Trong chương trình học môn Ngữ văn lớp 8, chúng ta sẽ tìm hiểu đoạn trích Tức nước vỡ bờ. Vì thế, Mytour sẽ cung cấp tài liệu Bài văn mẫu lớp 8: Phân tích đoạn trích Tức nước vỡ bờ.
Tài liệu này bao gồm 2 dàn ý và 8 bài văn mẫu. Mời bạn tham khảo chi tiết tài liệu được đăng tải dưới đây.
Kế hoạch phân tích tác phẩm Tức nước vỡ bờ
(1) Giới thiệu
Mở đầu, giới thiệu về đoạn trích Tức nước vỡ bờ.
(2) Nội dung chính
a. Mô tả cảnh chị Dậu chăm sóc chồng
- Tình hình gia đình:
- Được mô tả là 'nghèo nhất nhì trong hạng cùng đinh', phải đi khắp nơi vay tiền để trang trải cho cuộc sống của chồng.
- Trong khi anh Dậu đang ốm, lại bị lính đánh và trói, rồi lôi ra khỏi nhà cùm kẹp.
- Chị Dậu vì lo lắng cho gia đình nên đã bán con gái đầu lòng, Tí, chỉ mới 7 tuổi, cho lão Nghị Quế ở thôn Đoài để lấy tiền trả nợ.
- Trong một đêm ác mộng, họ cõng anh Dậu về. Bà con hàng xóm đến giúp đỡ, có một bà lão mang một bát gạo đến để chị nấu cháo.
- Sự quan tâm của chị Dậu đối với chồng:
- Chị làm cháo xong, mang ra giữa nhà để chờ nguội.
- Khi cháo đã nguội, chị mang đi và rón rén đặt ở bên chồng, nhẹ nhàng khuyến khích anh dậy để ăn.
- Chị ngồi bên cạnh, quan sát và chờ đợi xem chồng có thích món ăn không.
=> Một người vợ hiền hậu, đầy yêu thương và chăm sóc chu đáo cho chồng.
b. Cảnh cả gia đình lí trưởng đến thu sưu và phản kháng của chị Dậu
- Tình huống: Khi anh Dậu mới đưa cháo vào miệng thì cai lệ và gia đình lí trưởng xông vào, mang theo roi gậy, dây thừng và thước đo để yêu cầu chị Dậu nộp phần còn thiếu của sự sưu tập cho người em chồng đã qua đời từ năm trước.
- Mục đích: Bắt chị Dậu phải trả nợ cho người em chồng đã qua đời từ năm ngoái.
- Thái độ của cai lệ và gia đình lí trưởng:
- Chửi rủa, đe dọa bằng những lời lẽ thô tục, thiếu văn hóa.
- Cai lệ thậm chí còn tát vào mặt chị Dậu, và còn dọa đánh anh Dậu.
- Về Chị Dậu:
- Ban đầu, chị lịch sự gọi tên cai lệ và người nhà lí trưởng là “ông” và “cháu”, kiên nhẫn van xin họ tha cho việc nợ nần.
- Nhưng khi tên cai lệ sắp lao đến đánh anh Dậu, dường như chị quá bực tức và không thể chịu đựng nữa: “Chồng tôi đang ốm, các ông không được phép hành hạ”.
- Khi tên cai lệ tát vào mặt chị và lao vào anh Dậu, những cảm xúc kìm nén trong chị bắt đầu bộc phát thành hành động rõ ràng:
- Chị nghiến răng: “Mày trói chồng tôi đi, tôi sẽ cho mày biết”; “Rồi chị túm cổ hắn, đẩy hắn ra cửa…”. Sự phản kháng mạnh mẽ từ một phụ nữ quyết đoán và mạnh mẽ.
=> Chị Dậu không chỉ là một người phụ nữ yếu đuối mà còn là người dũng cảm, mạnh mẽ khi bảo vệ gia đình.
(3) Kết thúc
Khẳng định giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn trích Tức nước vỡ bờ.
Phân tích văn bản Tức nước vỡ bờ - Mẫu 1
Ngô Tất Tố là một trong những tác giả xuất sắc nhất trong trào lưu văn học hiện thực trước Cách mạng. Ông đã viết về nhiều lĩnh vực, từ triết học cổ văn học Trung Hoa đến văn học cổ đại Việt Nam, bao gồm cả việc viết báo, tiểu thuyết, truyện ngắn và dịch thuật. Trong các tác phẩm văn học của mình, ông thường tập trung vào đề tài nông thôn Việt Nam trước cách mạng, đặc biệt thành công với tiểu thuyết Tắt đèn được ca ngợi là một kiệt tác về xã hội nông thôn.
Tác phẩm Tức nước vỡ bờ phản ánh một cách tập trung và điển hình về xã hội nông thôn, đặc biệt về nạn thuế sưu vốn và sự bất công, tàn ác từ phía quan lại. Trích đoạn này kể về sự khốn khổ và phản kháng dũng cảm của chị Dậu trước sự bạo lực của cai lệ và lính ép thuế.
Chị Dậu, tên thật là Đào, phải đối mặt với nhiều khó khăn trong cuộc sống, đặc biệt là với nạn thuế và sự tra tấn từ phía quan lại. Cuộc sống khó khăn khiến gia đình chị phải đối mặt với nhiều khó khăn và bất công.
Anh Dậu cố gắng tìm cách vay tiền để đóng thuế nhưng gặp nhiều trở ngại. Cuộc sống khốn khó khiến chị Dậu phải chấp nhận bán con gái và thậm chí cả đàn chó để đủ tiền đóng thuế.
Đoạn trích về việc bị ép thuế
Cảnh báo về hành vi đòi thuế độc ác
Sự tàn ác của chế độ thuế áp bức
Trước tình thế kinh khủng, chị Dậu chỉ nghĩ đến việc làm sao cứu chồng khỏi sự bắt bớ. Ban đầu, chị nghĩ đến việc van xin bọn cai lệ, nhưng thất bại. Rồi chị quyết định đấu tranh bằng sức mạnh, với sự kiên nhẫn và sự phản kháng không ngừng.
Mặc dù biết rằng sẽ phải đối mặt với nhiều khó khăn sau này, nhưng hành động của chị Dậu đã phản ánh sự mạnh mẽ và yêu thương sâu đậm với gia đình. Chị không chỉ là người nhẫn nhục và hy sinh, mà còn là người biết tự bảo vệ bản thân và gia đình mình.
Tác phẩm Tức nước vỡ bờ - Mẫu 2 đã thể hiện rõ sự đấu tranh và lòng dũng cảm của con người trước những gian khổ và bất công của xã hội. Đồng thời, nó cũng là cái gương phản ánh sự tàn bạo và bất nhân trong xã hội phong kiến, khuyến khích sự phản kháng và tự bảo vệ của người dân nông thôn.
Chương Tức nước vỡ bờ trong tiểu thuyết Tắt đèn là một điểm nhấn kịch tính. Trong mười bảy chương trước đó, chị Dậu và chồng đã phải chịu đựng hàng loạt khó khăn vì vấn đề sưu thuế.
