Trong tác phẩm Tức nước vỡ bờ, không ai có thể không nhắc đến cặp vợ chồng Nghị Quế, là một gia đình được chị Dậu bán cậu Tý và đàn chó để có tiền nộp sưu.
Bài văn mẫu lớp 8: Phân tích nhân vật vợ chồng Nghị Quế, tài liệu này được lựa chọn từ những bài văn hay của các học sinh giỏi văn trên toàn quốc. Đây là các bài văn mẫu phân tích nhân vật vợ chồng Nghị Quế, mời thầy cô và các bạn tham khảo.
Phân tích nhân vật vợ chồng Nghị Quế - Mẫu 1
Bản chất của bọn quan lại, địa chủ thời thực dân phong kiến là lợi dụng mọi cách để giàu có trên cơ thể và máu của nhân dân lao động nghèo khổ. Vợ chồng Nghị Quế là hình ảnh đặc trưng nhất đã được Ngô Tất Tố tạo ra thành công trong tác phẩm Tắt đèn.
Hình ảnh tàn ác, độc ác của ông Nghị và bà Nghị trong tác phẩm đã giúp chúng ta hiểu rõ hơn về tầng lớp địa chủ thời đó. Trong bối cảnh xã hội Việt Nam giai đoạn 1936-1939, nhân dân ta phải đối mặt với cả hai áp đặt: thực dân và phong kiến. Thuế thân, loại thuế áp đặt trực tiếp lên đầu người, khiến cho cuộc sống của nhân dân ta trở nên khó khăn hơn, với thực phẩm và quần áo không đủ, và tình hình ngày càng trở nên khốn khó, bất công.
Bên cạnh đó, bọn địa chủ chỉ cần có cơ hội thuế ngặt nghèo, khi cánh cổng của làng Đông Xá bị đóng lại, trâu bò không được ra đồng làm việc, họ đã tận dụng mọi cách tàn bạo nhất để mua rẻ và bán đắt từ tài sản đến sức lao động của người nghèo nhất. Thực tế, trong thời điểm đó, vợ chồng Nghị Quế đã tỏ ra độc ác, vô nhân từ khi mua lại ổ chó và đứa con ruột của chị Dậu.
Trước hết, Nghị Quế là một loại địa chủ ngu đần, tham lam và ích kỷ. Hắn tin rằng theo phong cách phương Tây là sang trọng, cho nên hắn yêu cầu vợ gọi con cái là mợ như bà phán, bà kí trên tỉnh, như là biểu hiện của văn minh. Từ cách gọi đến cách trang trí trong nhà đều được cải thiện. Hắn treo tranh quảng cáo sữa bò giữa hai câu đối trong phòng khách! Tuy nhiên, cách ăn uống của hắn thô thiển, thiếu văn minh và không sạch sẽ. Hắn thường xuyên đẽo miệng mấy lần rồi nhổ ra sàn nhà.
Hắn có một cái dinh cơ lớn, chỉ cần một đĩa giò kho làm mấy bữa ăn, và bà Nghị phải đếm từng miếng và giao việc cho người giúp việc. Trong thời gian thuế ngặt nghèo, vợ chồng Nghị Quế đã sử dụng mọi thủ đoạn, kể cả 'mua xong đánh chết', để mua rẻ chó của chị Dậu. Hơn nữa, họ cũng lợi dụng cơ hội này để mua luôn đàn chó với giá rẻ. Ông Nghị sử dụng các biện pháp đe dọa, tấn công và ép buộc chị Dậu vào tình thế khó khăn, biểu hiện qua những cử chỉ dữ dội như đập bàn, hét to..., và qua lời nói: “Bán đi làm văn tự. Không bán thì về, về thẳng!”... Ngược lại, bà Nghị thì lợi dụng các biện pháp dỗ dành, thể hiện thông cảm qua cử chỉ an ủi:
'Thôi thế này, chó tao cũng mua vậy, cả chó đực lẫn chó cái sang đây tao trả cho một đồng nữa. Với đứa bé kia một đồng là hai. Thế là mày đủ liền nộp sưu lại không cần nuôi chó nữa, cũng không cần nuôi con, thỏa mái nhé!”
Câu nói sướng nhé của bà Nghị thật đau lòng, như là một cái dao đâm thêm một nhát vào trái tim tan nát của người mẹ nghèo khổ, đang chịu đựng sự đau khổ. Có mẹ nào vui vẻ khi phải rời xa đứa con ruột thịt của mình mà không phải lo lắng nuôi nấng chúng? Tại sao bà Nghị, một phụ nữ, lại không thể hiểu được điều đó?
