng thời làm nổi bật sự im ắng của chiến khu dưới ánh trăng. Đêm về, núi rừng như được ngủ say trong sự yên bình toả ra vô cùng. Bác vẫn thức, từ đó nghe rõ tiếng suối chảy rì rầm. Câu thứ hai miêu tả trăng rằm: “Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa”.
Hai dòng thơ tạo nên hình ảnh hòa quyện tuyệt vời của thiên nhiên. Trăng được nhân hóa, rất lãng mạn “lồng” vào cành cây thụ, bóng cây thụ lại “lồng” vào bóng hoa. Cảnh thiên nhiên trở nên thân thiện, mơ mộng. Từ “lồng” được sử dụng hai lần, tạo nên không khí thơ mộng, lôi cuốn. Ánh trăng lan tỏa khắp núi rừng, làm bừng sáng rừng cây, “lồng” và phủ lên cành cây thụ. Cảnh rừng với các tầng khác nhau, mảnh sáng, mảnh tối. Bức tranh tinh tế, màu sắc nhẹ nhàng và tươi mới, sự phối hợp màu sắc khéo léo, cuốn hút.
Hai dòng thơ của Bác phong phú về âm thanh, âm nhạc, trong đó cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên và âm nhạc của cuộc sống, rất sâu sắc, gợi cảm. Bác đã trao cho thiên nhiên, cây rừng hàng trăm nghìn tình cảm chân thành và sâu sắc.
Hai dòng thơ 3 và 4 trong bài thơ tám câu tạo nên sự phối hợp và thống nhất. Cấu trúc của bài thơ rất đặc biệt. Hai từ “chưa ngủ” được di chuyển từ cuối câu lên đầu câu, tạo ra một kỹ thuật liên tục làm cho bài thơ liền mạch, ý thơ được phát triển mở rộng:
“Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ
Chưa ngủ vì lo nước nhà”
Không ngủ vì lòng xúc động của nhà thơ trước cảnh khuya “như vẽ”. Không ngủ, trăn trở, bồi hồi vì “lo cho nước nhà”. Quốc gia đang bị giặc Pháp xâm lược, con thuyền kháng chiến vượt qua những cửa nước đang nổi sóng thì vị “thuyền trưởng” chưa thể yên giấc! Nguyễn Trãi đã từng thao thức vì đại nghĩa:
“Vẫn còn một tấc lòng vì nước
Đêm đêm thức suy tư sâu xa”
(Quốc âm thi tập)
Bác Hồ cũng thao thức: “Không ngủ vì lo cho nước nhà”. Cùng mang trong lòng một tình yêu lớn lao dành cho đất nước và nhân dân, thơ của bác chứa đựng tình yêu nước sâu sắc. Câu thơ giản dị, sáng tỏ như một chân lý, để lại ấn tượng sâu sắc.
“Cảnh khuya” bài thơ tứ tuyệt làm tươi đẹp thơ ca kháng chiến. Dòng thơ phong phú về hình ảnh và cảm xúc. Cảnh vật và tình cảm hòa quyện, vừa cổ điển, vừa hiện đại. Tình yêu nước đong đầy, tình yêu thiên nhiên trong trắng là chất xúc tác cho vẻ đẹp của bài thơ.
Phân tích bài thơ Cảnh khuya - Mẫu 10
Cảnh khuya là một trong những bài thơ tuyệt vời của chủ tịch Hồ Chí Minh. Bài thơ đã mô tả cảnh trăng rọi sáng chiến khu Việt Bắc và thể hiện tình yêu thiên nhiên, lòng yêu nước của nhà thơ:
“Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa.
Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ,
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà.”
Bài thơ được Bác Hồ sáng tác khi còn tại chiến khu Việt Bắc, trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1946 - 1954). Cuối năm 1947, quân Pháp tấn công dồn dập lên căn cứ Việt Bắc nhằm tiêu diệt cơ quan lãnh đạo của quân ta. Nhưng nhờ sự đoàn kết và lãnh đạo thông minh của Đảng, chiến dịch Việt Bắc đã đẩy lui kế hoạch của quân địch.
Mở đầu bài thơ, Hồ Chí Minh đã mô tả vẻ đẹp của thiên nhiên. Khi đêm buông xuống, ánh trăng sáng rừng rực và lan tỏa khắp mọi nơi. Nhà thơ cảm nhận tiếng suối chảy như làn nhạc xa xôi. So sánh “tiếng suối như tiếng hát xa” khiến cho âm thanh của suối vang vọng. Sau đó là hình ảnh lãng mạn của ánh trăng. Trăng luôn là một chủ đề quen thuộc.
Lý Bạch đã từng mô tả ánh trăng trong 'Tĩnh dạ tứ' để gợi nhớ về quê hương với lòng nhớ nhung đậm đà:
“Sàng tiền minh nguyệt quang,
Nghi thị địa thượng sương.
Cử đầu vọng minh nguyệt,
Đê đầu tư cố hương.”
(Đầu giường ánh trăng rọi,
Ngỡ mặt đất phủ sương.
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng,
Cúi đầu nhớ cố hương.)
Trong bài thơ “Cảnh khuya”, Bác Hồ đã miêu tả ánh trăng thông qua từ ngữ: “Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa”. Đoạn thơ này có thể hiểu theo hai cách. Thứ nhất, ánh trăng chiếu xuống từ trên cao, xuyên qua mỗi nhánh cây, chiếu sáng cả những bông hoa rừng. Toàn bộ không gian núi rừng Việt Bắc đều được phủ bởi ánh trăng. Thứ hai, ánh trăng sáng chiếu qua từng nhánh cây cổ thụ, khiến cho mặt đất trở nên như được phủ bởi sương. Cả hai cách hiểu đều tạo ra hình ảnh lãng mạn của thiên nhiên ở núi rừng Việt Bắc.
Đối diện với vẻ đẹp của thiên nhiên, Bác Hồ đã truyền đạt tâm tư, tình cảm của mình. Con người hiện ra với hành động “chưa ngủ”. Có thể là vì cảnh thiên nhiên quá đẹp đẽ khiến cho nhà thơ không thể rời mắt. Điều này khiến cho ông lạc trong say mê mà quên đi rằng đã là đêm khuya. Hoặc có thể “chưa ngủ” là vì lo lắng cho nhân dân, cho công cuộc cách mạng của đất nước. Bác Hồ đã khéo léo sử dụng biện pháp tu từ điệp ngữ - cụm từ “chưa ngủ” được lặp lại hai lần, nhấn mạnh tâm trạng lo lắng, suy tư của nhà thơ về cuộc sống của nhân dân, về công cuộc cách mạng của đất nước trong bối cảnh đất nước đang bị xâm lược bởi thực dân Pháp.
Với tâm trạng thơ mộng và lòng yêu đời, bài thơ “Cảnh khuya” đã thể hiện sự mê mẩn với thiên nhiên cũng như tình yêu quê hương, đất nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
........Xin vui lòng tham khảo chi tiết trong tài liệu tải xuống dưới đây........