Gia đình chị Dậu, dù nghèo khó, đã phải đối mặt với đòn roi của chế độ thực dân, phong kiến. Cai lệ và người nhà lí trưởng là biểu tượng của sự tàn ác và bất nhân trong xã hội.
Bức tranh về cai lệ và người nhà lí trưởng thể hiện sự thối nát của chế độ cũ. Dù có thế lực khác biệt, họ đều tàn ác và không từ thủ đoạn.
Trong bối cảnh căng thẳng, chị Dậu đã phản kháng quyết liệt trước sự bất nhân của cai lệ và người nhà lí trưởng. Sự dũng cảm của chị là điểm sáng trong cảnh tối tăm của xã hội.
Các hành động như 'sầm sập tiến vào', 'gõ đầu roi xuống đất', 'thét', 'quát'... làm nổi bật bản chất tàn ác của cai lệ và người nhà lí trưởng. Ngô Tất Tố không chỉ miêu tả bề ngoài mà còn nhấn mạnh vào tính cách độc ác của họ.
Chị Dậu trong tiểu thuyết Tắt đèn không chỉ là một người phụ nữ nhẫn nhục mà còn là một người có tinh thần phản kháng. Sự quyết đoán của chị được thể hiện rõ khi chị đấu tranh bảo vệ gia đình và những người yêu thương.
Tình huống 'tức nước vỡ bờ' thể hiện sự quyết liệt của chị Dậu khi đối mặt với sự bất công. Chị không ngần ngại đấu tranh cho cái đúng, bảo vệ tính mạng và danh dự của gia đình.
Dưới bàn tay của Ngô Tất Tố, chị Dậu trở nên mạnh mẽ và quyết đoán hơn bao giờ hết. Sự phản kháng của chị là biểu tượng cho lòng dũng cảm và tình yêu thương vô điều kiện.
Sức mạnh của chị Dậu không chỉ đến từ lòng yêu thương chồng con mà còn từ lòng kiên nhẫn và sự quyết đoán trong đấu tranh với sự bất công. Chị Dậu là biểu tượng của sự mạnh mẽ và dũng cảm trong tình yêu gia đình.
Trong 'Tắt đèn', Nguyễn Tuân miêu tả chị Dậu như một biểu tượng của sự lạc quan. Với bút pháp tinh tế, Ngô Tất Tố đã tạo ra một nhân vật sống động, có khả năng tương tác với cuộc sống thực.
Một bài phân tích về tác phẩm 'Tức nước vỡ bờ - Mẫu 3'.
Trong truyện, Ngô Tất Tố đã khéo léo phản ánh mâu thuẫn xã hội và lòng thương cảm đối với nhân vật chị Dậu. Ông đã thành công trong việc làm nổi bật những phẩm chất của người nông dân dưới bàn tay ác ôn của giai cấp thống trị.
Ngô Tất Tố đã vẽ nên hình ảnh rất sắc nét của chị Dậu, một người phụ nữ mạnh mẽ và kiên cường. Qua đó, ông đã làm nổi bật những giá trị đạo đức và lòng kiên nhẫn của người nông dân.
Cảnh chị Dậu đối đầu với cai lệ trong đoạn trích làm nổi bật sự quyết liệt và lòng dũng cảm của người phụ nữ Việt Nam trong bối cảnh khó khăn của thời kỳ đó. Đây là một trong những điểm độc đáo của tác phẩm 'Tắt đèn'.
Chị Dậu là một người phụ nữ yêu thương chồng hết mực, chăm sóc chồng ốm và lo cho con cái. Chị tận tâm với việc chăm sóc gia đình và thể hiện sự dịu dàng của mình thông qua việc nấu cháo cho chồng.
Chị Dậu đứng lên đối đầu với bọn cai lệ và tay sai của lí trưởng để bảo vệ gia đình. Hành động quả cảm của chị là biểu tượng cho sự phản kháng của nhân dân Việt Nam trước bạo quyền.
Chị Dậu không chịu sự bắt nạt từ bọn cai lệ. Bằng sự kiên nhẫn và dũng cảm, chị đã đấu tranh và chống lại sự áp bức của họ.
Hành động của chị Dậu khiến cai lệ và tay sai phải nhận thức được sức mạnh của phụ nữ nông dân. Đây là một bước tiến lớn trong cuộc đấu tranh chống lại sự bất công và đàn áp.
Cai lệ được miêu tả như một biểu tượng cho sự độc ác và tàn bạo của giai cấp thống trị. Hắn là kẻ đàn áp người nghèo và làm người ta khâm phục sức mạnh của chị Dậu trong cuộc đấu tranh.
Đoạn trích Tức nước vỡ bờ là một phần văn bản đầy ý nghĩa thực tế. Ngô Tất Tố mô tả chị Dậu như một người phụ nữ dịu dàng nhưng cũng mạnh mẽ, yêu thương gia đình và đấu tranh với bất công xã hội.
Phân tích tác phẩm Tức nước vỡ bờ - Mẫu 4
Ngô Tất Tố là một nhà văn hiện thực, qua tác phẩm của ông, chúng ta thấy sâu sắc những vấn đề xã hội và những nhân vật sống động.
Những vấn đề như nghèo đói, bạo lực xã hội, và sự bất công được Ngô Tất Tố phản ánh qua những tác phẩm của mình, đặc biệt là qua nhân vật vợ chồng chị Dậu.
Cảnh báo của tác giả về hình ảnh những người nông dân bị áp bức và đấu tranh vì cuộc sống của họ được thể hiện một cách sống động trong đoạn trích này, khiến người đọc cảm thấy xúc động và suy tư.
Hình ảnh này đã gây ấn tượng mạnh mẽ đến những người này, khi họ bị đánh đập dã man vì không nộp đủ sưu thuế. Trong hoàn cảnh xã hội như vậy, cái đói nghèo vẫn đang bao vây, nhưng họ vẫn cố gắng kiếm miếng cơm manh áo. Những hình ảnh này mang đặc trưng của người nông dân Việt Nam.
Các tên quan lại là những kẻ độc ác, và lính đi thu sưu thuế chỉ là bọn tớ của chúng. Những hình ảnh khi chị Dậu bị đánh và cố van xin đã thể hiện tình cảm của chị với chồng, và sức mạnh của chị khi đấu tranh với cái ác.
Trong tác phẩm, chị Dậu biểu hiện sức mạnh khi đứng lên đấu tranh chống lại cái ác để bảo vệ cuộc sống của họ. Họ là biểu tượng cho sức mạnh của dân tộc Việt Nam, đấu tranh chống lại sự tàn bạo của kẻ áp bức.
Phân tích tác phẩm Tức nước vỡ bờ - Mẫu 5
Ngô Tất Tố, một nhà văn hiện thực phê phán, luôn gắn liền với hình ảnh người nông dân khốn khổ, bị bóc lột và áp bức. Đoạn văn 'Tức nước vỡ bờ' trong tác phẩm 'Tắt đèn' gây nhiều xúc động và mang ý nghĩa sâu sắc trong lòng người đọc.