Có lẽ vì lợi ích đã làm cho bà trở nên mù quáng, khiến cho bà chỉ nói và hành động để thuyết phục người khác theo ý của bà, có lợi cho bà nhất trong tình thế đó? Đè nén tình mẫu tử thiêng liêng, bà Nghị thực sự là một con người tàn ác! Sự đê tiện, bủn xỉ của vợ chồng Nghị Quế rất dễ nhận biết khi họ muốn mua con bé với giá rẻ, đã làm cho chị Dậu cảm thấy nghi ngờ, tranh cãi, thậm chí hạ tuổi của đứa bé Tí xuống 6 tuổi, để giảm giá hơn nữa! Sự tàn bạo và đau đớn mà chị Dậu phải chịu là do vợ chồng Nghị Quế gây ra! Thực sự, việc một đứa trẻ trong sáng và tốt bụng như Tí bị bán bằng cách lợi dụng là không thể tha thứ được. Bà Nghị chỉ quan tâm đến việc che chở cho chó khỏi nắng mặt trời, trong khi đứa bé Tí lại bị bà buộc phải ăn cơm thừa của chó. Không có một chút tình thương nào cả!
Chuyện vơ vét chưa dừng lại ở đó. Vợ chồng Nghị Quế còn lừa dối bằng cách đê tiện nhất. Từ việc hứa mua Tí với giá hai đồng, cuối cùng họ chỉ trả lại hai đồng và lại nhận thêm một đàn chó. Chị Dậu van nài, bà hứa sẽ trả thêm hai đồng nữa nhưng lại ép chị phải ký vào hai tờ giấy mực. Chúng thực sự rất khéo léo! Chị Dậu biết mình bị ép buộc, gánh chịu tổn thất nhưng không biết phải làm gì, để chồng mình bị trói buộc đến bao lâu? Hiểu rõ tình hình khốn khó của chị, vợ chồng Nghị Quế không chỉ không giúp đỡ mà còn cố tình tạo ra nhiều áp lực hơn.
Khi văn tự mua con được viết xong, có lẽ cả chị Dậu, cả những người đọc đều sẽ bị sốc và bàng hoàng! Mua một con với giá hai đồng nhưng lại bán văn tự với giá hai mươi đồng. Thật là trắng trợn chưa từng thấy! Điều đó làm cho chị Dậu không có cơ hội nào để chuộc lại đứa con yêu quý của mình. Để giải thích cho cảnh khốn cùng của chị Dậu, bà đã nói: “Tôi nắm được đằng chuôi chứ không phải là đằng lưỡi”. Thật là đau lòng cho chị Dậu. Chị Dậu đã phải chịu nhiều đau khổ đến như vậy! Chị Dậu bảo vệ chồng mình khỏi sự bạo hành mà cảm thấy khó khăn đến vậy! Thuế áp đặt lên người dân nghèo mà lại nặng nề đến thế à?
Sự lừa dối và đố kỵ đến như vậy vẫn chưa đủ, chúng ta còn bàng hoàng hơn khi “bà” Nghị giàu có đến mức còn thiếu trả tiền cho chị, khiến việc đóng thuế vẫn là một vấn đề phức tạp. Sợi dây khốn khổ của người phụ nữ này càng ngày càng thắt chặt hơn!
Ở đây, bản chất “mặt người dạ thú”, giàu mà ngu ngốc, bất nhân đã rõ ràng hơn bao giờ hết. Thông qua việc tinh tế lựa chọn chi tiết, Ngô Tất Tố đã thành công trong việc xây dựng hai nhân vật phản diện rất đặc trưng cho một địa chủ ngu ngốc, bất nhân của thời đại.
Qua hành động và lời nói của vợ chồng Nghị Quế, chúng ta hiểu rõ hơn về bản chất tàn ác, bất nhân của một tầng lớp xã hội trong thời kỳ mà nhân dân ta vẫn còn chịu sự áp bức của thời kỳ Pháp thuộc. Đó là cách họ làm giàu, cách họ sống của một tầng lớp quên mất tình yêu đất nước và tình đồng loại. Điều này làm cho chúng ta hiểu rõ hơn tại sao nông dân ta đã tham gia cuộc cách mạng để giành lại quyền sống của họ. Tắt đèn vẫn mãi là một minh chứng hùng hồn cho tội ác của chế độ sưu thế trước Cách mạng tháng Tám 1945, không chỉ trong hiện tại mà còn trong tương lai.