Tác giả lấy đề tài từ vụ thuế hàng năm ở những làng quê Bắc Bộ, với những hình ảnh như in đậm vào tâm trí của người đọc, hiện lên số phận bi thảm của những người phụ nữ nói chung và những người nông dân nói riêng cùng bản chất của giai cấp thống trị trong xã hội đương thời. Đó là tình cảnh của người nông dân “một cổ hai tròng” khi vừa chịu ách bóc lột của những kẻ tàn dư phong kiến còn sót lại, vừa của những kẻ đi theo thực dân pháp, bán đứng tổ quốc. Trong tác phẩm, tác giả đã sử dụng ngòi bút hiện thực để vẽ nên chân dung của hàng loạt những nhân vật ở trong tác phẩm. Điển hình cho những kẻ áp bức con người là vợ chồng Nghị Quế, luôn lợi dụng tình cảnh của những con người đang gặp khó khăn nhằm trục lợi hay những bọn tay sai cường hào tuy chỉ là những kẻ làm thuê nhưng chúng lại không biết thương yêu những người đồng loại vất vả mà lại chỉ biết áp bức những người nông dân tay không tấc sắt. đó chính là những con người đại diện tầng lớp tiêu biểu phong kiến tàn dư của xã hội.
Ngoài ra, tác giả còn rất khéo léo xây dựng hình tượng vô cùng kiên cường mà cũng đầy cảm động về hình ảnh của chị Dậu - một người phụ nữ luôn hết lòng chăm lo cho chồng cho con mà không nghĩ cho mình bao giờ. Tốt đẹp là thế nhưng họ luôn phải chịu sự áp bức từ kẻ khác. Họ cũng không có cách nào để phản kháng hoàn toàn bởi chính họ còn không biết làm cách nào thoát ra khỏi vũng lầy. Mở đầu là cảnh chị Dậu chăm sóc người chồng ốm yếu vừa bị bọn hào lí trong làng đánh đập dã man chỉ vì thiếu tiền nộp sưu. Chị Dậu đã cố gắng hết sức để cứu chồng nhưng cuối cùng anh Dậu vẫn không tránh được sự bắt bớ, hành hạ. Có thấy được tình thương yêu chổng con sâu sắc của chị Dậu, ta mới hình dung được sự dũng cảm quên mình của chị. Chị tất tả chạy ngược chạy xuôi, vay được nắm gạo nấu nồi cháo loãng. Cảm động thay là cảnh chị Dậu múc cháo ra mấy cái bát cũ kĩ, sứt mẻ và quạt cho cháo mau nguội rồi ân cần mời mọc: Thầy em cố dậy húp tí cháo cho đỡ xót ruột. Trong ánh mắt và giọng nói của người vợ nghèo khổ ấy toát lên một tình cảm tha thiết đến nao lòng.
Chị Dậu đã trở thành trụ cột của cái gia đình đang quẫn bách khốn khổ vì sưu, vì thuế. Chồng bị đánh đập, gông cùm. Một tay chị chèo chống, chạy vạy, phải bán tất cả những gì có thể bán được, kể cả đứa con gái đầu lòng ngoan ngoãn, hiếu thảo mà chị thương đứt ruột để lấy tiền nộp sưu, cứu chồng khỏi vòng tù tội. Chị đã phải đổ bao mồ hôi nước mắt để anh Dậu được trả tự do trong tình trạng tưởng như chỉ còn là một cái xác không hồn. Giữa lúc anh Dậu vừa bưng bát cháo kề vào miệng thì cai lệ và người nhà lí trưởng đã sầm sập sấn vào với những roi song, tay thước và dây thừng, hò hét bắt anh phải nộp tiền sưu. Quá khiếp đảm, anh Dậu đã lăn đùng ra không nói được câu gì, chỉ còn chị Dậu một mình phải đối phó với những kẻ độc ác, luôn đòi ra tay với vợ chồng chị.
Ban đầu, khi bọn chúng ập vào định lôi anh Dậu đi nhưng chưa hành hung mà chỉ chửi bới, mỉa mai, đe dọa thì chị Dậu vẫn nhũn nhặn van xin tên cai lệ độc ác. Vả lại, kinh nghiệm lâu đời đã thành bản năng của người nông dân thấp cổ bé họng là phải biết rõ thân phận mình. Thói quen nhẫn nhục khiến chị chỉ dám năn nỉ, khơi gợi lòng nhân từ của tên cai lệ: Cháu van ông, nhà cháu vừa mới tĩnh được một lúc, ông tha cho! Cách xưng hô ông, cháu của chị Dậu là cách xưng hô của kẻ dưới với người trên, biểu hiện sự hạ mình. Bọn chúng chẳng thèm nghe mà sầm sập chạy đến chỗ anh Dậu, định bắt trói anh một lần nữa thì chị Dậu đã giận xám mặt nhưng vẫn cố chịu đựng, níu tay tên cai lệ van nài: Cháu xin ông! Mọi lời nói, hành động của chị Dậu đều không ngoài mục đích để bảo vệ chồng.
Đến khi giới hạn của sự chịu đựng bị phá vỡ thì tính cách cứng cỏi của chị Dậu mới thật sự bộc lộ. Lúc tên cai lệ đáp lại lời van xin của chị bằng những cú đấm thô bạo rồi sấn đến trói anh Dậu thì chị tức quá không thể chịu được nên đã liều mạng chống cự lại. Sự bùng nổ tính cách này là kết quả tất yếu của quá trình chịu đựng lâu dài sự tàn ác, bất công. Điều đó đúng với quy luật có áp bức, có đấu tranh. Người đọc xót thương một chị Dậu phải hạ mình van xin bao nhiêu thì càng đồng tình, nể phục một chị Dậu đáo để, quyết liệt bấy nhiêu. Lúc đầu, chị cự lại tên cai lệ bằng lí lẽ: Chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ! Thực ra, chị chỉ nói đốn lòng nhân đạo tối thiểu của con người. Chị không còn xưng cháu và gọi tên cai lệ bằng ông nữa mà xưng là tôi – ông, ngẩng cao đầu nhìn thẳng vào mặt đối thủ.
Từ vị thế thấp hèn của kẻ dưới, chị Dậu bất ngờ trở thành đối thủ ngang tài với những kẻ từng trước đây luôn áp đặt sức mạnh lên họ. Lời cảnh cáo của chị mang trong đó sự cứng rắn nhưng cũng không thiếu đi tình cảm và lý trí. Dù thế nào đi nữa, cái ác luôn dám đối đầu. Kẻ cai lệ tiếp tục tấn công, nhằm vào chị và muốn lôi anh Dậu đi. Tình yêu thương chồng của chị đã thúc đẩy họ phải đứng lên chống lại bọn kẻ tàn ác đang muốn phá hủy hạnh phúc gia đình chị.
Chị không chấp nhận để chồng mình bị đau đớn thêm một lần nào nữa. Hành động phản kháng bất ngờ này không chỉ là kết quả của sự tích tụ từ những ngày tháng chị chịu đựng mà còn là sự phản ứng tự nhiên dưới vẻ ngoài kiên nhẫn hàng ngày của chị. Sự kiên nhẫn kéo dài và áp lực cuối cùng đã khiến cho sự phản kháng bùng nổ mạnh mẽ hơn. Sau lời cảnh cáo sắc bén là hành động quyết liệt. Chị nắm lấy cổ hắn, đẩy ra cửa. Sức mạnh khỏe khoắn của người phụ nữ trấn lột không giúp cho kẻ tay sai chạy thoát. Chỉ trong một thoáng chốc, họ đã bị chị Dậu đánh gục. Điều này chứng minh sức mạnh của lòng căm hờn, được sinh ra từ tình yêu thương và ý thức bảo vệ cho gia đình.
Tuy nhiên, sự phản kháng của chị Dậu chỉ là hành động cá nhân, chưa phải là sự nổi dậy phá vỡ áp bức và bất công để tự giải thoát của một cộng đồng, một dân tộc. Mặc dù vậy, điều này cũng là minh chứng cho quy luật của cuộc đấu tranh. Áp bức càng lớn, đấu tranh càng mạnh mẽ.
Ý nghĩa của câu tục ngữ 'tức nước vỡ bờ' qua bút tích của Ngô Tất Tố đã được thể hiện một cách sống động và thuyết phục. Mặc dù tác giả vẫn chưa thể nhận ra sự cách mạng và tác phẩm kết thúc bằng một bức tranh bế tắc của chị Dậu, nhưng Nguyễn Tuân đã nhận xét rằng Ngô Tất Tố, với Tắt đèn đã “khơi gợi người nông dân đấu tranh cách mạng…”.
Phân tích tác phẩm Tức nước vỡ bờ - Mẫu 6
Tắt đèn là một trong những tác phẩm nổi tiếng của nhà văn Ngô Tất Tố, không chỉ mang giá trị hiện thực mà còn chứa đựng giá trị nhân đạo sâu sắc. Mặc dù bị đàn áp, đẩy vào tình cảnh khó khăn nhưng họ không từ bỏ, luôn giữ lấy tinh thần phản kháng quyết liệt. Đoạn trích Tức nước vỡ bờ một mặt tiết lộ bản chất tàn ác của tầng lớp thống trị, mặt khác ca ngợi vẻ đẹp của tình yêu thương và sức mạnh phản kháng tinh thần của người nông dân.
Nhan đề “Tức nước vỡ bờ” được chọn bởi nhà biên soạn, là một thành ngữ thể hiện quy luật khi nước bị dồn nén quá lâu, sẽ vượt ra và làm vỡ bờ. Qua câu này, nói lên quy luật của xã hội: áp bức sẽ dẫn đến đấu tranh. Việc chọn đề này cho đoạn trích là hoàn toàn phù hợp: vừa phản ánh đúng nội dung của tác phẩm, vừa nêu lên chân lý: khi con đường sống của nhân dân bị áp bức, chỉ có con đường đấu tranh mới giải phóng được. Trong tác phẩm, có hai nhân vật chính là tên cai lệ và chị Dậu, mỗi người đại diện cho một tầng lớp, một phẩm chất khác nhau, từ đó phản ánh quan điểm của tác giả về xã hội lúc đó.
Nhân vật cai lệ đại diện cho mặt độc ác, bất nhân của tầng lớp thống trị trong xã hội thuộc địa nửa phong kiến. Anh là một tay sai 'chuyên nghiệp', tinh thông trong việc đánh đập, trói buộc, đe dọa và cướp của dân lành. Hành động tàn ác của anh được hình thành từ ý thức rằng đang thực hiện công việc của 'người nhà nước'. Vì suy nghĩ đó, mọi hành động của anh đều độc ác, không chút lòng từ. Thể hiện rõ nhất qua lời nói và hành động. Dù anh Dậu đang bị ốm, chị Dậu van xin tha thứ, nhưng anh vẫn sẵn lòng đánh đập anh. Người nhà lí trưởng sợ hãi không dám hạ thủ trước một người ốm nhưng chính anh ta lại là kẻ thực hiện hành động. Anh 'nhấc sợi dây' từ tay người nhà lí trưởng 'chạy sầm sập đến để trói anh Dậu'. Anh là kẻ tàn nhẫn, độc ác. Trước sự can ngăn của chị Dậu, anh không ngần ngại 'đấm thẳng vào ngực', 'tát vào mặt',... ngay cả với một phụ nữ anh cũng sẵn lòng tấn công. Anh thực sự không đáng là con người.
Bên cạnh tên cai lệ độc ác, bất nhân là hình ảnh của chị Dậu, có hoàn cảnh bi thảm nhưng lại mang trong lòng tình yêu thương và sức mạnh phản kháng mãnh liệt. Gia đình chị vốn là hạng cùng đinh trong làng, vất vả lo cho chồng, lại phải lo thêm cho em trai đã khuất, khiến gia đình chị ngày càng khốn khổ hơn. Chị bán thậm chí cả con chó, con mèo để có tiền nộp sưu, trong hoàn cảnh đó cai lệ và người nhà lí trưởng xông vào đòi bắt giữ anh Dậu. Tình thế khốn cùng và thảm thương.
Tình yêu thương của chị được thể hiện rõ nhất qua lời nói và hành động với chồng. Chị mang bát cháo đến cho chồng, nhìn anh ăn với lòng lo lắng không biết anh có thích không. Dáng vẻ của người phụ nữ ấy đáng quý biết mấy. Chị vất vả chạy vùng vẫy khắp nơi, nhưng lúc này chị chỉ lo cho chồng, cho con mà không hề nghĩ đến bản thân. Khi cai lệ đến, chị cầu xin, van nài, chị tự hạ mình trước tên cai lệ tàn bạo để chồng không bị đánh đập. Khi mọi cố gắng của chị đều bị bác bỏ, chị sẵn lòng đứng lên chiến đấu để bảo vệ chồng. Chị thật sự là một người phụ nữ tận tâm, yêu thương chồng mình đến tận cùng.
Nhưng không chỉ có vậy, trong người phụ nữ nông dân chất phác ấy còn hiện hữu một sức sống tiềm ẩn mạnh mẽ. Sự phản kháng của chị được thể hiện theo một trình tự hợp lý từ việc cố gắng van xin, đến chống cự bằng lý lẽ và cuối cùng là đáp trả bằng hành động. Sự phản kháng của chị bắt đầu như một tia hy vọng, nhưng cũng phần nào phản ánh sức sống tiềm ẩn trong chị và những người phụ nữ nông dân như chị. Khi gặp áp bức, đẩy vào bước đường cùng, chắc chắn họ sẽ nổi lên đấu tranh: “Thà ngồi tù. Để chúng nó làm tình làm tội mãi thế, tôi không chịu được”. Chị Dậu không chỉ là một người phụ nữ giản dị, khiêm nhường, giàu lòng yêu thương và sự kiên nhẫn, mà còn có một tinh thần phản kháng và sức sống mãnh mẽ. Chị là biểu tượng cho vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam.