Phân tích nhân vật vợ chồng Nghị Quế - Mẫu 2
Trong giai đoạn từ 1936 đến 1939, văn học hiện thực Việt Nam đã cho ra đời nhiều tác phẩm có giá trị. Giống như nhiều nhà văn khác, Ngô Tất Tố đã khám phá sâu vào cuộc sống của những người lao động nghèo khổ, từ đó phát hiện ra những bất công của chế độ thời đại. “Tắt đèn” là một tác phẩm của Ngô Tất Tố viết trong thời kỳ này, thời kỳ mà các thực dân phong kiến đang sử dụng sức mạnh để bóc lột nhân dân nghèo của Việt Nam hơn bao giờ hết.
Tác phẩm “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố là một bản tố cáo lên án sự tàn bạo của chế độ thực dân phong kiến. Trong tác phẩm này, những người nông dân được Ngô Tất Tố miêu tả rất chân thực. Họ là những người bị coi thường quyền sống. Thiếu tiền để trả thuế sau khi chết (loại thuế được đánh vào người đã khuất), họ phải bán con, bán chó.
Trong tác phẩm “Tắt đèn”, chị Dậu là một người nông dân trải qua cuộc đời đầy cay đắng, sống trong một xã hội bất công: “Người ăn không hết, kẻ lần chẳng ra”! Thiếu tiền để trả thuế, chồng chị bị bắt, chị phải bán con, bán chó để chuộc chồng. Cuộc mua bán ở nhà Nghị Quế không phải là một cuộc trao đổi bình thường, mà là một bi kịch. Sau khi mượn vàng bạc và ký nhận các điều khoản, chị Dậu đã phải đối mặt với sự tàn ác và xảo quyệt của Nghị Quế.
- Tùy mày, nếu mày tin tôi thì đưa chồng mày ký tên vào đây, và lấy chữ ký của lý trưởng nhận thực hiện nghĩa vụ, rồi mang sang đây, tôi sẽ trả tiền cho. Nếu mày không tin thì thôi. Tôi không ép buộc.
Hai hàng nước mắt kết hợp với những giọt mồ hôi lăn dài trên gò má, chị Dậu cố gắng giữ bình tĩnh. Một lúc sau, chị nói một cách quyết đoán:
- Con sẽ tuân theo lời cụ.
Sau đó, chị cầm bút chì để ông giáo mực và ghi vào bức văn tự, sau đó buộc vào dải lưng. Bước ra khỏi nhà, chị nhặt lấy cái mũ bị chó cắn rách. Rụt rời, chị đặt mũ lên đầu, cúi chào vợ chồng ông Nghị và ông giáo. Bà Nghị nhắc nhở:
- Nhớ mang cái che nắng cho những con chó kia không nóng chảy chúng nó!
( Trích từ tác phẩm “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố)
Sau khi đọc đoạn văn này, ta chứng kiến một cảnh tượng đầy xúc động. Ta không khỏi tức giận với gia đình Nghị Quế và đồng thời cảm thông sâu sắc với chị Dậu. Với tài nghệ sắc bén, Ngô Tất Tố đã dùng bút của mình, bút đã chấm đỏ bằng nước mắt của nhiều người lao động để vẽ nên bức tranh bi thương của vợ chồng Nghị Quế. Nghị Quế là biểu tượng của tầng lớp phong kiến thống trị, do chính thực dân Pháp củng cố; họ tận dụng mọi cơ hội để lợi dụng nhân dân nghèo. Nhà văn đã nắm vững bản chất, đi sâu vào tận cõi lòng tăm tối của họ để tả, xây dựng một “ông Nghị” không có gì là cao quý, đáng kính.
“ Ông Nghị” được Ngô Tất Tố miêu tả bằng cách ông “đặt tăm ngang miệng chén, vẽ chòm râu” và “đập tay xuống sập”, cùng với lời “quát”... Đọc những từ ngữ đầu tiên của đoạn văn, ta hiểu ngay tính cách của ông Nghị. Đó là một người kiêu căng, khinh thường người dân. Ngô Tất Tố đã tạo ra một nhân vật địa chủ đáng khinh bỉ. Với hành động “uống một hớp nước ..., súc miệng òng ọc mấy cái rồi nhỏ toẹt xuống nền nhà”, Nghị Quế thực sự là một kẻ đáng ghét, gớm ghiếc! Từ cách mô tả hành động, cử chỉ bên ngoài, tác giả đưa ta đến nội tâm của nhân vật. Chỉ qua hành động đầu tiên đó, ta cũng thấy tính cách tàn bạo của ông ta. Nghị Quế sử dụng quyền lực, chức vị “ông Nghị” để áp đặt lên mọi người. Trước mắt người nghèo, Nghị Quế cố gắng tăng thêm sức mạnh để bóp méo họ dễ dàng hơn.