Tác phẩm thành công ở nghệ thuật xây dựng câu chuyện. Tình huống truyện giàu kịch tính, đạt đến đỉnh cao. Những xung đột, mâu thuẫn đã phản ánh tính cách của từng nhân vật. Tính cách của nhân vật chủ yếu được thể hiện thông qua hành động, ngôn từ không đi sâu vào tâm trạng nhân vật: tên cai lệ độc ác, bất nhân đại diện cho bộ máy cầm quyền; chị Dậu yêu thương chồng con, sức sống tiềm ẩn mãnh liệt, đại diện cho vẻ đẹp của người phụ nữ nông dân. Ngôn từ sử dụng ngôn ngữ hiện thực, giản dị, dễ hiểu, phản ánh tinh thần của thời đại.
Qua việc xây dựng nhân vật đặc sắc, ngôn từ giản dị, tác giả đã phản ánh cuộc sống của người dân dưới chế độ thực dân nửa phong kiến. Lên án những kẻ cầm quyền tàn ác, đàn áp, áp bức nhân dân đến bước đường cùng. Đằng sau đó là sự yêu thương, đồng cảm với những số phận đau thương và sự trân trọng vẻ đẹp tinh thần của người nông dân.
Phân tích tác phẩm Tức nước vỡ bờ - Mẫu 7
Ngô Tất Tố, một nhà văn nổi tiếng, là một nhà báo và học giả có những tác phẩm nghiên cứu về triết học Đông Phương và văn học cổ. Ông cũng là một nhà văn tài năng, luôn gần gũi với người nông dân “chân lấm tay bùn” thông qua những tác phẩm văn học bất hủ, tiêu biểu trong đó là “Tắt đèn”. Với cái nhìn sâu sắc, việc chọn lựa những nhân vật độc đáo, ông tái hiện hình ảnh đau đớn của người nông dân Việt Nam, đồng thời “Tắt đèn” cũng là sự “báo cáo” về tội ác của các quan lại, địa chủ và cường thịnh ác bá thời thực dân - phong kiến. Điển hình cho tình cảnh đau đớn đó là gia đình chị Dậu trong mùa thuế. Dù sống trong cảnh khốn khổ, đê tiện thế nào, chị Dậu vẫn là một người phụ nữ mạnh mẽ, lương thiện, giàu lòng hy sinh và tình chân thành của một người vợ và người mẹ. Và khi bị chế độ áp bức đẩy vào đường cùng, chị đã dám đứng lên chống lại bằng sức mạnh của mình qua đoạn văn trích “Tức nước vỡ bờ”.
Vì thiếu sưu thuế mà anh Dậu bị bọn cường hào ác bắt giải ra đình hành hạ, đánh đập, bỏ nắng, phơi sương cho đến khi ngất xỉu. Lo sợ vạ lây, chúng sai người nhà lý trưởng cõng xác của anh về trả cho gia đình chị Dậu. Trong tình cảnh khốn cùng, chị đã cố gắng mọi cách để cứu chồng tỉnh táo. Hành động đó chứng tỏ lòng thương yêu sâu sắc của chị dành cho anh Dậu. Anh vừa tỉnh dậy thì nhà không có một hạt gạo để anh cầm hơi. Chị phải vất vả đi vay mượn ở hàng xóm được một lon gạo về nấu cháo cho chồng. Cháo vừa chín, chị múc ra bát và “lấy quạt, quạt cho cháo mau nguội” thì tiếng trống, tiếng tù và tiếng chó sủa inh ỏi vang lên ở đầu làng. Hơn ai hết, chị đã hiểu rằng sau tiếng oan nghiệt ấy sẽ xảy ra điều gì với anh Dậu, với gia đình chị. Do đó, chị càng băn khoăn, lo lắng.
Qua lời nói với bà hàng xóm khi bà chạy qua khuyên chị nên mang anh Dậu đi trốn sưu thuế, cũng làm rõ suy nghĩ băn khoăn đó. Chị trả lời: “thưa cụ cháu cũng nghĩ như cụ'. “Nghĩ như cụ' là chị cũng định mang anh Dậu đi trốn sưu thuế, nhưng vì anh “nhịn suông từ sáng hôm qua đến giờ', nên chị đã nấn ná để cho chồng húp ba miếng cháo lấy lại sức trước khi đi trốn. Cháo nguội, chị bưng một bát lớn và “rón rén” đặt cạnh nơi anh Dậu nằm. Cử chỉ đó tràn đầy tình thương, chỉ vì muốn chồng được yên tĩnh trong những phút ốm đau. Không chỉ thế, chị còn cố nài nỉ: “Thầy hãy cố dậy húp vài miếng cho đỡ đau ruột'. Lời nói đó chỉ có ở những người phụ nữ đầy lòng thương yêu, kính trọng chồng. Hơn nữa, “chị còn cố ý đợi xem chồng ăn có ngon miệng không?'. Một hành động nhỏ cũng đủ cho người đọc thấy chị là người hy sinh, hạnh phúc của chồng con là hạnh phúc của chính bản thân mình.
Anh Dậu vừa nâng bát cháo đưa lên miệng thì tên cai lệ và người nhà lý trưởng sầm sập, hung hăng tiến vào. Chúng hăm dọa, chửi bới, để cố đòi tiền sưu thuế.
“Gõ đầu roi xuống đất, cai lệ thét bằng giọng khàn khàn của người hút nhiều xái cũ:
- Thằng kia! Ông tưởng mày chết đêm qua, còn sống đấy à? Nộp tiền sưu thuế! Mau!'.
Trước sự khích lệ, lời lẽ hống hách nhưng vô cùng thô tục của tên cai lệ, anh Dậu sợ hãi đến mức “vợ đặt bát cháo xuống phản và bất lực không thốt nên lời gì'. Chỉ có chị Dậu đơn độc tay nách con tìm cách đối phó. Ban đầu, chị Dậu rất hoang mang, nhưng sau đó chị đã bình tĩnh lại và cố gắng tìm lời nói khôn khéo để vừa khấn cho được tiền sưu thuế, vừa trả đũa lại kẻ thù. Chị đã tự mình giảm bớt đẳng cấp xuống cấp “con” “cháu” và kính xưng kẻ thù là “ông”. Mặc dù bị xâm phạm danh dự cá nhân và gia đình, bị đe dọa: “cả nhà mày đi' và bị chửi bới: “nói cho cha mày biết đấy à”, nhưng chị vẫn cố gắng kiềm chế sự tức giận, cố gắng chứng minh sự phi lý của việc chính quyền buộc gia đình chị phải đóng thuế, vẫn cố gắng van xin tha thiết:
Nhà con vừa đóng sơ sưu của chú nó xong, chứ con dám lãng phí tiền của nhà nước à? Hai ông làm phúc nói với ông lí để cháu khấn... và khi không thuyết phục được, chị đã dám mở lời cố vấn: 'Tội lỗi! Nhà con đã không còn, dù ông nói gì đi chăng nữa. Xin ông hãy nhìn lại!”
Không đáp lại lời kêu xin, tên cai lệ ra lệnh cho người nhà lý trưởng “trói cổ thằng chồng nó lại, đưa ra đình kia!”. Người nhà lí trưởng “hình như không dám đối phó với một người” ốm đau thì chính anh ta giật mạnh sợi dây thừng đi đến gần anh Dậu. Lúc này chị Dậu mới “mặt xám”, đó là biểu hiện của người đang trong tình trạng sợ hãi và lo lắng. Chị vội đặt con xuống đất, chạy lại vừa cầm lấy tay cai lệ vừa cầu khẩn:
Con xin ông, nhà con vừa mới tỉnh dậy được, ông xin tha cho!
- Xin tha! Xin tha!
Hắn vừa nói vừa vồ lấy chị Dậu vài bộ bịch rồi lao tới để trói anh Dậu.
Đúng là một tình huống sống động diễn ra giữa một người đàn ông có ít quyền lực với một người phụ nữ nông dân hiếm khi thấy. Hành động của hắn như đổ thêm dầu vào lửa. Chị Dậu đã mạo hiểm đấu tranh. Từ lời nói của chị ở vị trí của người đồng minh với kẻ thù và như đưa ra một lệnh “chồng tôi đang đau ốm không được hành hạ”, và sau đó chị nói như thách thức: “mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem”. So với thái độ và lời nói của cai lệ và người nhà lý trưởng ưu thế, tự tin, thì chị Dậu là người biết đủ chỗ, nhịn chịu dù đang chịu sự bất công đè ép. Điều đó được thể hiện qua cách xưng hô ban đầu của chị. Thay đổi trong cách xưng hô là biểu hiện của biến đổi tâm trạng thành lời nói. Tự giảm bản thân xuống thành “con cháu”, “tôi”, và khi tức giận đến cùng thì chị đã nói là “bà”, trong khi cai lệ từ “ông” đã trở thành “mày”. Không chỉ dừng lại ở lời nói, chị đã đáp trả bằng hành động khi cai lệ “vồ lấy chị mấy bộ bịch”.
Sử dụng bạo lực để chống lại bạo lực. Chị biến sự căm thù thành hành động tích cực nhất. Chị tiến lên phía cai lệ để: “túm lấy cổ kẻ án giúp ra cửa”. Người nhà lý trưởng khi thấy anh đàn anh của mình bị đánh ngã nên lại lao vào. Với sức mạnh của đàn bà nông dân, chị nắm lấy tóc và quẳng cho một cái, khiến “hắn ngã chòng queo ra thềm”. Chị không chỉ thể hiện tinh thần đấu tranh mà còn chứng minh tiềm năng của những người nô lệ khi bị đẩy vào chân tường. Điều đó càng được minh chứng qua câu trả lời của chị khi nghe anh Dậu nhắc về việc “phải ngồi tù, phải chịu tội” khi đánh bọn đi đòi sưu thuế:
Thà ngồi tù. Để chúng mày làm tội mãi mãi thế, tôi không chịu được...”
Chị Dậu thực sự là hình ảnh đặc trưng của phụ nữ Việt Nam sau thời kỳ lũy tre làng.
Khi bị sức mạnh bất công ép buộc, họ biết phải đứng lên. Dù là đấu tranh tự do, đánh đuổi bọn cai lệ và người nhà lý trưởng để “thà chịu ngồi tù”, nhưng hành động đấu tranh của chị đã giúp chúng ta nhận ra rõ hơn phần nào chân lý: “Nơi nào có áp bức, nơi đó có đấu tranh”, “Tức nước” (sức mạnh bất công áp đặt) thì “vỡ bờ” (nhân dân đứng lên chống lại); sức mạnh tiềm tàng của phụ nữ Việt Nam đã được làm rõ rất rõ.
Bằng cách lựa chọn kỹ lưỡng những chi tiết gây căng thẳng, miêu tả tự nhiên và đầy kịch tính, nhà văn Ngô Tất Tố đã làm cho người đọc cảm thấy xúc động qua nhân vật chị Dậu trong tác phẩm: “Tắt đèn” ông xứng đáng là một nhà văn có công lớn trong việc hình thành và phát triển văn học Việt Nam thuộc dòng văn học hiện thực phê phán, đúng với lời nhận xét của nhà phê bình Vũ Ngọc Phan rằng: “Đoạn chị Dậu đánh nhau với tên cai lệ là một đoạn văn tuyệt vời', và của nhà văn Nguyễn Tuân: “Xui người nông dân nổi loạn'.
Ngày nay, phụ nữ đã tự biết đấu tranh để giành quyền lợi hàng ngày, chống lại những hiện tượng tiêu cực để xây dựng xã hội và dạy dỗ con cái, lo lắng cho chồng con và còn là những giáo viên xuất sắc, thợ dệt tiên tiến, bác sĩ tận tụy trong công việc để xây dựng đất nước. Họ cũng đã đoàn kết lại để đối mặt với mọi khó khăn trước mắt. Để không làm thất vọng những người mẹ, những người chị đáng kính, em càng phấn đấu học hành, rèn luyện tích cực để sau này có đầy đủ phẩm chất để chống lại bất kỳ ai muốn sử dụng quyền lực để bắt con người ngày nay phải sống trong cảnh bất hạnh như chị Dậu đã phải trải qua.
Phân tích tác phẩm Tức nước vỡ bờ - Mẫu 8
Ngô Tất Tố, quê ở làng Lộc Hà, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc Đông Anh, Hà Nội; là một nhà Nho sống ở nông thôn, có vốn hiểu biết Hán học khá sâu rộng, ông nổi tiếng trên lĩnh vực báo chí và văn chương trong giai đoạn đầu thế kỉ XX. Tắt đèn là tác phẩm tiêu biểu trong sự nghiệp sáng tác của Ngô Tất Tố và trong trào lưu văn học hiện thực trước Cách mạng tháng Tám 1945.
Tác giả lấy đề tài từ một vụ thu thuế hàng năm ở một làng quê Bắc Bộ, qua đó phản ánh số phận bi thảm của nông dân và bản chất tàn bạo của giai cấp thống trị trong xã hội đương thời. Có thể nói tác phẩm Tắt đèn là bức tranh nhỏ của nông thôn Việt Nam dưới thời Pháp thuộc.
Trong tác phẩm Tắt đèn, với cách miêu tả sắc sảo, nhà văn đã khắc họa sinh động nhân vật từ vợ chồng lão Nghị Quế keo kiệt bất nhân đến bọn cường hào tham lam hống hách. Từ một quan “phụ mẫu” oai vệ mà bỉ ổi đến bọn tay sai đầu trâu mặt ngựa. Mỗi người một vẻ nhưng đều giống nhau ở bản chất tàn ác và tính đê tiện. Những nhân vật phản diện này tiêu biểu cho tầng lớp phong kiến thống trị ở nông thôn lúc bấy giờ.
Đặc biệt, Ngô Tất Tố đã thành công xuất sắc trong việc xây dựng hình tượng điển hình về người phụ nữ nông dân qua nhân vật chị Dậu. Nhà văn miêu tả chân thực và cảm động về số phận tủi cực của người nông dân bị áp bức, bóc lột, bị dồn đến bước đường cùng. Nhà văn chân thành ca ngợi phẩm chất đáng quý của họ trong hoàn cảnh sống tối tăm, ngột ngạt.