Hãy xem cách tác giả đưa chúng ta vào nội tâm tàn ác của Nghị Quế như thế nào? “Tùy đấy...”. Lời nói của Nghị Quế sau khi “súc miệng òng ọc” đầy độc ác! Mọi cử chỉ, cách gọi tên của ông đều rất kiêu căng. Ngược lại, bà Nghị Quế lại dịu dàng, lôi kéo. Tất cả chỉ là cách họ đánh bóng, giả tạo ... Bản chất của họ là giả dối, giả tạo. Họ mua bán, mua con người với giá rẻ bèo; mua được đứa con, mảnh ruột của gia đình chị Dậu, vợ chồng Nghị Quế còn nói với chị Dậu “Thôi, tao nuôi cho là phúc”, “từ nay không phải nuôi con, nuôi chó, sướng nhé!”. Họ “nhân đạo” như thế đấy! Bây giờ họ còn tỏ ra tốt, bảo chị Dậu là “tùy”, “có tin thì điểm chỉ”. Lời nói của Nghị Quế là một lời dối trá, muốn lừa gạt chị Dậu trong khi vẻ mặt lại không hề thể hiện điều đó:
“... Không tin thì thôi. Đây tao không ép”.
Chúng ta đã quá quen với cái tâm hồn đen tối của các địa chủ, những kẻ “Đây tao không ép”. Đó chính là cách giả dối của Nghị Quế. Họ biết rằng chị Dậu đang đối mặt với bước đường cùng, và trước sau cũng sẽ phải làm theo ý họ mà thôi, vì thế họ tin chắc dù nói thế nào đi nữa, chị Dậu cũng không dám từ chối việc bán con, bán chó.
Trong toàn bộ tác phẩm, bức tranh về Nghị Quế đã được vẽ ra nhiều lần. Tác giả đã tạo dựng Nghị Quế thành một nhân vật phản diện rõ ràng. Đó là “ông Nghị” mà con đường đến vị thế “làm giàu” là “đường tắt”, từ chức lý trưởng, vượt qua các cấp phó tổng, chánh tổng, sau đó nhờ ăn, nhờ uống, nhờ quà, nhờ quan phủ, quan tỉnh hợp sức để đưa ông lên ghế Nghị viện. Ông Nghị keo kiệt “suốt năm chí tối không phải làm một lời với bất kỳ một khách nào ngoại trừ hai ngày giỗ cha và mẹ”
Nghị Quế không chỉ xấu ở cách ứng xử mà còn tàn ác trong cách bóc lột. Hắn ép chị Dậu phải ký một văn tự giả mạo để ràng buộc chị vào một món nợ không trả nổi suốt đời. Nghị Quế giống như các quan lại khác, luôn lấy của người nghèo từng đồng xu nhỏ. Hắn không khác gì “cụ lớn” thích thò tay vào đĩa trên bàn để lấy tiền “hậu tạ” từ anh Pha, một nông dân khốn cùng trong tác phẩm “Bước đường cùng” của Nguyễn Công Hoan!
Tác giả đã mô tả một cách rất sống động và tàn ác tính cách của những kẻ đó. Với nghệ thuật khéo léo, từ ngữ gợi tả, tác giả đã vẽ Nghị Quế với tính cách gian ác, ti tiện và thô bỉ, xảo quyệt. Âm mưu viết văn tự giả mạo làm sáng tỏ tính độc ác trong tâm hồn hắn.
Nhân vật Nghị Quế được tạo ra để khiến ta ghét bỏ, khinh miệt. Bên cạnh “ông Nghị” đáng khinh bỉ, người nông dân - nạn nhân của hệ thống hiện ra đầy chân thành, hiền lành và đầy bi kịch. Nếu trước đây, Ngô Tất Tố đã vẽ “ông Nghị” với sự căm phẫn, ghê tởm thì giờ đây tác giả vẽ chị Dậu với lòng thương xót và cảm thông.
“Hai hàng nước mắt kết hợp với những giọt mồ hôi rơi xuống gò má ...” khi nói về chị Dậu, tác giả bắt đầu như vậy. Ta cảm nhận được gì từ đây? Cảm xúc của sự căm hờn, lòng thương, sự cảm thông với những kẻ chịu khổ! Chị Dậu, biểu tượng cho người nông dân, đã sống trong cảnh đói nghèo, cùng cực, trong môi trường nông thôn bị bóc lột, trong tiếng trống mõ đòi thuế không ngừng, tiếng quạt gió rít liên tục, trong cảnh sản xuất suy thoái, trong cảnh bị đánh đập, áp bức, trong cảnh bán con cho địa chủ, cảnh tan nát gia đình diễn ra không ngớt. Ta đã thấu hiểu rằng nước mắt của chị Dậu không chỉ mới chảy ra từ lúc này mà đã tuôn trào từ lâu...
Mời các bạn tham khảo nội dung chi tiết tại file dưới đây!