Thái độ yêu ghét của Ngô Tất Tố thể hiện rõ ràng qua từng trang sách. Tình cảm yêu mến, trân trọng mà ông dành cho người nông dân khiến ông thực sự là tri âm, tri kỉ của họ. Ông cũng không giấu sự khinh bỉ và căm ghét đối với bọn thống trị sâu rộng ở nông thôn. Về mặt nghệ thuật, Tắt đèn được coi là tiểu thuyết hiện thực xuất sắc nhất là tác giả đã tạo ra một thế giới nhân vật sống động, trong đó có những điển hình độc đáo.
Đoạn Tức nước vỡ bờ trích từ chương XVIII của tác phẩm, nội dung xoay quanh những biến động ghê gớm xảy ra với gia đình chị Dậu trong mùa sưu thuế.
Vụ thuế đang ở thời điểm căng thẳng nhất. Quan lại sắp tới làng để thu thuế. Bọn tay sai tàn bạo xông vào nhà những người chưa nộp thuế để đánh đập, trói buộc, bắt giữ và đưa ra đình để tiếp tục tra khảo. Chị Dậu đã phải bán đồ, bán cả đứa con gái lớn để nộp thuế cho chồng, nhưng bọn hào lí ngược đã bắt anh Dậu phải nộp cả suất của người em đã qua đời từ năm ngoái. Mặc dù anh Dậu đang bị ốm sau trận đòn và có vẻ như đã gần chết đêm trước. Nếu bị bọn chúng trói buộc một lần nữa, mạng sống của anh sẽ gặp nguy hiểm. Vấn đề quan trọng nhất bây giờ đối với chị Dậu là làm thế nào để bảo vệ chồng trong tình huống nguy hiểm này. Đoạn trích tiếp nối câu chuyện trên.
Qua đoạn trích, tác giả tiết lộ và lên án bản chất tàn ác và không nhân đạo của chế độ thực dân phong kiến vào thời điểm đó và phản ánh cảnh đau thương của nông dân cùng quy luật áp bức và đấu tranh. Nhà văn giúp chúng ta thấy được lòng nhân ái và sức sống tiềm ẩn của người phụ nữ nông dân nghèo khổ. Trong đoạn trích này có hai nhân vật chính là chị Dậu và tên cai lệ.
Bắt đầu là cảnh chị Dậu chăm sóc chồng ốm yếu sau khi bị bọn hào lí trong làng đánh đập dã man chỉ vì thiếu tiền nộp thuế. Chị Dậu đã cố gắng hết sức để cứu chồng nhưng cuối cùng anh Dậu vẫn không tránh khỏi việc bị bắt và bị hành hạ. Tình yêu thương sâu sắc của chị Dậu dành cho chồng được thể hiện rõ trong đoạn trích này. Chị tận tình chạy đủ nơi, vay gạo nấu nồi cháo loãng. Điều gì khiến ta cảm động là cảnh chị Dậu múc cháo ra các bát cũ rỗng rỉa, quạt cho cháo nhanh nguội và mời mọc: “Thầy em cố dậy húp cháo cho đỡ đói.” Trong ánh mắt và giọng điệu của người vợ nghèo khổ ấy toát lên một tình cảm thương yêu chân thành.
Chị Dậu đã trở thành điểm tựa của gia đình đang gặp khó khăn vì thuế. Chồng bị đánh đập, giam giữ. Một mình chị chống đỡ, chạy vụn vặt, phải bán mọi thứ có thể bán, thậm chí là đứa con gái hiền lành, dễ thương mà chị thương đến đứt ruột để lấy tiền nộp thuế, giải thoát chồng khỏi án tù. Chị phải đổ mồ hôi và nước mắt để anh Dậu được trả tự do trong tình trạng gần như đã mất hồn. Giữa lúc anh Dậu vừa nâng bát cháo lên miệng thì tên cai lệ và tay sai đã xông vào với roi, dây thừng, hò hét bắt anh phải nộp tiền thuế. Quá kinh khủng, anh Dậu đã ngã ra không nói được gì, chỉ còn mỗi chị Dậu một mình đối diện với bọn ác nhân.
Chị Dậu đã đối mặt với bọn nha dịch tay sai để bảo vệ chồng ra sao? Ban đầu, khi bọn chúng ập đến định lôi anh Dậu đi nhưng chưa hành hung mà chỉ chửi bới, đe dọa thì chị Dậu vẫn nhẫn nhục van xin tên cai lệ độc ác. Bọn tham lam nhân danh pháp luật, chính quyền để ra tay, còn chồng chị là hạng người có tội (!) nên chị phải níu kéo. Thói quen nhẫn nhục đã trở thành bản năng của người nông dân nghèo khó là phải nhận biết rõ thân phận của mình. Thói quen nhẫn nhục khiến chị chỉ dám van xin, kích thích lòng nhân từ của tên cai lệ: “Cháu van ông, nhà cháu vừa mới tĩnh được một lúc, ông tha cho!” Cách gọi ông, cháu của chị Dậu là cách gọi của người dưới với người trên, thể hiện sự kính trọng. Bọn chúng không chịu nghe mà tiếp tục xông vào đánh đập anh Dậu, nhưng chị Dậu vẫn kiên nhẫn, kẻ cùng còn níu kéo tên cai lệ: “Cháu xin ông!” Mọi hành động, lời nói của chị Dậu đều nhằm mục đích bảo vệ chồng.
Khi giới hạn của sự chịu đựng bị vượt qua, tính cách mạnh mẽ của chị Dậu mới thực sự hiện hình. Khi tên cai lệ đáp lại lời van xin của chị bằng những cú đấm dã man rồi lao đến trói anh Dậu, chị đã không thể chịu nổi nữa và liều mạng chống lại. Sự bộc lộ tính cách này là hậu quả tất yếu của quá trình chịu đựng lâu dài sự tàn ác và bất công. Điều đó phản ánh đúng với quy luật có áp bức và có đấu tranh. Người đọc đồng cảm với chị Dậu khi phải hạ mình van xin đến đâu và ngưỡng mộ sự kiên cường, quyết liệt của chị Dậu.
Ban đầu, chị đã đối đầu với tên cai lệ bằng lý lẽ: Chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ! Chị không còn gọi tên cai lệ là ông nữa mà tự xưng là tôi – ông, đứng thẳng nhìn vào mặt đối thủ.
Từ vị thế thấp hèn của người yếu hèn, chị Dậu đột ngột trở thành đối thủ ngang tầm với những kẻ từ lâu đã thống trị. Câu nói của chị là lời cảnh báo mạnh mẽ nhưng vẫn mang đầy tình cảm và lý lẽ. Tuy nhiên, cái ác thường không biết sợ. Tên cai lệ tiếp tục tấn công chị và cố gắng lôi anh Dậu đi. Tình yêu thương chồng đã thúc đẩy chị phải đối mặt với bọn tay sai tàn ác đang cố ý phá hủy gia đình chị.
Chị không chấp nhận để chồng bị hành hạ thêm một lần nữa. Hành động chống lại bọn tay sai diễn ra bất ngờ nhưng thực ra, ý định phản kháng đã tồn tại từ lâu dưới lớp vỏ bề ngoài của sự cam chịu nhục nhã của chị. Sự chịu đựng kéo dài và áp bức lên đến đỉnh điểm khiến cho ý chí phản kháng bùng nổ.
Khi tên cai lệ tàn ác tát vào mặt chị một cú đánh rất mạnh và sau đó lao vào định lôi anh Dậu đi, chị đã gắn chặt hai hàm răng và thách thức: Mày trói ngay chồng tao đi, tao cho mày xem! Không còn gọi ông – cháu nữa, chị chuyển sang xưng bà và gọi tên cai lệ là mày. Điều đó thể hiện sự tức giận, khinh bỉ đến cực điểm, đồng thời khẳng định tư thế của chị là sẵn sàng đối đầu với đối thủ. Chị Dậu là một đám lửa đang bùng cháy dữ dội. Chị không lựa chọn đấu khẩu với tên cai lệ tàn nhẫn mà ngay lập tức đối mặt và trừng phạt hắn.
Sau lời cảnh cáo quyết liệt là hành động phản kháng mạnh mẽ. Chị nắm lấy cổ hắn, đẩy ra cửa. Sức mạnh khỏe mạnh của người phụ nữ lực điền khiến cho kẻ đàn ông hung ác không kịp tránh né, hắn ngã sấp mặt xuống đất… Người nhà lí trưởng ác độc cũng bị chị Dậu nắm tóc; kéo một cái, ngã nhào ra thềm.
Đoạn văn mô tả cuộc đấu trí giữa chị Dậu và bọn ác nhân được tác giả mô tả rất sinh động và thú vị. Trong xã hội đầy tội ác, không có gì hơn khi mọi người chứng kiến cái ác bị trừng phạt đúng mức!
Tại sao chị Dậu có sức mạnh đặc biệt để đánh bại hai kẻ tay sai dã man như vậy? Đó là sức mạnh của lòng căm hận, có nguồn gốc từ tình yêu thương và ý thức bảo vệ gia đình của người phụ nữ nghèo khổ. Khi chăm sóc chồng và dám đối mặt với kẻ ác, chị Dậu luôn lựa chọn hành động vì chồng. Tình yêu và lòng phản kháng từ lâu đã thúc đẩy chị. Sự lo sợ trước áp bức biến mất, chỉ còn lại sự kiên định của một con người. Hành động phản kháng đó chính là biểu hiện cụ thể của tình yêu thương sâu đậm trong trái tim người phụ nữ, người dường như sinh ra để hi sinh và nhường nhịn suốt cuộc đời.
Tuy nhiên, phản kháng của chị Dậu chỉ là hành động cá nhân, chưa phải là sự nổi lên chống lại áp bức và bất công để giải phóng một cộng đồng. Tuy nhiên, điều này cũng chứng minh cho quy luật của sự áp bức và đấu tranh. Áp bức càng lớn, đấu tranh càng mạnh mẽ.
Khi nhìn thấy vợ cãi nhau với tên cai lệ và người nhà lí trưởng, anh Dậu sợ và muốn can thiệp, nhưng mệt quá, ngồi lên lại nằm xuống, vừa run vừa kêu: – U nó không được như vậy! Người ta đánh mình không sao, mình đánh người ta là tội. Anh Dậu cố nhắc vợ nhớ về sự thật phổ biến trong xã hội, nhưng chị Dậu không chấp nhận điều đó. Chị phẫn uất kêu lên: Thà ngồi tù, để chúng nó làm tội mãi thế tôi cũng không chịu được… Câu nói này thể hiện quyết tâm của chị Dậu không bao giờ chịu cúi đầu trước cảnh áp bức và bất công.
Ý nghĩa của câu tục ngữ 'tức nước vỡ bờ' qua bút hiện thực của Ngô Tất Tố được thể hiện rất sống động và thuyết phục. Mặc dù tác giả lúc đó chưa có ý thức cách mạng và tác phẩm kết thúc bằng cảnh chị Dậu đối mặt với bế tắc, nhưng nhà văn Nguyễn Tuân đã nhận xét rằng Ngô Tất Tố, với 'Tắt đèn' đã 'khơi dậy tinh thần đấu tranh cách mạng của người nông dân...'.
Với nhận thức sâu sắc về hiện thực, Ngô Tất Tố đã cảm nhận được xu hướng 'tức nước vỡ bờ' và sức mạnh khổng lồ của nó. Có thể nói đoạn trích này đã dự báo sự nổi dậy dữ dội của quần chúng nông dân dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ sẽ đẩy lùi chế độ thực dân phong kiến thối nát.
Nhân vật cai lệ trong đoạn trích đại diện cho lũ tay sai chuyên nghiệp, là công cụ đàn áp mạnh mẽ của giai cấp thống trị. Để khẳng định vị thế của mình trong vụ thuế, hắn tàn ác đánh người vô tội, trói trói người. Trong cơ cấu thống trị nông thôn, tên cai lệ này chỉ là một gã tay sai thấp kém. Hắn hung dữ, sẵn lòng gây tội ác mà không do dự vì không có ai ngăn cản. Hắn tự cho mình là đại diện của nhà nước. Hắn lợi dụng tên tuổi của pháp luật để áp đặt những hành vi tàn ác lên người nghèo. Vì vậy, có thể nói, tên cai lệ đó là biểu tượng của cái máy 'nhà nước' bất công lúc bấy giờ. Mặc dù chỉ xuất hiện trong một đoạn văn ngắn nhưng nhân vật cai lệ được mô tả sinh động, mang giá trị khái quát cao.
Đoạn trích 'Tức nước vỡ bờ' là một ví dụ điển hình cho bút pháp tả thực tài tình của Ngô Tất Tố. Ngôn ngữ kể chuyện, mô tả và đối thoại của nhân vật rất đặc sắc. Đó là lời nói bình dị, tự nhiên của cuộc sống hàng ngày. Mỗi nhân vật đều có ngôn ngữ riêng. Ngôn từ của tên cai lệ thô lỗ, hằn sâu. Lời lẽ của chị Dậu malone cảm, quyết định. Lời nói của bà cụ hàng xóm chân thành, hiền lành... Ngôn từ của nông dân được tác giả sử dụng một cách tinh tế, phù hợp với hoàn cảnh và tâm trạng.
Nhà văn Ngô Tất Tố đã tặng cho nhân vật chính, chị Dậu, một tình cảm yêu thương, sự thông cảm và sự trân trọng. Những tình tiết sống động và hấp dẫn trong đoạn trích đã giúp hoàn thiện tính cách của người phụ nữ nông dân hiền lành, đẹp đẽ.
Chị Dậu, trong sự mộc mạc, hiền dịu, và vị tha của mình, tỏ ra sống khiêm nhường và biết nhẫn nhục chịu đựng... nhưng chẳng hề yếu đuối. Ngược lại, chị vẫn toát lên một sức mạnh sống mạnh mẽ và một tinh thần phản kháng sâu sắc. Khi đẩy vào thế ngã xuống, chị đã mạnh dạn đứng lên chống lại mạnh mẽ. Đó là tinh thần kiên cường, mạnh mẽ, dám đối đầu với ác trong xã hội.